Tài liệu Nghệ thuật tự sự về chiến tranh trong “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung - Đỗ Tiến Quân: 62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong kho tàng tiểu thuyết cổ đại Trung
Quốc, “Tam quốc diễn nghĩa” là một trong “Tứ
đại danh tác” (Bốn bộ sách lớn danh tiếng nhất).
“Tam quốc diễn nghĩa” cũng là cuốn tiểu thuyết
trường thiên đầu tiên của văn học cổ đại Trung
Quốc có chủ đề chính là chiến tranh. Tiểu thuyết
gồm 120 hồi, nhưng số lượng các cuộc chiến lớn
nhỏ được miêu tả lên tới hơn 40 trận. Trong đó
có các trận đại chiến nảy lửa, hoành tráng như:
trận Quan Độ, trận Xích Bích, trận Di Lăng,
các trận chiến nhỏ và vừa nhưng kịch liệt, tàn
khốc như: trận Bộc Dương, trận Nhai Đình.
Ngoài ra, còn có hàng trăm cảnh cận chiến với
bóng đao thương, tên đạn và sát khí đầy trời. Tác
ĐỖ TIẾN QUÂN*
*Học viện Khoa học Quân sự, ✉ quandovn@yahoo.com
Ngày nhận: 27/4/2017; Ngày hoàn thiện: 05/5/2017; Ngày duyệt đăng: 10/5/2017
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VỀ CHIẾN TRANH
TRONG “TAM QUỐC DIỄN NGHĨA”
CỦA LA QUÁN TRUNG
TÓM TẮT
Một tro...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 827 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghệ thuật tự sự về chiến tranh trong “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung - Đỗ Tiến Quân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
62 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong kho tàng tiểu thuyết cổ đại Trung
Quốc, “Tam quốc diễn nghĩa” là một trong “Tứ
đại danh tác” (Bốn bộ sách lớn danh tiếng nhất).
“Tam quốc diễn nghĩa” cũng là cuốn tiểu thuyết
trường thiên đầu tiên của văn học cổ đại Trung
Quốc có chủ đề chính là chiến tranh. Tiểu thuyết
gồm 120 hồi, nhưng số lượng các cuộc chiến lớn
nhỏ được miêu tả lên tới hơn 40 trận. Trong đó
có các trận đại chiến nảy lửa, hoành tráng như:
trận Quan Độ, trận Xích Bích, trận Di Lăng,
các trận chiến nhỏ và vừa nhưng kịch liệt, tàn
khốc như: trận Bộc Dương, trận Nhai Đình.
Ngoài ra, còn có hàng trăm cảnh cận chiến với
bóng đao thương, tên đạn và sát khí đầy trời. Tác
ĐỖ TIẾN QUÂN*
*Học viện Khoa học Quân sự, ✉ quandovn@yahoo.com
Ngày nhận: 27/4/2017; Ngày hoàn thiện: 05/5/2017; Ngày duyệt đăng: 10/5/2017
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VỀ CHIẾN TRANH
TRONG “TAM QUỐC DIỄN NGHĨA”
CỦA LA QUÁN TRUNG
TÓM TẮT
Một trong những nét đặc sắc của “Tam quốc diễn nghĩa” là nghệ thuật tự sự về chiến tranh. Bằng
phương pháp lịch sử và phương pháp thực chứng, bài viết chỉ ra, tác giả luôn nắm bắt được những
yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của cuộc chiến khi thể hiện tương quan, bố trí lực
lượng, sự vận dụng chiến thuật, chiến lược, sự biến đổi của tình hình tác chiến một cách toàn
cảnh, từ đó làm nổi bật sự tổng kết bài học kinh nghiệm chiến tranh. Nhân vật và trí tuệ luôn trở
thành trung tâm của câu chuyện, được khắc họa một cách tinh tế qua các cuộc chiến. Bằng bút
pháp linh hoạt, tinh diệu và nghệ thuật xử lý độc đáo, chiến tranh được hiện lên một cách đa dạng,
phong phú và có sức cuốn hút mạnh mẽ độc giả. Đây cũng chính là một trong những nguyên do
quan trọng để “Tam quốc diễn nghĩa” có sức sống rộng khắp và bền bỉ trong kho tàng văn học cổ
đại Trung Hoa.
Từ khóa: chiến tranh, nghệ thuật tự sự, Tam quốc diễn nghĩa.
phẩm vừa có những quyết sách chiến lược, vừa
có những chiến thuật phong phú như: hỏa công,
thủy công, mai phục, cướp trại, vây thành, đánh
viện, công tâm, gián điệp và phản gián. Điều
cần phải chỉ ra là, các chiến dịch luôn được miêu
tả hết sức sinh động, làm cho độc giả có cảm
giác như đang cùng sống với hơi thở của cuộc
chiến, hơi thở của thời đại trong tiểu thuyết.
Vì thế, “Tam quốc diễn nghĩa” trở thành hình
mẫu cho các tác phẩm viết về chiến tranh sau
này. Nhiều tác phẩm về sau cũng chịu nhiều ảnh
hưởng của “Tam quốc diễn nghĩa”, có tác phẩm
thậm chí còn bê nguyên một số tình tiết cụ thể
của “Tam quốc diễn nghĩa” để làm ngữ liệu cho
mình (沈伯俊, 2002). Nhưng trên thực tế, chưa
63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
có tác phẩm nào thực sự vượt qua được “Tam
quốc diễn nghĩa” về diễn nghĩa lịch sử với đề
tài chiến tranh. Đây cũng là điều thu hút được
sự quan tâm đặc biệt của độc giả, cũng như các
nhà nghiên cứu. Trong đó, đa phần các nghiên
cứu nghiêng về các chủ đề như phiên bản, chủ
đề tư tưởng, hình tượng nhân vật, tiêu biểu
như: “Tiến triển mới trong nghiên cứu các phiên
bản “Tam quốc diễn nghĩa””(《三国演义》版
本研究的新进展)của Thẩm Bá Tuấn, “Bàn về
nội dung tư tưởng của “Tam quốc diễn nghĩa””
(论《三国演义》的思想内容)của Lưu Duy
Tuấn, “Bàn về đặc trưng định hình hóa hình
tượng nhân vật trong “Tam quốc diễn nghĩa””(
论《三国演义》人物形象的定型化特征)
của Mẫn Hồng,.... Ngoài ra, cũng có không ít
nghiên cứu về nghệ thuật miêu tả chiến tranh,
có thể kể đến “Miêu tả chiến tranh trong “Tam
quốc diễn nghĩa””(《三国演义》的战争
描写)của Mạo Hân, Diệp Tư, “Học hỏi kinh
nghiệm nghệ thuật viết chiến tranh trong “Tam
quốc diễn nghĩa””(向《三国演义》借鉴写战
争的艺术经验)của Thường Lâm Viêm, “Bàn
về trận Xích Bích và sự chỉ đạo chiến lược của
Tào Tháo”(论赤壁之战与曹操的战略指导)
của Vương Trung Hưng. Các nghiên cứu này
đa phần hoặc chú trọng đến kết cấu tự sự của
tiểu thuyết, hoặc tập trung vào ba đại chiến dịch,
hoặc chỉ tập trung miêu tả một nhân vật cụ thể.
Tuy nhiên, khi xem xét chủ đề này dưới góc độ
riêng biệt, toàn diện với con người làm trung
tâm trong một chỉnh thể với sự thống nhất, liên
tục về không gian và thời gian, tìm hiểu những
điều ẩn giấu sau những cuộc chiến trong tiểu
thuyết như bài học kinh nghiệm, tính cách, mưu
trí con người, từ đó khẳng định giá trị nghệ
thuật cũng như giá trị thực tiễn của tác phẩm, thì
rất ít nghiên cứu đề cập tới. Vì thế, chúng tôi cho
rằng, việc tìm hiểu thành tựu nghệ thuật tự sự về
chiến tranh của La Quán Trung trong “Tam quốc
diễn nghĩa” với góc độ nghiên cứu này vẫn có ý
nghĩa trong thời đại ngày nay, góp phần vào việc
giảng dạy văn học Trung Quốc nói chung, văn
học cổ đại nói riêng.
2. NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VỀ CHIẾN
TRANH TRONG “TAM QUỐC DIỄN NGHĨA”
2.1. Miêu tả toàn cảnh chiến tranh, chú
trọng tổng kết bài học kinh nghiệm
Các tác phẩm có đề tài chiến tranh khác trước
đó thường hay miêu tả lặp đi lặp lại trình tự cố
định của cuộc chiến như dựng doanh trại, giao
chiến, nhưng trong “Tam quốc diễn nghĩa”,
La Quán Trung rất điêu luyện trong việc xử lý
các tình huống với thủ pháp linh hoạt. Tác giả
thường không quá chú trọng miêu tả cảnh chiến
đấu, mà luôn xuất phát từ đại cục để nhấn mạnh
sự đấu tranh về mặt chiến lược và chiến thuật.
Các chiến dịch lớn nhỏ trong tiểu thuyết, đặc
biệt là các trận đại chiến đều được tác giả miêu
tả toàn cảnh. Tác giả cũng luôn nắm bắt được
những yếu tố quan trọng quyết định sự thành
bại của cuộc chiến trong thể hiện tương quan,
bố trí lực lượng, sự vận dụng chiến thuật, chiến
lược và tình hình tác chiến, làm nổi bật bài
học kinh nghiệm của cuộc chiến. Chúng tôi cho
rằng, ẩn dấu đằng sau dụng ý khi miêu tả chiến
tranh một cách toàn cảnh đó, thì cũng là lúc tác
giả coi trọng tổng kết bài học kinh nghiệm của
từng cuộc chiến, và đây cũng là thông điệp tác
giả muốn gửi đến độc giả.
Trận Quan Độ là một trận quyết chiến giữa
Viên Thiệu và Tào Tháo – hai thế lực quân sự
mạnh nhất thời bấy giờ, đồng thời cũng là một
trong ba trận chiến lớn nhất trong tiểu thuyết
với thắng lợi cuối cùng thuộc về Tào Tháo. Đây
cũng là trận chiến kinh điển của chiến thuật “Lấy
ít địch nhiều” với yếu tố quyết định thành bại
của cuộc chiến là lương thực. Tác giả khắc họa
đậm nét yếu tố này. Xét theo cục diện trước cuộc
chiến, Tào Tháo chỉ có 7 vạn quân chống chọi
với 70 vạn đại quân của Viên Thiệu. Như vậy,
Viên Thiệu có ưu thế hơn hẳn về số lượng quân
tham chiến. Thời gian đầu, Viên Thiệu cậy có
quân đông, lương thực dồi dào nên nhanh chóng
chiếm thế thượng phong, nhưng quân Tào Tháo
trên dưới một lòng chiến đấu, vì thế hai bên hình
thành thế trận giằng co trong nhiều tháng trời.
64 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
Do binh lực và lương thực thiếu thốn, Tào Tháo
rơi vào thế khó có thể tiếp tục cầm cự, thậm chí
ông còn có ý định lui quân về Hứa Xương. Thời
khắc quan trọng này, Tào Tháo nghe lời của
mưu sĩ Tuân Úc để lệnh cho các tướng sĩ cố sức
giữ thế trận. Một thời gian sau, lương thực cạn
kiệt, Tào Tháo sai sứ giả đến Hứa Xương giục
Tuân Úc tiếp lương khẩn cấp, nhưng sứ giả lại
bị mưu sĩ Hứa Du của Viên Thiệu bắt giữ. Hứa
Du cầm thư giục viện lương của Tào Tháo đến
gặp Viên Thiệu, hiến kế rằng: “Tào Tháo đóng
quân tại Quan Độ, giằng co với quân ta đã lâu,
thành Hứa Xương đương nhiên không có thực
lực mạnh, nếu chúng ta đem một cánh quân tập
kích bất ngờ ban đêm, thì có thể hạ thành này,
nhân cơ hội này, hai mặt giáp công quân Tào”.
Kế này của Hứa Du vô cùng sâu hiểm, nếu thực
hiện chắc chắn sẽ đưa Tào Tháo vào thế hung
hiểm tột cùng. Nhưng Viên Thiệu không những
không đồng ý với kế sách trên, mà còn trách
mắng Hứa Du một trận rồi đuổi ra khỏi trướng.
Hứa Du vừa thẹn vừa hận, bèn chạy sang hàng
Tào, rồi hiến kế cho Tào Tháo dùng hỏa công
để thiêu đốt lương thực của quân Viên Thiệu.
Tào Tháo lập tức nghe theo, đích thân dẫn quân
đi tấn công và thiêu sạch lương thực của Viên
Thiệu tại Ô Sào, làm loạn lòng quân Viên Thiệu.
Tào Tháo lại dùng kế của Hứa Du, nhân cơ hội
Viên Thiệu phân tán binh lực để triển khai tấn
công một cách bất ngờ, từ đó giành thắng lợi
hoàn toàn. Trong trận đại chiến này, tác giả miêu
tả một cách chi tiết sự giao tranh về mặt quyết
sách chiến lược của hai bên Tào, Viên. Chỉ rõ,
do Viên Thiệu mắc sai lầm liên tiếp vào lúc quan
trọng nhất, từ đó mất đi ưu thế và chuốc lấy thất
bại thảm hại.
Chiến trường chính trận Xích Bích diễn ra
tại sông Trường Giang. Ngay từ lúc đầu, bên
liên quân Tôn - Lưu đã xác định dùng chiến
thuật chính là hỏa công, nhưng sự thành bại của
chiến thuật này lại dựa vào “phong” (gió). Do
đó, tác giả luôn xoay quanh hai yếu tố “hỏa” và
“phong” này để triển khai trận chiến. Tuy quân
Tào có hàng nghìn thuyền chiến, nhưng đều là
thuyền nhỏ, thêm vào đó “quân Bắc không quen
đi thuyền”, “sóng gió trên sông rất mạnh”. Để
tạo điều kiện cho hỏa công, Bàng Thống hiến
kế cho Tào Tháo dùng “liên hoàn kế”, khóa các
chiến thuyền với nhau bằng xích sắt, từ đó tạo
thành một thế vững chắc, ngay cả ngựa chiến
cũng có thể chạy ở trên được. Dường như, đây
là kế hay đã giải quyết được vấn đề không quen
thủy chiến của quân Tào. Nhưng do bị gắn chặt
với nhau bằng xích sắt, khi một thuyền bị cháy,
thì các thuyền khác cũng phải chịu chung số
mệnh, đây là cơ sở cho sự thành công của chiến
thuật hỏa công cho liên quân Tôn - Lưu. Khi mọi
sự chuẩn bị đã xong hết, chỉ còn thiếu một yếu
tố duy nhất là hướng gió: “đang là mùa đông,
chỉ có gió Tây Bắc, làm gì có gió Đông Nam?”.
Quân Tào đóng ở hướng đầu Tây Bắc, còn liên
quân Tôn - Lưu lại ở bờ Nam, nếu dùng hỏa
công, thì tức là tự thiêu mình. Tào Tháo hiểu rõ
điều đó nên “kê cao gối mà ngủ”, còn Chu Du
thì lo lắng đến nỗi “miệng phun máu tươi, bất
tỉnh nhân sự”. Từ đó, cảnh tượng “Thất tinh đàn
Gia Cát Lượng cầu phong” được hiện ra tự nhiên
như nó hằng phải có. Tại đây, Gia Cát Lượng
phô diễn khả năng “đoạt phép của thiên địa tạo
hóa, quỷ thần không lường” mượn được ba ngày
gió Đông Nam. Qua hàng loạt sự sắp xếp tinh
tế, quân Tào cứ từ từ rơi vào bẫy, điểm mạnh
bị biến thành điểm yếu, liên quân Tôn - Lưu thì
từ yếu thành mạnh. Cuộc chiến chính thức nổ
ra, Hoàng Cái “theo thế gió xuôi thuyền thẳng
hướng Xích Bích”, khi tiếp cận trại Tào “thuyền
trước nhất loạt nổi lửa, lửa được gió thổi trợ
giúp, từng hỏa thuyền giống như mũi tên lao vào
trại Tào, khói lửa ngất trời, thuyền quân Tào
nhanh chóng bắt lửa, lại bị xích sắt khóa chặt,
không thể thoát nổi. Bờ bên kia lại có tiếng pháo
lệnh, hỏa thuyền xông tới từ bốn hướng., ba
bề mặt sông lửa bốc theo gió, một màu đỏ rực
rợp trời”, quân Tào bị nhấn chìm trong biển lửa
mênh mông.
Khi miêu tả toàn cảnh chiến tranh, tác giả còn
vận dụng thủ pháp “trong động có tĩnh”, làm cho
quá trình chiến đấu căng thẳng, khốc liệt luôn
xen kẽ với những khoảnh khắc lắng đọng, từ
đó chiến tranh dường như đã trở thành một bản
65KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
nhạc với những nốt trầm bổng, cuốn hút mạnh
mẽ độc giả. Ví dụ như Hồi thứ 95, khi chỉ có
2500 quân đối mặt với 15 vạn đại quân của Tư
Mã Ý, nhưng Gia Cát Lượng rất nho nhã, ung
dung “đốt hương gảy đàn”; trận Xích Bích, Tào
Tháo “say rượu ngâm thơ”; hoặc cảnh Tưởng
Cán gặp Bàng Thống trước trận Xích Bích:
“Đêm ấy sao đầy trời, Tưởng Cán đi ra khỏi am,
chợt nghe tiếng người đọc sách tới gần thấy
có người đang xem binh thơ trước đèn, trên vách
treo thanh gươm”. Trước trận đại chiến, hai bờ
Trường Giang sát khí đằng đằng, vậy mà vẫn có
người thắp đèn đọc sách. Đây thực sự là những
nét chấm phá đầy thi vị, lắng đọng giữa bóng ma
chiến tranh đang phủ khắp mọi nơi.
Ngoài ra, nghệ thuật miêu tả toàn cảnh cuộc
chiến còn được thể hiện ở chỗ, các cuộc chiến
lớn nhỏ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau thành
một hệ thống. Khi so sánh với một tác phẩm nổi
tiếng khác là “Tả truyện” thời Xuân Thu, trong
đó mỗi một chiến dịch thường được miêu tả một
cách độc lập, thì có thể thấy “Tam quốc diễn
nghĩa” đã có sự phát triển nhảy vọt. Nếu chia
các cuộc chiến theo các cấp độ, thì trận Quan
Độ, Xích Bích, Di Lăng có thể xếp vào cấp 1,
trận 18 lộ chư hầu thảo phạt Đổng Trác, phá Kí
Châu, định Liêu Đông là cấp 2, và hàng loạt các
trận chiến nhỏ khác là cấp 3. Các trận chiến cấp
1 quyết định các trận chiến cấp 2, cấp 3, đồng
thời, hàng loạt các trận chiến cấp 2, cấp 3 này lại
là cơ sở để bùng phát các trận chiến cấp 1, giúp
hình thành nên tầng lớp, thứ bậc, hệ thống trong
nghệ thuật miêu tả chiến tranh của tác giả.
Có thể thấy, về phương diện miêu tả chiến
tranh, “Tam Quốc diễn nghĩa” đã phá vỡ tư duy
logic chiến tranh thông thường, tức là không
miêu tả thuần túy cuộc chiến, mà luôn thể hiện
đầy đủ toàn cảnh quan hệ, bối cảnh phức tạp
về chính trị, ngoại giao của hai bên giao chiến,
đồng thời đi tìm hiểu nguyên nhân thành bại của
cuộc chiến trong mối quan hệ phức tạp đó, chú
trọng tổng kết bài học kinh nghiệm. Tác giả luôn
chú ý tính hệ thống của cuộc chiến, xen vào đó là
những nét chấm phá tinh tế, có sức hấp dẫn nghệ
thuật sâu sắc. Đây cũng chính là điểm khác biệt
lớn khi so sánh với các tác phẩm khác cùng chủ
đề trong văn học cổ đại Trung Quốc.
2.2. Lấy nhân vật làm trung tâm, thông
qua miêu tả chiến tranh để khắc họa hình
tượng nhân vật
Văn học là phản ảnh của xã hội, việc khắc
họa hình tượng nhân vật là một nhiệm vụ trọng
tâm trong sáng tác văn học. Tào Học Vĩ cho
rằng, một trong những đặc điểm của La Quán
Trung khi miêu tả về chiến tranh là “tạo nên mâu
thuẫn trong xung đột tính cách của nhân vật, từ
đó triển khai các tình tiết, rồi lại khắc họa tính
cách nhân vật trong khi phát triển các tình tiết”
(曹学伟, 1986, tr.260). Tác giả luôn đặt việc
khắc họa nhân vật lên vị trí trọng tâm của câu
chuyện, thông qua chiến tranh để bộc lộ rõ nét
bản chất linh hồn, tính cách, thần tháicủa con
người, từ đó làm cho chiến tranh hiện ra một cách
đa dạng, biến hóa khôn cùng, lại làm cho hình
tượng nhân vật cũng trở nên vô cùng sống động.
Như đã nói ở phần trên, trận Quan Độ là cuộc
quyết chiến giữa hai tập đoàn quân sự Viên, Tào,
nhưng trọng tâm của tiểu thuyết ở phần này lại
tập trung miêu tả hình tượng thủ lĩnh của hai
bên. Ngay từ đầu, tác giả đã so sánh về sự khác
biệt giữa tính cách của Viên Thiệu và Tào Tháo,
từ đó dự báo nguyên nhân thành bại của hai bên
trong cuộc chiến. Viên Thiệu tuy thích dùng mưu
kế nhưng thiếu quyết đoán, không biết trọng
dụng người tài. Phát động chiến tranh mà không
lắng nghe ý kiến can gián đầy sáng suốt của mưu
sĩ Điền Phong. Trong thời khắc quyết định sự
thành bại của cuộc chiến lại không nghe lời của
Thư Thụ: “kiên trì giữ trận, không xuất binh, đợi
cho quân Tào lương thực cạn kiệt, không đánh
mà tan”. Viên Thiệu cũng không tiếp thu ý kiến
của mưu sĩ Thẩm Phối và Hứa Du, tự quyết
định điều tướng nghiện rượu Thuần Vu Quỳnh
canh giữ lương ở Ô Sào, làm cho Ô Sào thất thủ,
lương thảo bị đốt sạch, Hứa Du cùng đường phải
sang hàng quân Tào. Trong lúc nguy cấp, Viên
Thiệu lại không nghe theo Trương Cáp, mà lại
tin kế của Quách Đồ, làm cho Trương Cáp, Cao
66 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
Lãm rơi vào thế phải hàng Tào, từ đó dẫn đến
thất bại hoàn toàn của Viên Thiệu. Ngược lại,
trong xây dựng chiến thuật tác chiến, Tào Tháo
luôn biết lắng nghe ý kiến của Tuân Du, Tuân
Úc; khi nghe tin Hứa Du đến hàng “Tháo vui
mừng đến nỗi không kịp xỏ giày, đi ra ngoài đón
tiếp”, chỉ nội chi tiết này thôi đã đủ nói lên sự
tiếp đón Hứa Du long trọng và chân thành đến
mức nào; Tào Tháo cũng không mảy may nghi
hoặc đề nghị của Hứa Du về việc đốt lương thảo
của Viên Thiệu, mà còn đích thân dẫn quân đi
tập kích Ô Sào; khi Trương Cáp, Cao Lãm đến
hàng thì lập tức trọng dụng, đồng thời lệnh cho
hai tướng này làm tiên phong dẫn quân truy kích
tàn quân của Viên Thiệu, giành được thắng lợi
giòn giã. Cả cuộc chiến Quan Độ, tính cách, trí
tuệ của thủ lĩnh tối cao cả hai phía được miêu
tả một cách rõ ràng. Từ đây, nguyên nhân thành
bại của cuộc chiến cũng được bộc lộ một cách
rõ nét. Ngay cả sau khi chiến dịch kết thúc, tác
giả còn bổ sung thêm một cảnh vô cùng đặc sắc:
một bên là cảnh Viên Thiệu do đố kỵ hiền tài mà
giết mưu sĩ Điền Phong – người từng hết lòng
can gián Viên xuất quân do đoán trước được kết
cục thảm bại của quân Viên Thiệu, còn một bên
là cảnh Tào Tháo đốt hết tài liệu hồ sơ cũ của
những người theo hàng mình, thể hiện sự khoan
hồng độ lượng của người lãnh đạo. Có thể thấy,
cuộc chiến kết thúc thì cũng là lúc hình tượng
hai nhân vật chính trên được bộc lộ một cách rõ
ràng hơn bao giờ hết trước mắt độc giả.
Trận Di Lăng cũng như vậy, nếu chỉ đọc qua
thì độc giả có cảm giác đây chỉ là quá trình và
kết quả của cuộc chiến do Lưu Bị phát động
nhằm tiêu diệt quân Ngô, nhưng khi xem xét thật
kỹ, mới thấy rằng, trọng điểm của cuộc chiến
nằm ở nhân vật Lục Tốn. Tuy thân phận không
sánh ngang được với Lưu Bị, nhưng bằng sự cẩn
trọng, trầm tĩnh, tỉnh táo và tài trí của mình, Lục
Tốn đã giành chiến thắng oanh liệt trước Lưu Bị
– người nôn nóng, chủ quan khinh địch.
Việc hoạch định và tổ chức chiến tranh
không tách rời vai trò của con người, mỗi thành
công hay thất bại của cuộc chiến cũng đều có
liên quan chặt chẽ đến tài năng và tính cách của
người lãnh đạo, chỉ huy. Đây chính là điều tác giả
muốn gửi gắm đến độc giả. Qua các cuộc chiến,
những nhân vật trong “Tam quốc diễn nghĩa” lần
lượt được hiện ra với các sắc thái khác nhau, có
những anh hùng mang tính cách điển hình, cũng
có những hình tượng nghệ thuật độc đáo, ví dụ
gian hùng như Tào Tháo, trung nghĩa anh dũng
như Quan Vũ, gan to lớn mật như Triệu Vân,
tâm địa hẹp hòi như Chu Du, trung hậu thật thà
như Lỗ Túc.... Những nhân vật điển hình đó đều
có tính cách nổi bật, và tính cách của họ cũng
chủ yếu được khắc họa một cách rõ ràng qua
chiến tranh – một môi trường hết sức tiêu biểu
của tác phẩm.
2.3. Lấy “mưu trí” làm trọng tâm miêu tả
Khi so sánh với các tiểu thuyết trường thiên
cổ đại khác của Trung Quốc, “Tam quốc diễn
nghĩa” còn có một điểm thu hút lớn đối với độc
giả. Đó là, ngoài sức hấp dẫn về mặt thẩm mỹ
văn học, còn có thể thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu tri
thức của họ. Thậm chí hoàng đế Khang Hi từng
hạ chiếu chỉ in một nghìn cuốn để tặng cho các
tướng soái, tổng binh vùng Mãn Châu, Mông
Cổ. Các thủ lĩnh nghĩa quân như Trương Hiến
Trung, Lý Tự Thành, Hồng Tú Toàn đều coi
“Tam quốc diễn nghĩa” là “cuốn bí kíp duy nhất
trong trướng”, để học hỏi nghệ thuật tác chiến,
cũng vì thế mà có tác giả cho rằng, tiểu thuyết
có giá trị thực chiến nhất định (朱一玄, 1990,
tr.748). Nhưng lại có nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng, giá trị thực sự của tiểu thuyết nằm ở chỗ,
những triết lý sâu xa về trí tuệ con người tiềm
ẩn trong miêu tả về những cuộc chiến được thể
hiện một cách tinh tế, khéo léo (鲁德才,陈洪,
1988, tr.6).
Trí tuệ trong tiểu thuyết thường được thể
hiện dưới các “kế”, như “Liên hoàn kế”, “Khổ
nhục kế”, “Phản gián kế”, “Mỹ nhân kế”. Gần
như hầu hết ba mươi sáu kế trong binh pháp cổ
đại của Trung Quốc đều được tái hiện trong tiểu
thuyết, thậm chí còn sâu sắc hơn cả trong binh
pháp cổ (任昭坤, 2003).
67KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
“Phản gián kế” là một kế sách hữu dụng mà
nhiều lần tiểu thuyết đề cập tới, đặc sắc nhất là
“phản gián kế” mà Tào Tháo áp dụng để ly gián
Mã Siêu, Hàn Toại. Năm Kiến An thứ 16 (năm
221), nhằm báo phụ thù, Mã Siêu liên minh với
Hàn Toại khởi binh Tây Lương đánh Tào. Sau
một số trận giao tranh, thế trận bắt đầu không có
lợi với liên minh Mã Hàn. Để đảm bảo thắng lợi
cho trận quyết chiến, Tào Tháo dùng “phản gián
kế” một cách hết sức vi diệu. Vốn cha của Tào
Tháo và cha của Hàn Toại ngày trước cùng thi đỗ
khoa Hiếu Liêm, Tào Tháo và Hàn Toại lại cùng
theo nghiệp đèn sách, khoa cử, nên khi một mình
hẹn gặp Hàn Toại trước trận, Tào Tháo “chỉ nhắc
chuyện xưa, không đề cập đến quân sự”, điều
này làm cho Mã Siêu “lòng đầy hồ nghi, rút quân
mà không nói một lời”. Tào Tháo về đến trại, y
theo mưu của Giả Hủ, đích thân viết một bức thư
gửi cho Hàn Toại, trong thư có nhiều chỗ cố ý
dập xóa, biểu đạt hàm hồ, làm cho Mã Siêu càng
nghi ngờ gấp bội. Sau cùng Tào lại sai Tào Hồng
xác nhận trước mặt, làm cho Hàn Toại hàm oan
mà không thể nào giải thích được, liên minh Mã
- Hàn cũng vì thế mà tan rã. Nhân cơ hội này,
Tào Tháo tiến đánh phá tan quân Tây Lương một
cách dễ dàng.
Về “Không thành kế”, Hồi thứ 95 trong tiểu
thuyết miêu tả cảnh Gia Cát Lượng xuất binh Kỳ
Sơn, đại quân đến đâu giành thắng lợi đến đó.
Không ngờ, Mã Tốc làm mất Nhai Đình, Gia Cát
Lượng đành phải rút quân. Khi rút, lại lệnh cho
thuộc tướng đem quân đi chặn đánh địch, bảo
vệ cho đại quân rút lui. Tại Tây Thành, Gia Cát
Lượng bất ngờ bị rơi vào vòng vây của Tư Mã
Ý. Lúc này, bên cạnh Gia Cát Lượng không còn
một viên đại tướng nào, “chỉ còn một bọn quan
văn, mà trong số năm nghìn quân theo Khổng
Minh thì đã chia một nửa cho vận lương về trước
rồicác quan nghe tin ấy, ai nấy đều mất vía”.
Trong lúc nguy cấp này, Khổng Minh hạ lệnh
“hạ cờ, thôi đánh trống, mở toang bốn cửa thành,
mỗi cửa cắt hai chục lính ăn mặc giả làm dân
thường quét tước dọn dẹpKhổng Minh ngồi
trên địch lâu, đốt hương gảy đàn”. Tư Mã Ý xem
xong, lấy làm nghi lắm, nói “Gia Cát Lượng
xưa nay vốn cẩn thận, chưa từng dám làm liều.
Nay cửa thành mở toang thế kia, tất có quân mai
phục”, liền đổi hậu quân làm tiền quân, nhằm
hướng Bắc Sơn rút chạy. Có thể nói, không thành
kế của Gia Cát Lượng đã đạt được thành công
rực rỡ, giống như lời của các tướng dưới quyền
“Thừa tướng huyền cơ, quỷ thần cũng không
biết đâu mà lường”. Đây là chi tiết đặc sắc mang
đầy chất kịch tính, rất phù hợp để thể hiện đảm
lược và trí tuệ phi thường của Gia Cát Lượng, là
một cuộc “so găng” tâm lý giữa Gia Cát Lượng
và Tư Mã Ý. Khi Ý dẫn quân đến Tây Thành,
đối diện với thế trận “không thành” mà Khổng
Minh sắp đặt, diễn biến tâm lý của Ý là: Gia Cát
bình sinh không dám làm liều, vì thế đây chắc
chắn là nơi hung hiểm với phục binh ở trong. Ở
đây, Tư Mã Ý cho rằng, phương pháp suy luận
của mình là chính xác, logic do đã căn cứ vào sự
hiểu biết đối phương để đưa ra phán đoán. Còn
suy luận của Khổng Minh lại cao hơn một bậc,
đó là trên cơ sở việc nắm địch, suy đoán địch sẽ
phán đoán về ta như thế nào để đưa ra quyết sách
“không thành kế” như vậy. Trong cuộc chiến cân
não này, Khổng Minh đã chứng tỏ tài trí hơn hẳn
đối phương của mình. Từ đây, “Không thành
kế” tại Tây Thành trở thành điển hình tiêu biểu
cho chiến thuật này trong lịch sử quân sự cổ đại
Trung Quốc. Đồng thời, nghệ thuật miêu tả tâm
lý đối với Tư Mã Ý và Gia Cát Lượng cũng đã
làm nổi bật những nguyên tắc cơ bản khi vận
dụng chiến thuật đó, vì thế, tuy là hư cấu về văn
học, nhưng lại sâu sắc và hình tượng hơn tất cả
các binh thư khác thời cổ đại.
Còn nhiều kế sách khác thể hiện “mưu trí”
tuyệt vời của nhân vật trong tiểu thuyết, ví như
“Mỹ nhân kế”, “Khổ nhục kế” mà Điêu Thuyền
áp dụng nhằm chia rẽ liên minh Đổng Trác - Lã
Bố. Đương thời, liên minh này hoành hành khắp
triều Hán, lạm sát bá quan văn võ và thường dân
vô tội. Trong hoàn cảnh ấy, quan tư đồ Vương
Doãn nảy ra ý định lập kế liên hoàn để chống lại.
Ông nói với con gái nuôi tài sắc là Điêu Thuyền:
“Nguyên cha con Đổng Trác là phường háo sắc,
cha muốn dùng “liên hoàn kế”, trước đem con
hứa gả cho Bố, rồi sau lại hiến cho Trác. Con ở
68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
giữa tùy cơ ứng biến làm cho cha con nó trở mặt
giết nhau”. Nghe lời cha, Điêu Thuyền một mặt
khóc lóc với Lã Bố là mình bị Đổng Trác cướp
đi cưỡng bức, một mặt lại nỉ non với Đổng Trác
là mình bị Lã Bố sàm sỡ. Cứ thế, liên minh này
dần bị rạn nứt, và cuối cùng là cao trào Lã Bố
giết Đổng Trác tại triều ca. Với trí thông minh
và “liên hoàn kế” được thực hiện một cách hoàn
hảo, mỹ nữ Điêu Thuyền đã làm được một trận
chiến phi thường với thành công vang dội. “Mỹ
nhân kế”, “Khổ nhục kế” và tài năng của Điêu
Thuyền được nâng lên hàng nghệ thuật sánh vai
với các anh hùng xuất chúng khác. Điều này
cũng giống như nhận xét của nhà phê bình văn
học Mao Tông Cương: “Mười tám lộ quân chư
hầu không giết nổi Đổng Trác, mà một thiếu nữ
đào tơ liễu yếu như Điêu Thuyền lại làm được
điều đó. Ba anh em Lưu, Quan, Trương không
thắng nổi Lã Bố, mà chỉ một nàng Điêu Thuyền
thắng nổi. Lấy chăn chiếu làm chiến trường, lấy
son phấn làm giáp khôi, lấy mày ngài làm binh
khí, tên đạn, lấy nước mắt nũng nịu làm mai
phục, lấy lời tình tứ ngọt ngào làm chiến lược
mưu cơ. Xem thế thì cái bản lãnh của “nữ tướng
quân” quả là tuyệt cao cường đáng sợ thay” (毛
宗岗, 2006, tr.26). Sự mưu trí trong kế sách này
đã được tác giả đẩy lên một tầm cao khó ai có thể
bì kịp, trở thành “kinh điển của kinh điển” trong
chiến thuật tác chiến thời cổ đại, đạt đến đỉnh
cao của nghệ thuật miêu tả chiến tranh trong văn
học cổ đại Trung Quốc.
2.4. Góc độ miêu tả chiến tranh đa dạng,
bút pháp linh hoạt, tinh diệu
Đầu thế kỷ 20, cùng với sự du nhập với số
lượng lớn các tác phẩm văn học phương Tây,
nhiều học giả Trung Quốc cũng bắt đầu tiến
hành nghiên cứu so sánh văn học Trung Quốc
với nước ngoài. Đây cũng là thời gian xuất hiện
một số tiếng nói nghi ngờ thành tựu nghệ thuật
miêu tả chiến tranh của “Tam quốc diễn nghĩa”.
Ví dụ như, Giải Thao cho rằng: “Luận chiến
trong “Tam quốc diễn nghĩa” rất tầm thường
về phương diện luận bàn chiến sự, tiểu thuyết
Tây dương sinh động, có hồn hơn hẳn nước ta”
(朱一玄, 1990, tr.130), hoặc như Trứ Siêu: “Tiểu
thuyết Tây dương giỏi về miêu tả chiến tranh
còn như tiểu thuyết chiến tranh như “Tam quốc
diễn nghĩa” của Trung Quốc, số lượng cuộc
chiến nhiều, một người viết quá nhiều cuộc
chiến, thì không thể làm cho chúng trở nên
sinh động được. Ngoài ra, quân sự Tây dương
với pháo đạn được thể hiện rộng khắp trong tác
phẩm, còn Trung Quốc thì lại không có thứ vũ
khí đó, vì thế nếu không luận chiến thì thôi, còn
nếu luận chiến thì chỉ là đao kiếm. Nếu luận về
hỏa công và thủy công, thì các sách trước đó đã
nói hết rồi, đây cũng chính là điều làm cho tác
phẩm viết về chiến tranh của Trung Quốc không
sinh động được” (毛宗岗, 2006, tr.137). Dưới
một góc độ nhất định, những nhận xét trên cũng
phần nào nói lên căn bệnh cố hữu của tiểu thuyết
cổ đại Trung Quốc khi viết về chiến tranh. Thế
nhưng, cho dù “Tam quốc diễn nghĩa” xuất hiện
nhiều trận chiến có vẻ tương tự nhau, nhưng với
trí tưởng tượng phong phú, thiên phú quân sự
và bút pháp của bậc thầy về ngôn ngữ La Quán
Trung, những cuộc chiến luôn được hiện ra với
nhiều dáng vẻ và màu sắc khác nhau.
“Hỏa công” là một phương thức tác chiến
thường xuất hiện trong “Tam quốc diễn nghĩa”.
Theo thống kê, có 89 lần tiểu thuyết nhắc đến
chiến thuật này, trong đó, có 24 lần dùng hỏa
công trực tiếp tiêu diệt địch; 42 lần dùng hỏa
công làm cho địch rối loạn, nhân cơ hội đó tiêu
diệt địch; 16 lần phóng hỏa để làm tín hiệu liên
lạc hợp đồng tác chiến; 7 lần phóng hỏa đốt
cháy kho tàng, giao thông, thành trì địch. Với số
lượng dùng hỏa công nhiều như vậy, nhưng mỗi
lần lại được thực hiện một cách khác nhau. Ví
dụ như cảnh Lã Bố dùng lửa đốt Bộc Dương, là
“đóng cửa thành lại mà đốt”, làm cho Tào Tháo
“cánh tay bị bỏng, râu tóc đều bị đốt”, may nhờ
có Điển Vi cứu mới thoát nạn; Khổng Minh dùng
lửa đốt gò Bác Vọng, là lợi dụng địa hình núi
rừng phức tạp, trước đốt cây gỗ, sau đốt lau sậy,
làm cho quân Tào chết nhiều không kể xiết; trận
Tân Dã, Khổng Minh trước hết rút quân khỏi
thành để cho quân địch tới chiếm đóng, rồi nhân
lúc địch chủ quan để dùng hỏa công tiêu diệt
69KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
địch “lệnh cho quân mai phục ba hướng cửa Tây,
Nam, Bắc nhất tề bắn tên lửa vào trong thành
khắp huyện thành là lửa đỏ”, đợi cho quân Tào
rút khỏi Tân Dã qua sông Bạch, lại sai Quan
Vũ xả nước xuống nhấn chìm địch. Ở đây, việc
phối hợp liên hoàn kế hỏa công với thủy công
đã giúp Khổng Minh giành thắng lợi hoàn toàn
cho cuộc chiến; trận Xích Bích, Chu Du dùng kế
làm cho quân Tào cột chặt các chiến thuyền với
nhau bằng xích sắt, sau đó nhân sức gió Đông
Nam, lệnh cho Hoàng Cái dẫn đội hỏa thuyền
làm tiên phong xông thẳng vào thủy trại quân
Tào, “thuyền quân Tào nhanh chóng bắt lửa, lại
bị xích sắt khóa chặt, không thể thoát nổi”; trận
Di Lăng, Lục Tốn dùng lửa đốt doanh trại quân
Thục, đó chính bởi vì do Lưu Bị đóng quân ở
“mé núi, nơi thấp và hiểm trở, đấy là binh gia đại
kỵ”. Lục Tốn cũng lợi dụng gió Đông Nam để
thực hiện hỏa công “có 40 trại Thục, đốt 20 trại,
cứ cách một trại đốt một trại”, làm cho “lửa cháy
rừng rực khắp nơi, xác chết đè lên nhau tắc cả
dòng sông”; trận Bàn Xà, Khổng Minh dùng lửa
đốt quân giáp mây của Ngột Đột Cốt, trước hết
cho người chôn địa lôi, sau đó dụ quân Man vào
trong hang để đốt “cỗ xe trước mặt, toàn chứa
củi khô cỏ ráo, bốc cháy đùng đùng cửa hang
đằng sau thuốc súng nổ tứ tung lửa ở hai bên
sườn núi ném ra, lửa bay đến đâu, địa lôi dưới
đất nổ tung đến đấy. Trong hang đỏ rực toàn
lửa, hơi bén vào áo giáp mây là cháy. Ngột Đột
Cốt và ba vạn quân ôm nhau chết thui cả trong
Bàn Xà”. Đều là hỏa công, nhưng tính cách,
phong thái của người thực thi cũng không giống
nhau, đặc điểm thời tiết, khí hậu, địa lý của
chiến trường, cách dùng hỏa công cũng rất khác
nhau. Nhưng điều giống nhau là, tất cả những
cảnh tượng đó được tái hiện như thực, làm cho
độc giả đắm chìm trong thế giới tiểu thuyết, như
đang sống với thực tại những cuộc chiến mà tiểu
thuyết đang bày ra trước mắt.
“Thủy công” cũng là phương thức tác chiến
đặc sắc được xuất hiện nhiều lần trong tiểu
thuyết. Ví dụ như trận Nghiệp Thành, Tào Tháo
vây thành đánh mãi không được, bèn quyết định
dùng nước sông Chương để vây thành “trước
hết sai quân đào hào dài 40 dặm quanh Nghiệp
Thành đào rất nông” để làm cho quân Viên
Thượng coi thường, cho rằng con hào đó vô
hại, nhưng đến đêm thì “tăng quân gấp mười
lần để đào, đến trời sáng thì hào đã rộng và sâu
hai trượng, đưa nước sông Chương vào vây
thành”. Bị cô lập, Nghiệp Thành thiếu lương
thực trầm trọng, quân dân chết đói nhiều”; trận
Phàn Thành, Quan Vũ lợi dụng bảy đạo quân do
Vu Cấm chỉ huy hạ trại tại vùng đất thấp Tăng
Khẩu, bèn sai quân phá đê đưa nước sông Tương
Giang nhấn chìm quân Tào “nước tràn lan bốn
phía, bảy đạo quân hỗn loạn, người bị nước cuốn
trôi nhiều không kể xiết”.
Có thể thấy, cảnh hỏa công, thủy công trong
tiểu thuyết một mặt dựa vào thực sử, một mặt
lại căn cứ vào sự khác biệt của thời gian, địa
điểm, điều kiện, tính cách, trí tuệ của chủ
tướng, cùng với trí tưởng tượng phong phú của
tác giả đã được hiện ra hết sức sinh động, mỗi
lần áp dụng lại mang một dáng vẻ tươi mới mà
không hề trùng lặp. Điều này cũng giống như
nhận xét của nhà phê bình văn học Mao Tông
Cương: “Cảnh hỏa công, thủy công trong “Tam
quốc diễn nghĩa” không chỉ xuất hiện một lần,
nhưng để tìm được sự trùng lặp, dù chỉ một chữ
thôi cũng quá khó điều này cũng giống như
đều là cây, là cành, là lá, là hoa, nhưng gốc rễ,
nụ, hương, quả lại khác nhau, đều có màu sắc
riêng của mình” (毛宗岗, 2006,tr.6).
Một điều dễ dàng nhận thấy, phương pháp
miêu tả chiến tranh của La Quán Trung rất linh
hoạt, tinh diệu. Tác giả rất điêu luyện trong việc
căn cứ vào tình huống chiến tranh để có những
xử lý về mặt nghệ thuật cho phù hợp. Vì thế,
chiến tranh dưới ngòi bút của ông hiện ra rất
phong phú, đa dạng, hoặc là lấy yếu thắng mạnh,
hoặc lấy mạnh hiếp yếu, hoặc thắng trước thua
sau, hoặc thắng trong thế thua, hoặc dùng hỏa
công, hoặc dùng thủy công, hoặc dùng trí, hoặc
cường tập, hình thức đa dạng, biến hóa khôn
lường. Dưới ngòi bút của tác giả, các cuộc chiến
dù lớn hay nhỏ đều có đặc trưng riêng, không
trùng lặp, điều này cũng giống như sự phức tạp
và đa dạng của bản chất chiến tranh (谢灵, 2010).
70 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
3. KẾT LUẬN
Là tác giả bộ tiểu thuyết trường thiên diễn
nghĩa lịch sử đầu tiên với đề tài chiến tranh làm
chủ đạo trong văn học cổ đại Trung Quốc, trong
quá trình sáng tác của mình, La Quán Trung đã
tiếp thu rộng rãi các yếu tố dã sử, chính sử và
các bài học kinh nghiệm của các tác giả trước
đó, kết hợp với trí tưởng tượng phong phú và
ngòi bút tinh diệu của mình để đem lại cho độc
giả những khắc họa hoành tráng, toàn cảnh một
thời đại lịch sử đầy biến động của Trung Quốc.
Ở đó, những cuộc chiến luôn được hiện ra một
cách sinh động, giàu hình ảnh, là điển hình về
nghệ thuật tự sự về chiến tranh trong văn học cổ
đại Trung Quốc, ảnh hưởng đến lớp lớp thế hệ
nhà văn trong và ngoài Trung Quốc cho đến cả
ngày nay./.
Tài liệu tham khảo:
1.曹学伟(1986),“夷陵之战”的情
节和人物塑造,三国演义学刊,四川省社会
科学院出版社,成都。
2.纪德君(2000),明清历史演义小说
艺术论,北京师范大学出版社,北京。
3.鲁德才,陈洪(1988),《三国演义》
中的军事心理学,海南大学学报,第3期。
4.毛宗岗(2006),毛宗岗批评本三国
演义,岳麓书社出版社,长沙。
5.梅新林、韩伟(2002),《三国演
义》研究的百年回顾与前瞻,文学评论,第
1期。
6.任昭坤(2003),《三国演义》是最
优秀的战争历史小说——《三国》军事校注
本的成书理由,天府新论,第4期。
7.沈伯俊(2002),三国演义新探,四
川人民出版社,成都。
8.谢灵(2010),谈《三国演义》战争
艺术的审美价值,黑龙江史志,第5期。
9.郑铁生(2000),三国演义叙述艺
术,新华出版社,北京。
10.朱一玄(1990),明清小说资料汇
编,齐鲁书社,济南。
THE NARRATIVE ART ABOUT WAR IN “THE ROMANCE OF THREE KINGDOMS”
BY LUO GUAN ZHONG
DO TIEN QUAN
Abstract: One of the characteristics of “The Romance of Three Kingdoms” is the narrative art
of war. By historical and positive method, the article shows that the author always grasps the key
factors that determine the success or failure of the war when showing correlation, deployment,
the use of tactics and strategy, the change of combat situation ... in a panoramic way, thereby
highlighting the lessons learned from the war. Characters and wisdom have always been the heart
of the story, delicately portrayed in battles. With its versatile, sophisticated and unique handling
art, war is manifested in a diversified and rich way, it has a powerful appeal to readers. This is
also one of the important reasons for “The Romance of Three Kingdoms” to have a wide and
persistent vitality in the ancient Chinese literature.
Keywords: war, narrative art, Three Kingdoms.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 59_2474_2137244.pdf