Tài liệu Nét phong phú và đặc thù trong văn hóa Chăm ở An Giang: Nét phong phú và đặc thù trong văn hóa đồng bằng sông Cửu Long: 521
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
NÉT PHONG PHÚ VÀ ĐẶC THÙ TRONG VĂN HÓA CHĂM
Ở AN GIANG: NÉT PHONG PHÚ VÀ ĐẶC THÙ
TRONG VĂN HÓA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Th.S. Nguyễn Văn Trang
TÓM TẮT
Cộng đồng người Chăm ở An Giang và nền văn hóa truyền thống chịu
ảnh hưởng Hồi giáo Islam của họ là nét đặt thù trong khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long. Bài viết khái quát về cộng đồng và văn hóa Chăm ở An Giang.
Nghiên cứu về cộng đồng và văn hóa Chăm ở An Giang nhằm bảo tồn và phát
huy những nét đẹp của bản sắc dân dân tộc, làm phong phú tính đa màu sắc của
văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long và góp phần định hướng phát triển những
giá trị mới trên cơ sở dung hợp các giá trị văn hóa của các dân tộc trong vùng.
Từ khóa: An Giang, người Chăm, văn hóa Chăm, Islam.
rong sự thống nhất mà đa dạng của nền văn hóa Việt Nam, Đồng bằng
sông Cửu Long được nhắc đến là vùng sông nước với nhiều kênh rạch;
đa sắc tộc, nhiều ...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 459 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nét phong phú và đặc thù trong văn hóa Chăm ở An Giang: Nét phong phú và đặc thù trong văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
521
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
NÉT PHONG PHÚ VÀ ĐẶC THÙ TRONG VĂN HÓA CHĂM
Ở AN GIANG: NÉT PHONG PHÚ VÀ ĐẶC THÙ
TRONG VĂN HÓA ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Th.S. Nguyễn Văn Trang
TÓM TẮT
Cộng đồng người Chăm ở An Giang và nền văn hóa truyền thống chịu
ảnh hưởng Hồi giáo Islam của họ là nét đặt thù trong khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long. Bài viết khái quát về cộng đồng và văn hóa Chăm ở An Giang.
Nghiên cứu về cộng đồng và văn hóa Chăm ở An Giang nhằm bảo tồn và phát
huy những nét đẹp của bản sắc dân dân tộc, làm phong phú tính đa màu sắc của
văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long và góp phần định hướng phát triển những
giá trị mới trên cơ sở dung hợp các giá trị văn hóa của các dân tộc trong vùng.
Từ khóa: An Giang, người Chăm, văn hóa Chăm, Islam.
rong sự thống nhất mà đa dạng của nền văn hóa Việt Nam, Đồng bằng
sông Cửu Long được nhắc đến là vùng sông nước với nhiều kênh rạch;
đa sắc tộc, nhiều nhất là Kinh, Khơmer, Chăm và Hoa; làng xóm mở, không có
lũy tre như Bắc và Trung: tính tình người dân phóng khoáng; có nhiều tín
ngưỡng tôn giáo phức tạp (Bửu sơn kỳ hương, Tứ ân hiếu nghĩa, Phật giáo Hòa
hảo, các hội kín,); nơi sản sinh Đờn ca tài tử, di sản văn hóa thế giới được
UNESCO công nhận và con người rất linh hoạt, năng động trong giao lưu, hội
nhập quốc tế. Đặc điểm nổi bật trong tính cách của cư dân Đồng bằng sông Cửu
Long là ưa tự do và phóng khoáng. Chưa nơi nào trên đất nước Việt Nam có
những câu ca dao như “Ra đi gặp vịt cũng lùa. Gặp duyên cũng kết, gặp chùa
cũng tu” hoặc “Gió lên rồi căng bườm cho sướng. Gát chèo lên ta nướng ngô
khoai. Người vô đây ta uống mấy chai. Bỏ ghe nghiêng ngửa không ai chống
chèo”. Những tấm gương hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài và bộc trực được đề
cao. Cả tín ngưỡng, tôn giáo cũng in dấu ấn tính cách tự do, phóng khoáng: tu ở
nhà (tại gia); “Tu đầu tóc không cần phải cạo, miển sao cho tròn cái đạo làm
người”; theo đạo Phật nhưng nếu ăn tương không nổi thì chỉ ăn tương 4 ngày
Trưởng BM Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Khoa Luật và Chính trị học,
Trường Đại học An giang
T
522
hoặc 2 ngày cũng được và nhập thế “Là tu sĩ cầm cương lên ngựa, tuốt gươm
vàng ra trận xông pha, đền xong nợ nước thù nhà, thiền môn trở gót Phật đà
Nam mô”. Cùng với những đặc điểm chung, các dân tộc cộng cư ở đồng bằng
sông Cửu Long rất ý thức và giữ gìn tốt bản sắc văn hóa của dân tộc mình như
cúng đình và các lễ hội của người Kinh; chùa Tàu; Chôl Chnam Thmây, Ok-
om-bok, Sen Đônta, loại hình nghệ thuật Rôbăm và dàn nhạc ngũ âm Pleng Pưn
Piết của người Khơmer; thổ cẩm Chăm, Ramadan, Sura, Roya Fitri, món Cari,
loại hình nghệ thuật Rija, múa chàm rông và múa đoa pụ của người
Chăm;Trong vườn hoa nhiều sắc màu văn hóa đó, cộng đồng người Chăm ở
An giang với văn hóa đặc sắc của mình là nét chấm phá phong phú và đặc thù
thêu dệt thêm vẽ đẹp cho bức tranh toàn cảnh của vùng này.
1. Cộng đồng người Chăm ở An Giang
Người Chăm còn có tên khác là Chiêm Thành, Chăm pa, Chàm, Chà,
Hời,Dân tộc Chăm từng có một vương quốc riêng trãi dài từ Quãng Bình đến
Bình Thuận, một nhà nước riêng (từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ XVIII) với một
truyền thống văn hóa rất phong phú và có trình độ kinh tế phát triển so với bấy
giờ. Xét về nguồn gốc, người Chăm An Giang, Trung bộ, Nam Trung bộ, Tây
Ninh, Campuchia đều có chung nguồn gốc lịch sử.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, người Chăm có mặt ở một số tỉnh nhưng
sống quần cư với ý nghĩa cộng đồng thì chỉ có ở An Giang. An Giang có tất cả
bảy làng Chăm nằm trên địa bàn An Phú, Tân Châu và Châu Đốc. Đó là Koh
Taboong, Mat Chruk, Kok Kaboak, Plây Kênh, Plao Ba, KokKaghia, Sabâu;
tương ứng với các địa danh người Việt là Châu Giang, Đa Phước, Châu Phong,
Lama, Vĩnh Trường, Búng Bình Thiên, Đồng Cô Kỵ. Hiện nay, tại đây có
khỏang 13.700 người Chăm Islam với khoảng 2.500 hộ. [1]
Sự hình thành cộng đồng gười Chăm ở An Giang do hai nguồn di dân:
Thứ nhất, đầu thời vua Minh Mạng (khoảng năm 1822 – 1823), vua
Chiêm Thành cuối cùng là Pô Chơn đóng ở Phan Rang bỏ ngai vàng cùng
tướng, tùy tùng, binh lính và gia đình (đều là Hồi giáo) vượt Trường Sơn sang
Campuchia. Năm 1840, nhiều người Chăm thuộc nhóm này hoặc con cháu,
người thân của họ theo đoàn quân của Trương Minh Giảng, Doãn Uẫn, Lê Văn
Đức nhà Nguyễn về cư trú dọc sông Hậu và Khánh Bình thuộc An Giang. Đây
cũng là đợt di cư đông đảo nhất của người Chăm từ Campuchia về An Giang [4;
523
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
54 -55].
Thứ hai, vì những nguyên nhân lịch sử, từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX, một
bộ phận người Chăm đã rời bỏ quê hương sang sống ở Campuchia, Thái
Lan,. Giữa thế kỷ XIX, do chính quyền Campuchia lúc bấy giờ ngược đãi,
một số người Chăm và gia đình đã về định cư ở tả ngạn sông Tiền, Châu Đốc,
dọc theo hai bờ sông Hậu. Triều Nguyễn với chính sách “tận dân vi binh” đã
thu dụng và cho định cư ở biên giới rồi lập thành bảy làng với tổng số dân lên
tới 5.000 người, chia làm chín đội dưới sự quản lý của một viên Hiệp quản ở
Châu Giang [4; 55].
Người Chăm ở An Giang có mối quan hệ khá mật thiết với người Hồi
giáo Malayxia, Indonêxia, và từ đó mở rộng quan hệ với cộng đồng Hồi giáo
trong khu vực và thế giới. Nhờ đó, họ thực hiện đức tin Hồi giáo chính thống
Islam, có những điểm khác so với những người đồng đạo, đồng tộc theo Hồi
giáo Bàni ở Ninh Thuận, Bình Thuận.
Theo dòng thời gian, người Chăm An Giang cũng hòa đồng với các cộng
đồng dân tộc khác cùng sinh sống. “Java - Kur” là từ được người Chăm An
Giang nói để chỉ người Chăm lai, kết quả của những cuộc hôn nhân giữa đàn
ông Malaixia, Java với phụ nữ Chăm, Việt, Khơmer,Đến nửa thế kỷ XX,
nhóm “Java - Kur” càng hòa nhập vào cộng đồng Chăm tại đây.
Trải qua bao biến đổi thăng trẩm của lịch sử, cộng đồng người Chăm ở
An Giang luôn đoàn kết sát cánh cùng các dân tộc anh em ra sức khai phá, mở
mang, lao động sản xuất, xây dựng và bảo vệ đất nước. Cộng đồng người Chăm
An Giang chấp hành nghiêm túc luật pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và tuân thủ theo luật Hồi giáo Islam. Người Chăm sống quần tụ, hòa
thuận đùm bọc lẫn nhau theo từng xóm làng. Mỗi xóm đều có Thánh đường
(Masid) có một vị giáo cả (Hakêm) đứng đầu, chịu trách nhiệm về giáo lý và
giáo huấn các giáo điều tôn giáo. Dưới Hakêm có một Naib tạm thay quyền khi
Hakêm vắng mặt. Trong xóm còn có một hay nhiều tiểu thánh đường (Surao),
có một hay nhiểu trưởng nhóm (Ahli). Một ngày hành lễ 5 lần, mỗi lần hành lễ
không quá 5 phút, không ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt lao động và học tập.
Người Chăm rất đoàn kết, tính cách ôn hòa, có tinh thần tương trợ nhau,, có
nhiều tập tục phù hợp với lối sống lành mạnh như không uống rượu, tôn trọng
tôn ti trật tự, kính trọng ông bà và cha mẹ, không được làm những điều xấu,
không đua đòi vụ lợi, không xa hoa lãng phí, Người Chăm ở An Giang vẫn
524
thỉnh thoảng hành hương về La Mecque nhưng không nhiều vợ, phụ nữ không
che mạng, ăn đũa không ăn bóc,, không như Hồi giáo Islam ở Malayxia và
Trung Á. Theo chế độ phụ quyền nhưng phụ nữ Chăm ở An Giang được tự do
đi lại, tham gia học tập chính trị, thực hiện các hoạt động văn hóa – xã hội,
tham gia vào các đoàn thể quần chúng và bước lên sân khấu ca hát, không bị
gò bó và bị đối sử khắc khe như một số nước Hồi giáo Islam khác. Người Chăm
ở An Giang sinh sống bằng nhiều nghề, trong đó nghề chính là nông nghiệp, dệt
thêu đan xuất khẩu và buôn bán. Con em đồng bào trong cộng đồng Chăm ở An
Giang đến tuổi đi học đều đến trường; năm 2010, có 02 trường dạy chữ Chăm,
đã có 14 em học đại học, 10 em học trung cấp chuyên nghiệp, 1 em học cao
đẳng và 8 em đi du học ở Malaysia và Ai cập.
2. Một số nét văn hóa truyền thống trong đời sống xã hội của cộng
đồng người Chăm ở An Giang
Về ăn, uống: Lương thực chính của người Chăm là gạo. Cũng như các
gia đình khác ở đồng bằng sông Cửu Long, người Chăm chế biến gạo thành
cơm, cháo, bún, bánh để ăn hàng ngày. Người Chăm đặc biệt thích gia vị cay,
béo để chế biến thức ăn và có những món ăn hết sức độc đáo đó là các món càri
bò, càri trâu, càri dê, cơm nị, tung lò mò, Món Càri được xem là món khoái
khẩu và là một trong những niềm tự hào của người Chăm. Bánh Hatpaychal tức
“bánh tổ chim” là một đặc sản của người Chăm với những sợi bột mõng mảnh
tạo thành một khối tròn rất đẹp mắt. Về vấn đề kiêng cữ trong ăn uống, người
Chăm ở An Giang cử ăn thịt heo, chó, khỉ, rùa, rắn, mèo, chuột, những con
chim bay mà dùng chân quắp mồi (quạ, diều hâu, kênh kênh). Riêng những
gia súc, gia cầm, các loại chim ăn được nhưng phải đọc kinh Coran để cắt cổ
trước khi giết như bò, dê, cừu, gà, vịtVề uống, người Chăm ở An Giang rất
thích uống trà. Theo họ, trà không những thơm ngon mà còn có lợi cho sức
khỏe. Rượu là thức uống bị cấm. Trong ăn uống, thói quen ăn bốc đã được thay
đổi, thức ăn, nước uống được nấu chín và đun sôi cẩn thận.
Về trang phục: Đàn ông thường mặc xà-rông, áo sơ mi, dùng mũ Kapeak.
Những người già có loại áo Chêva (kiểu áo cộc) màu trắng còn có tên là áo
Java. Những người có chức sắc tôn giáo còn có áo Achuba trắng thân áo dài
chấm gót, xà-rông trắng, đội khăn Hadji trắng. Phụ nữ thường quấn khăn the
mỏng. Ngày lễ, họ mặc mặc áo dài “Tăk” và váy truyền thống. Váy phải phủ
525
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
kín chân. Có ba loại: váy kah dùng cho phụ nữ lớn tuổi; váy kek (pteh); váy pa
thuôm là loại váy cổ chỉ có ở lớp người khá giả. Khi cầu nguyện bên ngoài
hàng hiên Thánh đường, phụ nữ mặc áo trăng chui đầu, che kín từ đầu đến
chân, chỉ chừa khuôn mặt nên trông chị em rất “huyền bí”.
Về nhà ở: Nhà quay mặt ra sông hoặc quay ra lộ, ít nhà có hàng rào và
thường là nhà sàn. Kiểu dáng hình chữ Y có cửa cái và cửa sổ hai bên. Trong
nhà, không có bàn thờ để thờ tổ tiên, ông bà hay đức thánh Allah; những kinh
sách quí như kinh Coran và kỷ vật của ông bà, cha mẹ qua đời, người Chăm chỉ
làm những cái kệ treo ở trên cao, sát vách nhà để cất giữ trên ấy. Khi xây cất,
người Chăm không coi ngày, coi hướng và cúng kiếng gì cả. Nguyên tắc khi
làm nhà lớn, trước lúc dựng cột, dưới mỗi cây cột đều phải để vài ba hột đậu
xanh, hột bầu trái dài, người giàu có để thêm một ít vàng, rồi dựng cột đè lên
với hàm ý mát mẽ và thuận lợi cho gia đình sống, làm ăn.
Về tín ngưỡng, tôn giáo: Cộng đồng Chăm ở An Giang là tín đồ của Hồi
giáo Islam. Đối với người Chăm Islam, tôn giáo trở thành nhân tố chi phối mọi
hoạt động văn hóa, các phong tục, tập quán và sinh hoạt đời sống hàng ngày.
Tín đồ đạo Islam luôn giữ gìn nghiêm ngặt những qui định về giáo lý, giáo luật
của Hồi giáo chính thống, thể hiện qua việc thực hành nghiêm túc “năm tín
điều” cơ bản (hay còn gọi là năm nghiêm luật). Họ phải nghiêm chỉnh chấp
hành, thực hiện đầy đủ năm tín điều trong suốt cuộc đời mình mới được coi là
tín đồ trung thành của Giáo hội Hồi giáo và của Đức thánh Allah. Đó là các tín
điều: Kalimah Sahadat, Sămbahyăng, tháng Thánh lễ Ramadan (tháng nhịn ăn
hay ăn chay), Roya Fitri (đại lễ xả chay), lễ Joji Hadji. Ngoài ra, người Chăm
Islam còn thực hiện một số lễ tục trong giai đoạn thành niên: Tục cắt da quy
đầu (Khotanh) chứng nhận người nam đã đến tuổi thành niên và tục cấm cung
(Gasâm) khi thiếu nữ đến tuổi dậy thì.
Về hôn nhân: Người Chăm coi sự độc thân như là điều tội lỗi. Gia đình
người Chăm ở An Giang là gia đình phụ quyền. Giáo luật qui định, những
người chưa làm đám cưới mà ăn ở với nhau dẫn đến có thai mới làm đám cưới
thì con của họ sau này sẽ không được làm chủ hôn trong gia đình có đám cưới.
Bởi vì, đó là đứa con ngoài giá thú, không phải là đứa con của người cha mà là
đứa con của người mẹ. Khi kết hôn, người Chăm vẫn giữ các nguyên tắc cơ bản
sau: Cô dâu chú rể là những người trưởng thành và có đủ trí khôn; bắt buộc hôn
lễ phải được sự chấp thuận của cha vợ và chú rể (biểu hiện của chế độ phụ
quyền); phải trao đủ số tiền đồng cho cô dâu;
526
Về nghệ thuật: Người Chăm An giang rất có năng khiếu về ca hát múa.
Nhiều đội văn nghệ được thảnh lập, tham gia hát múa phục vụ bà con trong các
dịp lễ hội hoặc tham gia thi diễn các nơi và đã mang về hàng chục chiếc huy
chương vàng, huy chương bạc và nhiều bằng khen từ các hội diễn ca múa nhạc
[2]. Một loại hình âm nhạc mang đậm tính nhân đạo gọi là Rija hay múa nghi
lễ. Nét đẹp của Rija thể hiện rõ sự kết hợp hài hòa, nhịp nhàng của các sự kiện
lịch sử với nghi lễ truyền thống, và sự kết hợp giữa ca hát với nhảy múa. Đối
với người Chăm, Rija là biểu tượng không thể tách rời khỏi nghệ thuật trong
đời sống văn hóa tinh thần. Múa Chăm rất phong phú và độc đáo. Những điệu
múa cổ xưa thường được trình diễn trong các lễ hội. Múa quạt là điệu múa phổ
thông của người Chăm, khi múa các vũ nữ dùng quạt làm đạo cụ để biểu diễn
những loại múa khác nhau. Ngoài ra, còn có các điệu múa đặc sắc như: múa
trống Paranưng, múa đoa pụ (đội bình nước trên đầu), Người Chăm ở An
Giang dùng nhiều loại nhạc cụ, trong đó có các nhạc cụ cổ truyền phổ biến của
dân tộc Chăm như đàn Kani, đàn Tapăp, kèn Saranay, kèn Rakle.
Về lễ hội: Người Chăm có nhiều ngày lễ lớn trong năm:
- Ngày 10 tháng Giêng Hồi lịch được gọi là tháng Muharram (một năm
có 12 tháng, 6 tháng có 30 ngày, 6 tháng có 28 ngày). Các gia đình ăn chay hai
ngày, làm lễ cầu nguyện tại Thánh đường và tặng quà cho người nghèo. Nhưng
hiện nay chủ yếu là tặng quà cho trẻ em nên các em coi đây là ngày Tết của
mình.
- Tháng hai Hồi lịch, gọi là tháng Safar, là lễ cầu an được cử hành vào
ngày thứ tư tuần lễ cuối của tháng. Đồng bào Chăm cũng đến Thánh đường cầu
nguyện cho quốc thái dân an.
- Lễ sinh nhật Muhamed: Ngày 12 tháng 3 Hồi lịch, tổ chức tại các
Thánh đường rất trang trọng.
- Lễ Giáo chủ Thăng thiên (Miarai) tháng 7 Hồi lịch.
- Tháng 8 Hồi lịch (tháng Shaban) có lễ đại xá, được bắt đầu từ ngày rằm
đến cuối tháng. Đây là tiệc giỗ hàng năm của dân tộc Chăm. Đồng bào Chăm
thường tổ chức trọng thể ở các Thánh đường.
Bên cạnh đó, người Chăm còn có một số lễ hội nổi bật, khá hấp dẫn,
mang đậm bản sắc dân tộc và tôn giáo, đó là “Lễ Ramadan” và “Lễ tết Roya
Fitri”. Tháng Thánh lễ Ramadan bắt đầu từ mùng 1 tháng 9 đến hết 30 tháng 9
527
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
Hồi lịch mỗi năm. Khi bước vào ngày đầu tiên của tháng nhịn chay tức là vào
ngày 1 tháng 9 Hồi lịch, người Chăm bắt đầu nhịn chay từ rạng đông (khoảng 6
giờ sáng) cho đến hết mặt trời lặn (khoảng 18 giờ) đều không được ăn, uống,
cãi vã, quan hệ tình dục. Trong và sau tháng này những người có của phải thực
hiện nghĩa vụ bố thí cho người nghèo nhằm giảm bớt sự cách biệt giàu nghèo.
Lễ Tết Roya Fitri diễn ra trong ba ngày, từ ngày 01 đến ngày 03 tháng 10 Hồi
lịch (sau tháng chay Ramadan) được coi là ngày tết của người Chăm. Họ đi
chúc mừng nhau, xin xóa tội, hòa giải với nhau Đặc biệt là khoảng từ ngày
29 – 30 đến hừng sáng ngày Tết, bắt buộc mọi người phải bố thí bằng tiền hoặc
hiện vật cho người nghèo để họ cũng được niềm vui chung ngày tết. Trong dịp
này, những gia đình khá giả sẽ dành ít tiền của cho những người nghèo khó,
giúp họ vượt qua giai đoạn khó khăn. Họ quan niệm rằng, những gì họ có được
đều do thánh Allah ban cho, vì vậy họ phải có nghĩa vụ bố thí, giúp đỡ người
nghèo khó, điều đó giúp họ làm ăn tốt hơn trong năm mới.
Về tang lễ, ma chay: Khi có người hấp hối, bà con lân cận đến để cùng
đọc kinh cầu cho linh hồn người chết bình thản rời khỏi cõi đời. Khi bệnh nhân
tắt thở, người nhà sẽ dùng tay thấm nước sạch vuốt mặt người chết. Thông
thường, người chết được chôn trong ngày. Nếu chết buổi sáng thì chôn vào buổi
chiều; nếu chết buổi tối thì sáng hôm sau chôn. Nghi thức tang lễ của người
Chăm theo đạo Islam ở An Giang được thực hiện theo bốn bước sau: Thứ nhất,
tắm rửa sạch sẽ; thứ hai, bó tử thi cho kín toàn thân bằng vải trắng sạch; thứ ba,
mọi người khiêng tử thi để trong “Madu” (là một tấm ván có mui cong để tử thi
nằm) và khiêng tử thi đem đến Thánh đường làm lễ; thứ tư, đem chôn tử thi.
Buổi tối ngày chôn cất, bạn bè người thân của tang chủ đến nhà tang chủ để cầu
nguyện. Việc cầu nguyện như thế sẽ diễn ra trong ba đêm liền. Sau đó, người ta
còn cầu nguyện vào các đêm thứ 7, thứ 10, thứ 40, thứ 100 và một lần nữa vào
đúng 1 năm kể từ lúc người mất. Một điều đặc biệt trong đám tang của cộng
đồng người Chăm ở An Giang là người thân không được khóc lóc, kể lể, nếu có
cảm động thì có thể rơi một ít nước mắt, tuyệt đối không thờ cúng tử thi, không
lạy và cũng không đốt nhang. Nghi thức tang lễ của người Chăm thực hiện
nghiêm trang, gọn gàng, chu đáo, vệ sinh, văn minh, tiết kiệm thể hiện tình
làng nghĩa xóm.
Qua khái quát một số nét văn hóa của cộng đồng dân tộc Chăm ở An
Giang, ta thấy hai yếu tố chi phối mọi mặt của đời sống xã hội là: Chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tôn giáo Hồi Islam. Hòa vào
528
dòng phát triển chung của văn hóa Việt nam và khu vực, cộng đồng Chăm ở An
Giang đã bảo lưu nhiều phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp của dân tộc
mình, đồng thời hạn chế và xóa bỏ những mặt tiêu cực, không phù hợp với pháp
luật và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Các nghi lễ, tập tục của lễ hội được tiến
hành đơn giản, nhẹ nhàng trên tinh thần “trọng thể, vui tươi, an toàn, tiết
kiệm”.
Văn hóa các dân tộc thiểu số là tài sản vô giá. Bảo tồn, giữ gìn và phát
triển các giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số là một trong những chủ trương
lớn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan quan tâm và coi đó là nội dung quan
trọng trong thực hiện chính sách dân tộc. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt
văn hóa, xã hội mà có ý nghĩa về mặt chính trị, kinh tế, giáo dục,và thậm chí
cả an ninh và quốc phòng. Cộng đồng người Chăm ở An Giang có ý thức khá
tốt trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc riêng trong nền
văn hóa “thống nhất trong đa dạng”. Bản sắc đó đã hòa quyện và phát triển theo
dòng lịch sử đấu tranh hào hùng của cộng đồng dân tộc anh em ở Đồng bằng
sông Cửu Long và góp phần không nhỏ cho bức tranh tươi đẹp của vùng đất
mới “chín rồng” như ngày nay. Bảo tồn và phát huy những cái đẹp trong bản
sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc Chăm ở An Giang trong giai đoạn hiện nay
là một việc làm quan trọng và lâu dài. Bảo tồn không phải chỉ thụ động, co thủ
để bảo vệ nét đẹp của văn hóa cộng đồng dân tộc mình mà còn phải tích cực hội
nhập, giao thoa với các nền văn hóa khác, tiếp nhận và tích hợp chúng để tạo ra
những giá trị văn hóa mới. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều dân tộc có bề
dày lịch sử và văn hóa cùng cộng cư; do tính cách phóng khoáng, dễ tiếp nhận
cái mới của người Nam bộ; do qui luật tiếp biến văn hóa và tư duy tổng hợp,
biện chứng của ngưởi Việt Nam [5;13]; việc giao thoa, kết hợp những nét đẹp
của các dân tộc để hình thành thêm những giá trị mới, chung cho vùng là con
đường tất yếu. Trong vườn hoa có nhiều loài hoa cùng chung sống chắc chắn sẽ
có sự pha trộn làm xuất hiện những giống hoa với màu sắc mới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. An Giang.gov.vn. Văn hóa Chăm An Giang.
2. Báo cáo kết quả thực hiện Thông tri 03/TT-TW ngày 17/10/1991 của Ban
Bí Thư TW Đảng (khóa VI) về công tác đối với đồng bào Chăm, UBND tỉnh
An Giang ngày 14/11/2003.
529
KỶ YẾU HỘI THẢO
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH
3. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Vấn đề dân tộc theo Nghị quyết Trung
ương Đảng lần 7 khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
4. Trần Văn Bính (chủ biên), Văn hóa các dân tộc Tây Nam bộ thực trạng
và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2004.
5. Trần Ngọc Thêm (chủ biên), Văn hóa học và văn hóa Việt Nam, Nxb Đại
học Sư phạm, 2004.
6. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2010), Một số vấn đề về tôn giáo –
dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 41_8034_2207258.pdf