Tài liệu Nc 889 chất lượng cuộc sống của bệnh nhân đang điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone tại tỉnh Long An: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017
72
07 Nc 889 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN
ĐANG ĐIỀU TRỊ THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
BẰNG THUỐC METHADONE TẠI TỈNH LONG AN
Lê Nữ Thanh Uyên*, Nguyễn Quang Vinh**, Đặng Văn Chính***
TÓM TẮT
Mở đầu: Lệ thuộc các chất dạng thuốc phiện đang là gánh nặng toàn cầu. Ước tính hằng năm có khoảng 0,2
triệu người chết do heroin, cocain và các chất gây nghiện khác. Đặc biệt châu Á là khu vực tập trung trên 50% số
người lạm dụng ma túy tổng hợp của thế giới. Số người nghiện các chất dạng thuốc phiện có hành vi tiêm chích
ma túy chiếm 0,2%-0,5% dân số thế giới(6). Long An là tỉnh thứ 21 trong số 63 tỉnh thành cả nước và là tỉnh thứ
5 trong phía Nam triển khai chương trình Methadone trong quí 4, 2013(5). Bước đầu chương trình đang diễn ra
thuận lợi và đúng tiến độ đề ra. Tuy nhiên hiện chưa tìm thấy nghiên cứu hoặc khảo sát nào được tiến hành nhằm
đánh giá hiệu quả và tác động của chương trình l...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nc 889 chất lượng cuộc sống của bệnh nhân đang điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone tại tỉnh Long An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017
72
07 Nc 889 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN
ĐANG ĐIỀU TRỊ THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
BẰNG THUỐC METHADONE TẠI TỈNH LONG AN
Lê Nữ Thanh Uyên*, Nguyễn Quang Vinh**, Đặng Văn Chính***
TÓM TẮT
Mở đầu: Lệ thuộc các chất dạng thuốc phiện đang là gánh nặng toàn cầu. Ước tính hằng năm có khoảng 0,2
triệu người chết do heroin, cocain và các chất gây nghiện khác. Đặc biệt châu Á là khu vực tập trung trên 50% số
người lạm dụng ma túy tổng hợp của thế giới. Số người nghiện các chất dạng thuốc phiện có hành vi tiêm chích
ma túy chiếm 0,2%-0,5% dân số thế giới(6). Long An là tỉnh thứ 21 trong số 63 tỉnh thành cả nước và là tỉnh thứ
5 trong phía Nam triển khai chương trình Methadone trong quí 4, 2013(5). Bước đầu chương trình đang diễn ra
thuận lợi và đúng tiến độ đề ra. Tuy nhiên hiện chưa tìm thấy nghiên cứu hoặc khảo sát nào được tiến hành nhằm
đánh giá hiệu quả và tác động của chương trình lên những bệnh nhân điều trị tại đây.
Mục tiêu: Đo lường điểm chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan của bệnh nhân điều trị thay thế
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone, tại tỉnh Long An, năm 2014.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang chọn toàn bộ 100 bệnh nhân đang điều trị
thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh
Long An. Nghiên cứu được tiến hành bằng cách phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt kết hợp với hồi cứu hồ sơ bệnh
án và kết quả xét nghiệm nước tiểu.
Kết quả: Điểm chất lượng cuộc sống trung bình trên bốn phương diện sinh lý, tâm lý, xã hội và triệu chứng
lần lượt là 35,27; 37,01; 42,56 và 47,53. Kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian là một yếu tố có ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc sống trên cả 4 phương diện của các bệnh nhân.
Kết luận: Nhìn chung điểm chất lượng cuộc sống trong nghiên cứu ghi nhận cao hơn so với các nghiên cứu
trước đây. những bệnh nhân điều trị Methadone trên 3 tháng có điểm chất lượng cuộc sống cao hơn những bệnh
nhân điều trị dưới ba tháng trên cả 4 phương diện.
Từ khóa: Chất lượng cuộc sống, Methadone, điều trị duy trì Methadone.
ABSTRACT
QUALITY OF LIFE AND RELATED FACTORS IN METHADONE TREATMENT PATIENTS IN LONG
AN PROVINCE
Le Nu Thanh Uyen*, Nguyen Quang Vinh ** Dang Van Chinh ***
Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 21 - No 5 - 2017:
Background: Opiate dependence is a global burden. It is estimated that around 0.2 million people die each
year from heroin, cocaine and other addictive drugs. In particular, Asia is a focus area over 50% of the world's
total drug users. The number of opiate addicts who inject drugs accounts for 0.2% -0.5% of the world's
population(6). Long An is the 21st of 63 provinces in the country and is the 5th province in the south implement
the Methadone program in the fourth quarter of 2013(5). The program is proceeding smoothly and progressively.
However, no studies or surveys have been conducted to evaluate the effectiveness and impact of the program on
treatment-experienced patients.
Objectives: To measure of the mean life quality score and identify factors associated in methadone
maintenance treatment patients on Long An province, 2014.
* Đại học Y Dược TP.HCM **Bệnh viện quốc tế Hạnh Phúc, Bình Dương ***Viện y tế công cộng TP. HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Lê Nữ Thanh Uyên ĐT: 0903313539 Email: lenuthanhuyen@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017 Nghiên cứu Y học
73
Subject - Research method: A cross-sectional study of 100 patients receiving substitution treatment
for opioid addiction with methadone in HIV/AIDS prevention center at Long An province. The study was
conducted by face- to- face interviews combined with retrospective medical records and the results of urine
tests.
Results: The average quality of life score on the four physiological, psychological, social and symptomatic
aspects was 35,27; 37.01; 42.56 and 47.53. Research shows that time is a factor that affects the quality of life in all
four aspects of the patient.
Conclusion: In general, the quality of life in the study was higher than in previous studies. Patients treated
with methadone over 3 months had a higher quality of life than patients under three months of treatment in all
four aspects.
Keywords: Quality of life, Methadone, Methadone maintenance treatment.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lệ thuộc các chất dạng thuốc phiện đang là
gánh nặng toàn cầu. Ước tính hằng năm có
khoảng 0,2 triệu người chết do heroin, cocain và
các chất gây nghiện khác. Đặc biệt châu Á là khu
vực tập trung trên 50% số người lạm dụng ma
túy tổng hợp của thế giới. Số người nghiện các
chất dạng thuốc phiện có hành vi tiêm chích ma
túy chiếm 0,2%-0,5% dân số thế giới. Theo báo
cáo năm 2012 ghi nhận khu vực Đông Nam Á có
khoảng 3,4 -5,6 triệu người TCMT(5). Chương
trình điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc
Methadone đã ra đời từ những năm 90 của thế
kỷ trước và hiện đang được thực hiện hữu hiệu
tại nhiều quốc gia trên thế giới(3,4, 5).
Tại Việt Nam chương trình này được đưa
vào hoạt động từ năm 2008, hiện nay theo
thống kê chương trình đã có mặt tại 29 tỉnh
thành với 74 cơ sở điều trị cho 14.785 người(1,2).
Kết quả đánh giá bước đầu do Bộ Y tế tiến
hành đã ghi nhận kết quả hết sức tích cực, lợi
ích của việc điều trị Methadone có “6 giảm, 4
tăng”. 6 giảm gồm: giảm sử dụng ma túy bất
hợp pháp, giảm lây nhiễm HIV/AIDS, viêm
gan B – C, giảm kinh phí do sử dụng ma túy,
giảm tử vong do sốc thuốc, giảm tội phạm,
giảm xung đột với gia đình. 4 tăng gồm: tăng
thu nhập cho cá nhân, gia đình, tăng sức khỏe
cho bản thân, tăng nhân cách con người(1,2,6).
Long An là tỉnh thứ 21 trong số 63 tỉnh thành
cả nước và là tỉnh thứ 5 trong phía Nam triển
khai chương trình Methadone trong quí 4,
2013(4). Bước đầu chương trình đang diễn ra
thuận lợi và đúng tiến độ đề ra. Tuy nhiên hiện
chưa tìm thấy nghiên cứu hoặc khảo sát nào
được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả và tác
động của chương trình lên những bệnh nhân
điều trị tại đây và đây là một trong những đề tài
đầu tiên nghiên cứu về vấn đề khá mới mẻ này
nên nó sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho giảng
dạy và các nghiên cứu khác trong tương lai. Với
những vấn đề đặt ra ở trên, mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu
Đo lường điểm chất lượng cuộc sống của đối
tượng nghiên cứu trên 4 phương diện sinh lý,
tâm lý, xã hội và các triệu chứng đi kèm.
Xác định mối liên quan giữa chất lượng cuộc
sống với các yếu tố liên quan: đặc điểm dân số
học, tiền sử bản thân, bệnh lý kèm theo, hành vi
nguy cơ và quá trình điều trị.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân đang điều trị thay thế nghiện các
chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại
phòng khám Methadone quận 6, TP.HCM trong
thời gian nghiên cứu.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu toàn bộ bệnh nhân đang tham gia
điều trị methadone tại Trung tâm phòng chống
HIV/AIDS và tự nguyện đồng ý tham gia vào
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017
74
nghiên cứu. Những đối tượng đã được phỏng
vấn mặt đối mặt bằng bộ công cụ thu thập số
liệu QOL – DA v2.0 soạn sẵn, danh sách bệnh
nhân sẽ được đối chiếu danh sách dựa vào mã
thẻ Methadone (một số thẻ trùng mã số thì dựa
vào họ tên của đối tượng) và lọc ra để không bị
trùng phỏng vấn vào ngày hôm sau. Tổng số
mẫu thu thập là 100 bệnh nhân.
Xử lý dữ kiện
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, xử lý
số liệu bằng phần mềm Stata 13.
Thống kê phân tích: Phép kiểm phi tham
số Kruskal–Wallis và Mann–Whitney so sánh
sự khác biệt về điểm chất lượng cuộc sống với
đặc tính mẫu nghiên cứu. Sử dụng tương quan
Spearman kiểm định mối liên quan giữa hai
biến định lượng. Đồng thời sử dụng hồi quy
tương quan để xây dựng phương trình hồi
quy biểu thị mối liên quan giữa biến độc lập
và biến phụ thuộc.
KẾT QUẢ - BÀN LUẬN
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm dân số - xã hội của mẫu nghiên
cứu (n=65)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Nhóm tuổi
< 19 4 6,2
19 – 24 14 21,5
> 24 47 72,3
Học vấn
Dưới cấp 3 41 63,1
Trên cấp 3 24 36,9
Hôn nhân
Đang sống chung bạn tình 4 6,2
Đang sống chung với vợ 14 21,5
Ly dị/ly thân 8 12,3
Độc thân 39 60,0
Nghề
nghiệp
Có việc làm 27 41,5
Thất nghiệp 38 58,5
Tình trạng
kinh tế
Tự chủ vào bản thân 30 46,2
Phụ thuộc vào gia đình 35 53,8
Kinh tế gia
đình
Khó 11 16,9
Đủ sống 54 83,1
Trợ cấp xã
hội
Có nhận trợ cấp 2 3,1
Không có trợ cấp 63 96,9
Nghiên cứu tiến hành khảo sát trên toàn bộ
65 bệnh nhân đang uống Methadone tại trung
tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Long An(4).
Toàn bộ 65 bệnh nhân tại đây đều là nam giới,
với quan niệm truyền thống khắt khe với phụ nữ
của các nước Á Đông như Việt Nam thì nữ giới
nghiện ngập là điều không thể chấp nhận được
vì vậy việc nếu có nghiện ngập thì nữ giới
thường giấu kín và e ngại trong việc tham gia
chương trình điều trị thay thế công khai như là
uống Methadone(3,5). Phần lớn các đối tượng có
học vấn dưới cấp 3, Đây là điều đáng báo động
bởi việc thiếu kiến thức và trình độ học vấn sẽ là
một trong những rào cản rất lớn trong việc tái
hòa nhập cộng đồng của nhóm bệnh nhân này
sau khi điều trị cai nghiện thành công. Đa số các
bệnh nhân đang sống độc thân, điều này có thể
do các bệnh nhân này là đối tượng nghiện ngập
không có nghề nghiệp tương lai ổn định. Bản
thân họ không gây được niềm tin với mọi người
xung quanh, việc họ chỉ lao đầu vào con đường
nghiện ngập khiến mọi người xung quanh kỳ
thị, khó gần.
Bảng 2: Đặc điểm về quá trình điều trị Methadone
của bệnh nhân (n=65)
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Thời gian
điều trị
3 tháng trở xuống 33 50,8
Trên 3 tháng 32 49,2
Liều điều trị
Dưới 60mg/ngày 24 36,9
Trên 60mg/ngày 41 63,1
Tuân thủ đầy đủ
các nội quy
Có 58 89,2
Không 7 10,8
Đồng ý chi trả
phí điều trị
Đồng ý 59 90,8
Không chắc chắn 6 9,2
Kết quả nghiên cứu ghi nhận số bệnh nhân
điều trị từ 3 tháng trở xuống và trên 3 tháng là
ngang nhau (50,77% và 49,23%), do số lượng
bệnh nhân mỗi tháng được đưa vào điều trị
chênh lệch không lớn và chương trình chỉ mới
triển khai được 6 tháng nên không có sự khác
biệt đáng kể về số lượng khi phân nhóm bệnh
nhân điều tri bằng mốc 3 tháng.
Bảng 3: Đặc điểm hành vi, các yếu tố tiền sử nghiện
ma tuý và bệnh lý của bệnh nhân (n=65)
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Hút thuốc lá 63 96,6
Nghiện rượu 4 6,2
Sử dụng Heroin 65 100,0
Sử dụng thuốc lắc 2 4,0
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017 Nghiên cứu Y học
75
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Sử dụng bao cao su 50 76,9
Tiền sử người thân nghiện ma tuý 8 13,2
Cai nghiện không thành công 54 83,1
Thời gian
nghiện ma tuý
Dưới 1 năm 1 1,5
1 - <2 năm 4 6,2
2 – 3 năm 10 15,4
> 3 năm 50 76,9
Loại ma tuý sử dụng (Heroin) (n=14) 14 100,0
Đường sử dụng (Tiêm chích) (n=14) 14 100,0
Sử dụng chung bơm kim tiêm (n=14) 2 14,3
Viêm gan B 13 20,0
Viêm gan C 30 46,2
Viêm gan B + C 3 4,6
HIV (n=16) 16 24,6
Trước khi điều trị bị nhiễm HIV (n=16) 16 100,0
Điều trị ARV 13 81,3
Trong nghiên cứu ghi nhận có tới 96,62% các
bệnh nhân có hút thuốc lá, vì tất cả bệnh nhân
đều là nam giới trong khi các nghiên cứu khác
đều khảo sát tỷ lệ trên cả hai giới nên ghi nhận tỷ
lệ thấp hơn, bên cạnh đó thì các bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi mới tham gia chương
trình nên việc thuốc lá có thể là lựa chọn ưu tiên
của hầu hết các bệnh nhân để giảm đi sự tác
động của các triệu chứng cai nghiện. 100% các
bệnh nhân điều trị tại đây đều sử dụng Heroin,
vì theo tư vấn trong những ngày đầu điều trị
bệnh nhân vẫn có thể sử dụng Heroin để giảm
đi các triệu chứng cai và hầu hết các bệnh nhân
chỉ mới tham gia điều trị nên vẫn có một số
lượng nhất định các bệnh nhân vẫn còn hành vi
sử dụng ma túy. Vẫn còn 14,29% bệnh nhân
thuộc nhóm này vẫn sử dụng chung bơm kim
tiêm với người khác và tỷ lệ mắc các bệnh truyền
nhiễm vẫn còn cao. Việc chia sẻ bơm kim tiêm là
một vấn đề hết sức nguy hiểm bởi nó là con
đường dẫn đến việc lây nhiễm các bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm lây qua đường máu như viêm
gan và HIV. Vì vậy đây là vấn đề cần được chú ý
trong việc tư vấn cho bệnh nhân trong suốt quá
trình điều trị Methadone.
Bảng 4: Phân bố đặc tính mẫu theo trung bình và trung vị
Đặc tính Trung bình ± ĐLC* Trung vị Tứ phân vị trên Tứ phân vị dưới
Tuổi 28,9 ±5,9 29 24 33
Liều Methadone(mg/ngày) 75,5±34,1 70 55 80
Thời gian điều trị (tháng) 3,4±1,7 3 2 5
* Độ lệch chuẩn
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 28,9
tuổi. So sánh với kết quả của nhiều y văn thì đây
có thể xem là 1 trong các nghiên cứu trên nhóm
bệnh nhân có độ tuổi trung bình nhỏ nhất(5). Đây
là một vấn đề hết sức báo động do tỷ lệ người trẻ
tuổi nghiện ma túy càng ngày càng phổ biến.
Bảng 5: Đặc điểm chất lượng cuộc sống trên các
phương diện
Đặc tính
Trung bình
± ĐLC*
Trung vị
Tứ phân
vị trên
Tứ phân
vị dưới
Sinh lý 35,3 ±4,2 36 34 38
Tâm lý 37,0 ±5,8 39 33 41
Xã hội 42,6 ±4,8 43 39 46
Triệu chứng 47,5 ±5,8 49 44 53
* Độ lệch chuẩn
Các điểm số về chất lượng cuộc sống trên 4
phương diện của các bệnh nhân có phân phối
không bình thường. Trên 4 phương diện đo
lường điểm chất lượng cuộc sống, kết quả cho
thấy điểm số thấp nhất là điểm chất lượng cuộc
sống về mặt sinh lý và điểm chất lượng cuộc
sống về các triệu chứng là điểm số cao nhất. Đây
chính là điểm khác biệt trong việc đánh giá chất
lượng sống của các bệnh nhân nghiện thông qua
các triệu chứng cai so với nhiều bộ công cụ đo
lường chất lượng cuộc sống. Bởi sự giảm thiểu
tác động các triệu chứng cai và triệu chứng do
ma túy gây ra góp phần phản ánh hiệu quả cai
nghiện bằng Methadone, sự an toàn của
Methadone và lý giải thêm những chuyển biến
tích cực về sức khỏe sinh lý, tâm lý và xã hội.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017
76
Bảng 6: So sánh đặc điểm chất lượng cuộc sống và các đặc điểm về dân số học (n=65)
Đặc tính Sinh lý Tâm lý Xã hội Triệu chứng
Nhóm tuổi
< 19 36,7 ±3,8 38,8 ±6,2 42,8 ±3,4 47,0 ±6,8
19 – 24 33,9±3,7 34,1±7,3 42,6±5,0 46,3±6,6
> 24 35,6±4,3 37,7±6,7 42,6±5,0 47.9±5,5
P** 0,176 0,219 0,972 0,708
Tình trạng hôn
nhân
Sống chung bạn tình 36,5±3,7 37,7±6,7 44,0±5,1 49,0±4,5
Sống với vợ 32,5±5,6 36,9±5,7 42,0±4,8 47,5±5,8
Ly dị/ly thân 35,4±2,5 33,8±5,6 41,4±4,7 46,4±4,6
Độc thân 36,1±3,6 37,6±5,9 42,8±5,0 47,6±6,2
P** 0,133 0,348 0,661 0,714
Học vấn
Dưới cấp 3 35,4±4,4 37,3±6,2 42,9±4,7 47,6±6,1
Cấp 3 trở lên 35,0±3,8 36,6±5,3 41,8±5,2 47,5±5,3
P* 0,314 0,461 0,326 0,811
Nghề nghiệp
Có việc làm 33,7±5,0 36,6±5,4 41,5±4,4 47,6±5,4
Thất nghiệp 36,4±3,1 37,3±6,2 43,3±5,1 47,5±6,1
P* 0,032 0,471 0,059 0,878
P*: kiểm định Mann-Whitney P**: kiểm định Kruskal – Wallis
Kết quả bảng so sánh cho thấy những bệnh
nhân đang thất nghiệp có điểm chất lượng cuộc
sống cao hơn so với những bệnh nhân đang có
việc làm, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
với p=0,032, sự khác biệt này có thể do nhóm
bệnh nhân không có việc họ không phải vận
động thể lực và chỉ tham gia chương trình điều
trị mà không phải lo nghĩ về công việc nên họ
cảm thấy thoải mái hơn và khỏe mạnh hơn.
Chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa nghề nghiệp và điểm số chất lượng cuộc
sống trên 3 phương diện còn lại là tâm lý, xã hội
và triệu chứng. Ngoài ra nghiên cứu cũng chưa
tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào
giữa điểm chất lượng cuộc sống trên cả 4
phương diện với các biến dân số học như : nhóm
tuổi, tình trạng hôn nhân, học vấn.
Sử dụng kiểm định Mann-Whitney, chúng
tôi chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê nào giữa điểm chất lượng cuộc sống trên cả 4
phương diện với các biến tình trạng kinh tế, kinh
tế gia đình và trợ cấp xã hội.
Bảng 7: So sánh đặc điểm chất lượng cuộc sống và đặc điểm kinh tế, trợ cấp xã hội (n=65)
Đặc tính Sinh lý Tâm lý Xã hội Triệu chứng
Tình trạng kinh
tế
Tự chủ bản thân 35,5±4,3 37,4±5,1 42,7±4,8 48,4±5,6
Phụ thuộc gia đình 35,1±4,1 36,7±6,5 42,7±4,9 46,8±5,9
P 0,811 0,869 0,869 0,258
Kinh tế gia đình
Khó khăn 35,0±4,3 35,4±6,1 42,9±4,5 47,5±5,2
Đủ sống 35,3±4,2 37,4±5,8 42,5±4,9 47,5±5,9
P 0,930 0,273 0,881 0,705
Trợ cấp xã hội
Có nhận trợ cấp 35,5±4,9 39,5±7,7 43,0±2,8 49,5±7,7
Không có trợ cấp 35,3±4,22 36,9±5,8 42,5±4,9 47,5±5,7
P 0,954 0,469 0,939 0,492
Bảng 8: So sánh đặc điểm chất lượng cuộc sống và các yếu tố về tiền sử nghiện, đặc điểm điều trị Methadone,
(n=65)
Đặc tính Sinh lý Tâm lý Xã hội Triệu chứng
Hút thuốc lá
Có 35,20±4,24 36,79±5,83 42,63±4,92 47,51±5,83
Không 37,50±2,12 44,00±1,41 40,50±3,53 48,50±6,36
P 0,369 0,047 0,381 0.789
Thời gian điều
trị
Dưới 3 tháng 33,21±4,65 34,78±5,96 40,87±4,94 45,57±6,42
Trên 3 tháng 37,41±2,21 39,31±4,89 44,31±4,23 49,56±4,29
P <0,001 0,001 0,002 0,018
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017 Nghiên cứu Y học
77
Chúng tôi tìm thấy mối liên quan giữa hành
vi hút thuốc lá và điểm chất lượng cuộc sống về
mặt tâm lý, những người không hút thuốc là có
điểm chất lượng cuộc sống về tâm lý cao hơn
những người có hút thuốc lá, sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê với p=0,047. Theo nhiều nghiên
cứu thì hầu hết các bệnh nhân nghiện ma túy
đều hút thuốc lá rất nhiều trong quá trình cai
nghiện. Vì thuốc lá giúp họ cảm thấy dễ chịu
hơn bởi những tác động xấu của triệu chứng cai.
Vì vậy những bệnh nhân sử dụng thuốc lá
chứng tỏ họ chịu tác động rất nhiều của triệu
chứng cai nên việc họ tìm đến thuốc lá như một
biện pháp thay thế ma túy. Trái lại, bệnh nhân
không hút thuốc lá chững tỏ họ đã có thể kiểm
soát được các triệu chứng xấu do tác động của
ma túy và họ đã giảm lệ thuộc vào thuốc lá.
Những điều này góp phần lý giải sự khác biệt về
điểm chất lượng cuộc sống ở 2 nhóm. Những
bệnh nhân điều trị Methadone trên 3 tháng có
điểm chất lượng cuộc sống cao hơn những bệnh
nhân điều trị dưới ba tháng trên cả 4 phương
diện. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với
giả trị p<0,05. Sở dĩ có sự khác biệt này là do
những bệnh nhân tham gia điều trị trên 3 tháng
họ đã quen dần với việc uống thuốc đều đặn mỗi
ngày, hơn thế nữa thì nhóm bệnh nhân này đã
bước vào giai đoạn uống liều Methadone duy trì.
So với nhưng bệnh nhân điều trị dưới 3 tháng
vẫn còn ở giai đoạn dò liều thì những bệnh nhân
uống liều duy trì có liều Methadone ổn định, nên
họ thích ứng tốt và ít chịu tác động từ việc thay
đổi liều uống. Chưa tìm thấy mối liên quan giữa
điểm số chất lượng cuộc sống với các đặc tính
như nghiện rượu, sử dụng chung bơm kim tiêm,
sử dụng bao cao su, tiền sử gia đình nghiện và
cai nghiện không thành công và với các đặc tính
về liều điều trị, tuân thủ nội quy và đồng ý chi
trả, trên cả 4 phương diện vời việc còn sử dụng
ma túy và dùng chung bơm kim tiêm trên nhóm
bệnh nhân vẫn đang tiếp tục sử dụng ma túy,
với việc mắc các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm
như HIV, viêm gan B, viêm gan C. Điểm số chất
lượng cuộc sống tăng dần theo mức độ cảm
nhận về cuộc sống và sự hài lòng về sức khỏe.
Bảng 9: Tương quan Spearman giữa điểm số chất
lượng cuộc sống với tuổi, liều Methadone và thời gian
điều trị (n=65)
Thời gian điều trị Sinh lý Tâm lý Xã hội Triệu chứng
Tuổi
0,146 0,071 - 0,032 0,174
P 0,245 0,572 0,797 0,165
Liều
Methadone
-0,215 -0,081 -0,094 -0,125
P 0,084 0,518 0,455 0,320
Thời gian
điều trị
0,48 0,46 0,34 0,37
P <0,001 <0,001 0,005 0,002
Kết quả hồi quy tương quan Spearman ghi
nhận:
Hệ số tương quan giữa điểm số chất lượng
cuộc sống về mặt sinh lý với tuổi, liều
Methadone và thời gian điều trị lần lượt là 0,146
(p=0,245), -0,215 (p=0,084) và 0,48 (p<0,001). Như
vậy có sự tương quan trung bình có ý nghĩa
thống kê giữa điểm số chất lượng cuộc sống về
mặt sinh lý và thời gian điều trị. Trong khi đó
tuổi và liều điều trị có sự tương quan yếu và rất
yếu, không có ý nghĩa thống kê với điểm số chất
lượng cuộc sống về mặt sinh lý.
Hệ số tương quan giữa điểm số chất lượng
cuộc sống về mặt tâm lý với tuổi, liều
Methadone và thời gian điều trị lần lượt là 0,071
(p=0,572), -0,081 (p=0,518) và 0,46 (p<0,001). Như
vậy có sự tương quan trung bình có ý nghĩa
thống kê giữa điểm số chất lượng cuộc sống về
mặt tâm lý và thời gian điều trị. Trong khi đó
tuổi và liều điều trị có sự tương quan rất yếu,
không có ý nghĩa thống kê với điểm số chất
lượng cuộc sống về mặt tâm lý.
Hệ số tương quan giữa điểm số chất lượng
cuộc sống về mặt xã hội với tuổi, liều Methadone
và thời gian điều trị lần lượt là -0,032 (p=0,797), -
0,094 (p=0,455) và 0,48 (p=0,005). Như vậy có sự
tương quan trung bình có ý nghĩa thống kê giữa
điểm số chất lượng cuộc sống về mặt xã hội và
thời gian điều trị. Trong khi đó tuổi và liều điều
trị có sự tương quan yếu và không có ý nghĩa
thống kê với điểm số chất lượng cuộc sống về
mặt xã hội.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017
78
Hệ số tương quan giữa điểm số chất lượng
cuộc sống về mặt triệu chứng với tuổi, liều
Methadone và thời gian điều trị lần lượt là 0,174
(p=0,165), -0,125 (p=0,320) và 0,37(p=0,02). Như
vậy có sự tương quan trung bình có ý nghĩa
thống kê giữa điểm số chất lượng cuộc sống về
mặt triệu chứng và thời gian điều trị. Trong khi
đó tuổi và liều điều trị có sự tương quan yếu và
không có ý nghĩa thống kê với điểm số chất
lượng cuộc sống về mặt triệu chứng.
Bảng 10: Phương trình hồi quy tương quan giữa điểm số chất lượng cuộc sống và thời gian điều trị
Phương trình hồi quy p
Điểm số CLCS về mặt sinh lý = 31,59 + 1,07* Thời gian điều trị <0,001 0,20
Điểm số CLCS về mặt tâm lý = 31,70 + 1,54* Thời gian điều trị <0,001 0,22
Điểm số CLCS về mặt xã hội = 39,57 + 0,87* Thời gian điều trị 0,01 0,10
Điểm số CLCS về mặt triệu chứng= 42,43 + 1,48*Thời gian điều trị <0,001 0,21
Dựa vào phương trình hồi quy tương quan
ta thấy:
Thời gian điều trị giải thích cho 20% sự
thay đổi về điểm số chất lượng cuộc sống về
mặt sinh lý, mức ý nghĩa của biến số thời gian
điều trị có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Từ
phương trình hồi quy nếu thời gian điều trị
tăng thêm 1 tháng thì điểm số chất lượng cuộc
sống tăng thêm 1,07 điểm.
Thời gian điều trị giải thích cho 22% sự
thay đổi về điểm số chất lượng cuộc sống về
mặt tâm lý, mức ý nghĩa của biến số thời gian
điều trị có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Từ
phương trình hồi quy nếu thời gian điều trị
tăng thêm 1 tháng thì điểm số chất lượng cuộc
sống tăng thêm 1,54 điểm.
Thời gian điều trị giải thích cho 10% sự
thay đổi về điểm số chất lượng cuộc sống về
mặt xã hội, mức ý nghĩa của biến số thời gian
điều trị có ý nghĩa thống kê với p=0,01. Từ
phương trình hồi quy nếu thời gian điều trị
tăng thêm 1 tháng thì điểm số chất lượng cuộc
sống tăng thêm 0,87 điểm.
Thời gian điều trị giải thích cho 21% sự thay
đổi về điểm số chất lượng cuộc sống về mặt triệu
chứng, mức ý nghĩa của biến số thời gian điều trị
có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Từ phương
trình hồi quy nếu thời gian điều trị tăng thêm 1
tháng thì điểm số chất lượng cuộc sống tăng
thêm 1,48 điểm.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu tiến hành trên toàn bộ 65 bệnh
nhân tại trong tâm phòng chống HIV/AIDS tại
Long An ghi nhận điểm chất lượng cuộc sống
trung bình trên bốn phương diện sinh lý, tâm lý,
xã hội và triệu chứng lần lượt là 35,27; 37,01;
42,56 và 47,53. Nhìn chung điểm chất lượng cuộc
sống trong nghiên cứu ghi nhận cao hơn so với
các nghiên cứu trước đây.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian là một
yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống
trên cả 4 phương diện của các bệnh nhân. Cụ thể
những bệnh nhân điều trị Methadone trên 3
tháng có điểm chất lượng cuộc sống cao hơn
những bệnh nhân điều trị dưới ba tháng trên cả
4 phương diện.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu để xây
dựng những chương trình nhằm hổ trợ các bệnh
nhân một cách tốt nhất trong vấn đề tái hòa
nhập cộng đồng. Đặc biệt chú trọng đến vấn đề
việc làm cho các đối tượng trong quá trình cai
nghiện cũng như sau cai nghiện. Tiến hành kêu
gọi xã hội hóa, các nguồn tài trợ để đảm bảo duy
trì chương trình lâu dài. Gia đình nên tìm hiểu,
lắng nghe và động viên các bệnh nhân trong quá
trình điều trị. Nắm bắt tâm tự nguyện vọng và
hỗ trợ các bệnh nhân trong việc tái hòa nhập
cộng đồng. Cùng tham gia vào các hoạt động
tuyên truyền nhằm nhân bản chương trình một
cách rộng rãi hơn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 21 * Số 5 * 2017 Nghiên cứu Y học
79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2007) Hướng dẫn: Điều trị thay thế nghiện các chất
dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone và Hướng dẫn tổ
chức thực hiện. Tr. 36 - 116
2. Bộ Y Tế, Cục Phòng Chống HIV/AIDS (2012) Điều trị nghiện
các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone, Hà Nội. Tr.
107 - 148
3. Jiang H, Han Y, Du J, et al (2014) "Factors associated with one
year retention to Methadone maintenance treatment program
among patients with heroin dependence in China". Subst
Abuse Treat Prev Policy, 9 (1), 11., pp. 106 - 114
4. Sở Y tế tỉnh Long An (2013) Triển khai chương trình điều trị
thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
Methadone, Website: yte.longan.gov.vn, 21/12/2013.
5. World Health Organization (2012) Operational guidelines for
the management of opioid dependence in South-East Region,
pp. 1176 – 1199.
6. Yang F, Lin P, Li Y, He Q, Long Q, Fu X (2013) "Predictors of
retention in community-based Methadone maintenance
treatment program in Pearl River Delta, China". Harm
Reduction Journal, 10 (3), pp. 113 - 118
Ngày nhận bài báo:
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng: 05/09/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nc_889_chat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_dang_dieu_tri_thay.pdf