Nạo vét hạch của phẫu thuật nội soi điều trị ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải

Tài liệu Nạo vét hạch của phẫu thuật nội soi điều trị ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải: Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 301 NẠO VÉT HẠCH CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN ĐẠI TRÀNG PHẢI Huỳnh Quyết Thắng*, Hồ Long Hiển ** TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá số lượng, kích thước, vị trí, tỷ lệ di căn hạch qua phẫu tích bệnh phẩm ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải được điều trị bằng phẫu thuật nội soi cắt nửa đại tràng phải. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 80 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải được phẫu thuật nội soi cắt nửa đại tràng phải, vét hạch hệ thống. Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện K, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Ung Bướu Cần Thơ từ tháng 6 năm 2012 đến tháng 6 năm 2016. Kết quả: Có 36 bệnh nhân nam và 44 bệnh nhân nữ; tuổi trung bình 54,8 ± 1,7 (20-87). 15 bệnh nhân có vết mổ bụng cũ (18,8%). Khối u có kích thước trung bình là 4,9 ± 0,2 cm (1,5-6 cm). Có 992 hạch nạo vét, số hạch nạo vét được trung bì...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 196 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nạo vét hạch của phẫu thuật nội soi điều trị ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 301 NẠO VÉT HẠCH CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN ĐẠI TRÀNG PHẢI Huỳnh Quyết Thắng*, Hồ Long Hiển ** TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá số lượng, kích thước, vị trí, tỷ lệ di căn hạch qua phẫu tích bệnh phẩm ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải được điều trị bằng phẫu thuật nội soi cắt nửa đại tràng phải. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 80 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải được phẫu thuật nội soi cắt nửa đại tràng phải, vét hạch hệ thống. Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện K, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Ung Bướu Cần Thơ từ tháng 6 năm 2012 đến tháng 6 năm 2016. Kết quả: Có 36 bệnh nhân nam và 44 bệnh nhân nữ; tuổi trung bình 54,8 ± 1,7 (20-87). 15 bệnh nhân có vết mổ bụng cũ (18,8%). Khối u có kích thước trung bình là 4,9 ± 0,2 cm (1,5-6 cm). Có 992 hạch nạo vét, số hạch nạo vét được trung bình mỗi bệnh nhân là 12,4 ± 2,8 (6-43). Kích thước hạch trung bình từ 0,5 đến 1cm chiếm 589 hạch (59,4%). Vị trí hạch tập trung chủ yếu ở cạnh khối u và dọc các bó mạch hồi đại tràng, đại tràng phải và đại tràng giữa (80,1%). Tỷ lệ di căn hạch chung là 40%. Kết luận: Nạo vét hạch của PTNS điều trị ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải đảm bảo nguyên tắc ung thư học: số lượng hạch trung bình mỗi bệnh nhân là 12,4 hạch, tập trung chủ yếu ở cạnh khối u và dọc các động mạch hồi đại tràng, đại tràng phải và đại tràng giữa (80,1%) với kích thước từ 0,5-1cm (59,4%). Tỷ lệ di căn hạch chung là 40%. Từ khóa: Phẫu thuật nội soi, ung thư đại tràng, nạo vét hạch ABSTRACT THE LYMPH NODE DISSECTION OF LAPROSCOPIC SURGERY FOR RIGHT COLON CARCINOMA Huynh Quyet Thang, Ho Long Hien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 301 - 306 Purpose: Evaluate the number, size, position, metastatic rate of lymph node dissected from the specimen of laparoscopical right hemicolectomy for colon carcinoma. Methods: Cross-sectional study of 80 right colon carcinoma patients who underwent laparoscopical right hemicolectomy. This study was performed at K hospital, hospital of Hanoi Medical University and Cantho Oncology hospital from June 2012 to June 2016. Results: There were 36 male and 44 female patients; mean of age was 54.8 ± 1.7 (20-87). 15 patients have previous operation history. Mean of tumor size was 4.9 ± 0.2 cm (1.5-6 cm). The total number of harvested lymph nodes was 992, mean of nodes dissection for each patient was 12,4 ± 2.8 (6-43). The number of nodes dissection whose size from 0.5 to 1cm were 589 (59,4%). Lymph node’s location were mainly closed to the tumor edge and along arteries: ileocolic, right colic and middle colic arteries (80,1%). Metastatic rate of lymph nodes were 40%. Conclusion: Lymphadenectomy in Laparoscopical surgery for right colon carcinoma obeyed the * Bộ môn Ung bướu – Trường Đại Học Y dược Cần Thơ ** Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ. Tác giả liên lạc: PGS. TS. Huỳnh Quyết Thắng ĐT: 0913.731.338 Email: thanghuynhphd@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 302 oncological principles: mean of nodes dissection for each patient were 12,4; node’s locations were mainly closed to the tumor edge and along the ileocolic, right colic and middle colic arteries (80,1%) of which the mean size were from 0.5 to 1cm (59,4%). Metastatic rate of lymph nodes were about 40%. Keywords: Laparoscopy; Colon cancer; Lymphadenectomy ĐẶT VẤN ĐỀ Kỷ nguyên của phẫu thuật nội soi (PTNS) đại tràng được Jacob bắt đầu vào năm 1991(3). Tuy nhiên sự áp dụng ban đầu dấy lên sự tranh luận về tỷ lệ tái phát tại lỗ trocar, về mặt ung thư học của PTNS như khả năng vét hạch, nguyên tắc "no touch". Nhưng phẫu thuật nội soi đã được áp dụng trên toàn thế giới trong điều trị ung thư đại trực tràng (UTĐTT) và từng bước khẳng định được tính ưu việt của nó: tính thẩm mỹ cao hơn, giảm đau sau mổ, bệnh nhân hồi phục nhanh, rút ngắn thời gian nằm viện. Tuy nhiên, câu hỏi về mặt ung thư học vẫn được đặt ra là: PTNS có đảm bảo nạo vét hạch đầy đủ không so với kỹ thuật mổ mở quy ước cho ung thư đại tràng?(1). Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (AJCC) và Hội liên hiệp phòng chống ung thư quốc tế (UICC), số lượng hạch nạo vét được phải đạt tối thiểu 12 hạch cho phẫu thuật UTĐTT nói chung mới đủ để đánh giá giai đoạn di căn hạch. Đánh giá đúng giai đoạn ung thư đại tràng (UTĐT) sau mổ giúp xác định phương pháp điều trị bổ trợ tiếp theo và là yếu tố tiên lượng quan trọng(6). Trên thế giới, PTNS điều trị UTĐT đã được chấp nhận kể từ khi có một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, đa trung tâm với số lượng lớn bệnh nhân được báo cáo là an toàn về mặt ung thư học(5,7,10). Sau đó, thử nghiệm lâm sàng CLASICC đã xác nhận sự an toàn về mặt ung thư học của PTNS đại trực tràng(11). Tương tự, thử nghiệm lâm sàng COST đã kết luận phẫu thuật nội soi gần như được chấp nhận là một chọn lựa để điều trị UTĐT(7). Hiện nay, trong nước đã có một số báo cáo áp dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị ung thư đại tràng, nhưng vấn đề trọng tâm về nạo vét hạch trong UTĐT bằng PTNS vẫn còn hạn chế. Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá khả năng vét hạch của phẫu thuật nội soi điều trị ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải được điều trị bằng PTNS tại Bệnh viện K, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Ung Bướu Cần Thơ. Tiêu chuẩn chọn bệnh U ở vị trí đại tràng phải, có chẩn đoán mô bệnh học là ung thư biểu mô tuyến, kích thước u ≤ 8cm, không xâm lấn các tạng lận cận, không có di căn xa, không có biến chứng thủng hoặc tắc ruột. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 6/2012 đến 6/2016. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Mô tả cắt ngang Các chỉ tiêu nghiên cứu Đặc điểm bệnh nhân Tuổi, giới, cân nặng, chiều cao, BMI, vị trí u, kích thước u, tiền sử mổ bụng cũ. Kết quả nạo vét hạch Số lượng, kích thước, vị trí các nhóm hạch nạo vét được qua phẫu tích bệnh phẩm. Tình trạng di căn hạch theo các chặng, kích thước và TNM. Quy trình điều trị Bệnh nhân được PTNS theo một quy trình định trước bởi các phẫu thuật viên có kinh nghiệm (PTNS cắt đại trực tràng trên 50 ca). Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 303 Bệnh nhân được cắt đại tràng phải qua nội soi và làm miệng nối ngoài cơ thể. Bệnh phẩm được phẫu tích tươi ngay sau mổ bởi chính phẫu thuật viên. Chúng tôi ghi nhận số lượng, kích thước và vị trí phân bố các nhóm hạch theo Hội ung thư đại trực tràng Nhật Bản: H3 nhóm hạch dọc mạch máu chính (bó mạch mạc treo tràng trên). Nhóm H2 hạch trung gian (dọc động mạch hồi đại tràng, động mạch đại tràng phải và động mạch đại tràng giữa). Nhóm H1 hạch cạnh khối u (thành đại tràng và cạnh đại tràng). Mỗi hạch sẽ được để vào một lọ riêng biệt, cố định formol và được nhuộm HE để xác định tình trạng di căn hạch. KẾT QUẢ Đặc điểm bệnh nhân Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân Đặc điểm Kết quả Tuổi 54,8 ± 1,7 (20-87) Giới Nam 36 (45) Nữ 44 (55) Cân nặng (kg) 52 ± 0,9 (36-76) Chiều cao (cm) 157,2 ± 0,7 (143-169) BMI (kg/m 2 ) 21 ± 0,3 (14,6-30,8) Vị trí u Manh tràng 10 (12,5) Đại tràng lên 41 (51,2) Đại tràng góc gan 29 (36,3) Kích thước u (cm) 4,9 ± 0,2 (1,5-6) Tiền sử mổ bụng cũ 15 (18,8) Các giá trị được thể hiện là Trung bình ± sai số chuẩn (khoảng) hoặc số trường hợp (%) Nhận xét: Nghiên cứu có 36 bệnh nhân nam và 44 bệnh nhân nữ. Tuổi trung bình là 54,8 ± 1,7 (20-87). Chỉ số BMI trung bình 21 ± 0,3 (14,6-30,8). Vị trí u ở đại tràng lên 41 bệnh nhân (51,2%), đại tràng góc gan 29 bệnh nhân (36,3%) và manh tràng 10 bệnh nhân (12,5%). Kích thước u trung bình là 4,9 ± 0,2 cm (1,5-6 cm). 15 bệnh nhân có vết mổ bụng cũ (18,8%). Kết quả nạo vét hạch Tổng số hạch nạo vét được trên 80 bệnh nhân là 992 hạch. Trong đó, nhóm hạch H3 (dọc bó mạch mạc treo tràng trên) có được 197 hạch (19,9%), nhóm H2 (dọc động mạch hồi đại tràng, động mạch đại tràng phải và động mạch đại tràng giữa) có 417 hạch (42%) và nhóm H1 (hạch cạnh đại tràng và thành đại tràng) có 378 hạch (38,1%). Nhóm hạch kích thước 0,5-1cm chiếm tỷ lệ cao nhất 59,4% (589 hạch), nhóm hạch 1cm chỉ có 4,6% (46 hạch). Bảng 2. Kích thước và vị trí các nhóm hạch nạo vét được Nhóm H1 Nhóm H2 Nhóm H3 Tổng < 0,5 cm 82 112 163 357 (36%) 0,5-1 cm 267 294 28 589 (59,4%) > 1 cm 29 11 6 46 (4,6%) Tổng 378 (38,1%) 417 (42%) 197 (19,9%) 992 (100%) Trung bình số hạch nạo vét được trên mỗi bệnh nhân là 12,4 ± 2,8 hạch (6-43 hạch). Trong đó, có 4,7 hạch cạnh khối u; 5,2 hạch trung gian và 2,5 hạch dọc bó mạch mạc treo tràng trên. Tỷ lệ di căn hạch ở nhóm hạch > 1cm là 82,6% (38/46 hạch). Nhóm hạch 0,5-1cm có tỷ lệ di căn là 47,2% (278/589 hạch) và nhóm hạch < 0,5cm có tỷ lệ di căn thấp nhất 22,7% (81/357 hạch). Bảng 3. Tỷ lệ di căn hạch theo các chặng Di căn hạch Số trường hợp Tỷ lệ (%) Di căn chỉ 1 chặng 14 17,5 Di căn 2 chặng 12 15 Di căn cả 3 chặng 6 7,5 Di căn (ít nhất 1 trong 3 chặng) 32 40 Tỷ lệ di căn hạch chung là 40%; trong đó 7,5% bệnh nhân có di căn hạch cả 3 chặng. Bảng 4. Tỷ lệ di căn hạch theo TNM Di căn hạch Số trường hợp Tỷ lệ (%) N0 (không có di căn) 48 60 N1 (di căn 1-3 hạch) 24 30 N2 (di căn ≥ 4 hạch) 8 10 Tổng 80 100 Tỷ lệ di căn hạch của nhóm nghiên cứu là 40% (32/80 bệnh nhân); trong đó chủ yếu là di căn từ 1-3 hạch (N1: 30%). BÀN LUẬN Nạo vét hạch trong UTĐT là một tiêu chuẩn ngoại khoa ung thư, là một yếu tố tiên lượng quan trọng(15). Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới số lượng hạch nạo vét được trong Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 304 phẫu thuật UTĐT: kỹ thuật mổ mở hay nội soi, kinh nghiệm, thái độ phẫu tích bệnh phẩm, kiến thức về nguyên tắc ung thư của phẫu thuật viên, sự hợp tác giữa phẫu thuật viên và các nhà giải phẫu bệnh để khám xét tất cả các hạch nạo vét được(4,6,17). Trong nghiên cứu của chúng tôi, 80 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải được PTNS với kỹ thuật nạo vét hạch theo quy trình thống nhất: Thắt mạch máu hồi đại tràng, mạch máu đại tràng phải và đại tràng giữa sát chỗ xuất phát từ bó mạch mạc treo tràng trên và nạo vét hạch. Nhóm H3 theo Hiệp hội ung thư đại trực tràng Nhật Bản là nhóm hạch mạch máu chính - bó mạch mạc treo tràng trên. Nhóm H2 hạch trung gian (dọc động mạch hồi đại tràng, đại tràng phải, và đại tràng giữa). Nhóm H1 hạch cạnh khối u (thành đại tràng và cạnh đại tràng)(2). Với 80 bệnh nhân mổ nội soi, tổng số hạch nạo vét được là 992 hạch. Trong đó, vị trí hạch chủ yếu tập trung ở nhóm H1 và H2 với số hạch lần lượt là 378 hạch (38,1%) và 417 hạch (42%), nhóm H3 chỉ có 197 hạch (19,9%). Vấn đề quan trọng nhất trong việc tiên lượng kết quả ung thư học lâu dài là số hạch nạo vét được. Hạch vùng cần phải được nạo vét có hệ thống(4). Số lượng hạch tối thiểu được đề nghị phải nạo vét là 6-17 hạch(8,18), và phải có ít nhất 12 hạch trở lên đối với phẫu thuật UTĐTT nói chung thì việc xếp giai đoạn lâm sàng mới chính xác. Nhờ đó việc chỉ định điều trị hóa chất bổ trợ hay không sẽ được quyết định(16). Tuy nhiên, số hạch vét được trung bình là 12 cho tất cả ung thư đại tràng từ giai đoạn I-IV với mọi kích thước. Đối với mổ mở quy ước, phẫu thuật không bị giới hạn bởi kích thước khối u. Nhưng đối với phẫu thuật nội soi, chỉ mổ những u có kích thước ≤ 6cm. Vì vậy, việc nạo vét hạch trong phẫu thuật nội soi có thể sẽ thu được số hạch ít hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi có số hạch trung bình nạo vét được là 12,4 ± 2,8 hạch (6- 43 hạch), vì vậy kết quả của chúng tôi đã có thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra về nạo vét hạch trong khi mổ và đủ để đánh giá giai đoạn di căn hạch theo tiêu chuẩn quốc tế và chỉ dẫn của NCCN(16). Một nghiên cứu được đánh giá rất cao trên thế giới của Hội đồng y khoa Hoàng Gia Anh quốc báo cáo năm 2005 là CLASICC Trial(9), thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đa trung tâm so sánh giữa mổ nội soi và mổ mở UTĐTT. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá kết quả ung thư học của 2 phương pháp phẫu thuật qua tiêu chuẩn nạo vét hạch. Kết quả nghiên cứu trên 794 bệnh nhân tại 27 trung tâm với 32 phẫu thuật viên chuyên khoa UTĐTT chia làm 2 nhóm, 526 bệnh nhân mổ nội soi, 268 bệnh nhân mổ mở. Số hạch nạo vét được của 2 nhóm là tương đương 12 (8-17) hạch nhóm PTNS và 12,5 (8-19) hạch nhóm mổ mở. Nghiên cứu này đã chứng minh được nạo vét hạch của PTNS điều trị UTĐTT không kém hơn phẫu thuật mổ mở. Kuhry E. tổng kết 33 thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm so sánh đối chứng 2 phương pháp PTNS và mổ mở UTĐTT từ năm 1998 đến 2007, nhưng chỉ có 12 nghiên cứu cho kết quả ung thư học xa 5 năm sau mổ với 3346 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, trong đó chỉ có 9 nghiên cứu thống kê số lượng hạch nạo vét được. Kết quả khi phân tích số liệu thì thấy số lượng hạch nạo vét được bằng PTNS ít hơn so với phẫu thuật mổ mở, nhưng khi dùng thuật toán Random effects so sánh kết quả này sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê(12). Lourenco T. tại Viện nghiên cứu sức khỏe Hoàng Gia Anh tổng kết đánh giá hiệu quả của PTNS so với mổ mở UTĐTT trên 4500 bệnh nhân từ năm 1997 đến 2005 trên thế giới. Trong 18 nghiên cứu thì có 12 nghiên cứu đề cập đến số hạch nạo vét được, 7/12 nghiên cứu có số hạch nạo vét được của PTNS ít hơn mổ mở, 2/12 nghiên cứu ghi nhận PTNS nạo vét hạch được nhiều hơn mổ mở và 3/12 nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về số hạch nạo vét được của 2 phương pháp mổ(13). Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 305 Bảng 5. Số hạch nạo vét được của một số tác giả Tác giả (năm) Số hạch nạo vét Mổ nội soi Mổ mở Stage (1997) 7 (3-14) 8 (4-15) Milsom (1998) 19 (5-69) 25 (4-74) Curet (2000) 11 (2-23) 10 (1-21) Lancy (2002) 11,1 ± 7,9 11,1 ± 7,4 Araujo (2003) 5,5 11,9 Hasegawa (2003) 23 (7-50) 26 (15-56) COST (2004) 12 12 Kaiser (2004) 13,3 (1-32) 14 (3-27) Leung (2004) 11,1 ± 7,9 12,1 ± 7,1 Vignali (2004) 15,2 ± 8,6 15 ± 7,7 CLASICC (2005) 12 (8-17) 13,5 (8-19) COLOR (2005) 10 (0-41) 10 (0-42) Các giá trị được thể hiện là trung bình (khoảng) hoặc Trung bình ± độ lệch chuẩn. Nguồn: theo Lourenco T (2008)(13) Kích thước hạch cũng là yếu tố dự báo di căn hạch. Chúng ta hay suy nghĩ những hạch to thường là hạch di căn nên khi đã tìm ra hạch lớn thì việc phẫu tích và xét nghiệm những hạch nhỏ còn lại sẽ bị coi nhẹ, bỏ sót. Phân tích 80 bệnh nhân của chúng tôi, kích thước hạch thường gặp từ 0,5-1cm chiếm đa số với 589 hạch (59,4%), hạch < 0,5cm có 357 hạch (36%) và hạch > 1cm chỉ có 46 hạch (4,6%). Braat A.E. phân tích gợp 30 nghiên cứu về kích thước hạch ghi nhận: hạch trên 1cm đường kính cho tỷ lệ di căn hạch từ 90% đến 100%, hạch dưới 0,5cm có tỷ lệ di căn hạch từ 66% đến 77%(4). Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ di căn hạch theo kích thước hạch thấp hơn, tỷ lệ di căn hạch ở nhóm hạch > 1cm chỉ có 82,6% (38/46 hạch), nhóm hạch 0,5-1cm có tỷ lệ di căn là 47,2% (278/589 hạch) và nhóm hạch <0,5cm có tỷ lệ di căn thấp 22,7% (81/357 hạch). Di căn hạch trong UTĐT cũng tuân theo nguyên lý chung di căn theo đường bạch huyết của các bệnh lý ung thư. Thông thường tế bào ung thư di trú từ khối u nguyên phát tới chặng hạch gần nhất cạnh khối u, sau đó tiến triển di trú đến các chặng hạch xa hơn. Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tuân theo nguyên lý này: tỷ lệ di căn hạch 1 chặng cạnh khối u là 17,5%, di căn hạch 2 chặng (cạnh khối u và trung gian) là 15% và di căn hạch 3 chặng là 7,5%. Toàn bộ nhóm nghiên cứu có tỷ lệ di căn hạch chung là 40%. Tỷ lệ di căn hạch là một yếu tố tiên lượng độc lập với thời gian sống thêm và tái phát sau mổ. Di căn hạch trong ung thư nói chung và UTĐT nói riêng còn một cơ chế nữa không tuân thủ trình tự các chặng hạch từ gần tới xa, tế bào ung thư có thể bỏ qua các chặng hạch ở gần đi tới chặng hạch xa hơn. Khái niệm này gọi là di căn nhảy cóc “skip metastasis”. Điều này giải thích tại sao có những trường hợp UTĐT không có di căn hạch cạnh khối u và hạch trung gian mà đã có di căn hạch ở bó mạch mạc treo tràng trên hay thậm chí đã có di căn gan tại thời điểm chẩn đoán(19,20). Nghiên cứu của chúng tôi không có hiện tượng nhảy cóc trong di căn hạch, 6 trường hợp di căn hạch dọc bó mạch mạc treo tràng trên đều đã có di căn hạch cạnh khối u và hạch trung gian. Khi xếp hạng di căn hạch theo TNM, chúng tôi ghi nhận chủ yếu là di căn từ 1-3 hạch (N1) 30%, và di căn từ 4 hạch trở lên (N2) là 10%. KẾT LUẬN Nạo vét hạch của PTNS điều trị ung thư biểu mô tuyến đại tràng phải đảm bảo nguyên tắc ung thư học với số lượng hạch trung bình nạo vét được mỗi bệnh nhân là 12,4 hạch. Vị trí hạch chủ yếu tập trung ở cạnh khối u và dọc các bó mạch hồi đại tràng, đại tràng phải và đại tràng giữa (80,1%) với kích thước từ 0,5- 1cm (59,4%). Tỷ lệ di căn hạch chung là 40%. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abraham NS, et al (2007), “Meta-analysis of non- randomized comparative studies of short-term outcomes laparoscopic resection for colorectal cancer”, ANZ J. Surg, 77, pp. 508-516. 2. Akiyama M, et al (1999), Japanese classification of colorectal carcinoma, pp. 19-20. 3. Bittner R (2006), “Laparoscopic surgery – 15 years after clinical introduction”, World. J surg, 30, pp. 1190-1203. 4. Braat AE, et al (2005), “Lymphatic staging in colorectal cancer: pathologic, molecular, and sentinel node technique”, Dis colon rectum, 48, pp. 371-383. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * PB Tập 21 * Số 2 * 2017 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 306 5. COLOR Study Group (2000), “COLOR: a randomized clinical trial comparing laparoscopic and open resection for colon cancer”, Dig Surg, 17, pp. 617-622. 6. Edge SB, et al (2010), “Colorectal cancer”, AJCC cancer staging handbook, 7nd edition, pp. 173-174. 7. Fleshman J, Sargent DJ, Green E, Anvari M, Stryker SJ, Beart RWJr, et al (2007), “Laparoscopic colectomy for cancer is not inferior to open surgery based on 5-year data from the COST Study Group trial”, Ann Surg, 246, pp. 655-662. 8. Goldstein NS, Sanford W, Coffey M, Layfield LJ (1996), “Lymph node recovery from colorectal resection specimens removed for adenocarcinoma. Trends over time and a recommendation for a minimum number of lymph nodes to be recovered”, Am J Clin Pathol, 106, pp. 209-216. 9. Guillou PJ, Quirke P, Thorpe HC, et al (2005), “Short - term endpoints of conventional versus laparoscopic – assisted surgery in patients with colorectal cancer (MRC CLASICC Trial): multicenter randomized controlled trial”, The Lancet, 365, pp. 1718-1726. 10. Jayne DG, Guillou PJ, Thorpe H, Quirke P, Copeland J, Smith AM, et al (2007), “Randomized trial of laparoscopic-assisted resection of colorectal carcinoma: 3- year results of the UK MRC CLASICC Trial Group”, J Clin Oncol, 25, pp. 3061-3068. 11. Jayne DG, Thorpe HC, Copeland J, Quirke P, Brown JM, Guillou PJ (2010), “Five-year follow-up of the Medical Research Council CLASICC trial of laparoscopically assisted versus open surgery for colorectal cancer”, Br J Surg, 97, pp. 1638-1645. 12. Kuhry E, Schwenk W, Gaupset R (2008), “Long – term results of laparoscopic colorectal cancer resection”, The Cochrane collaboration Published by Wiley & Sons, pp. 1-63. 13. Lourenco T, Murray A, Grant A, et al (2008), “Laparoscopic surgery for colorectal cancer: safe and effective? A systematic review”, Surg Endosc, 22, pp. 1146- 1160. 14. Marusch F, Gastinger I, Schneider C, Scheidbach H, Konradt J, Bruch HP, et al (2001), “Importance of conversion for results obtained with laparoscopic colorectal surgery”, Dis Colon Rectum, 44, pp. 207-214. 15. Milsom W, Bohm B, Nakajima K (2006), Laparoscopic colorectal surgery, Springer 2nd editions, pp. 188-202. 16. National Comprehensive Cancer Network (NCCN). NCCN practice guidelines in oncology - V.2. 2009. Rectal cancer (Internet). Washington: NCCN; c2012 (cited 2012 Feb 6). Available from: 4/20/20094200133667.pdf. 17. Priolli DG, et al (2009), “Metastatic lymph node ratio as an independent prognostic variable in colorectal cancer: study of 113 patients”, Tech Coloproctol, 13, pp. 113-121. 18. Tekkis PP, Smith JJ, Heriot AG, Darzi AW, Thompson MR, Stamat- akis JD, et al (2006), “A national study on lymph node retrieval in resectional surgery for colorectal cancer”, Dis Colon Rectum, 49, pp. 1673-1683. 19. Yagci G, Unlu A, Kurt B, et al (2007), “Detection of micrometastases and skip metastases with ex vivo sentinel node mapping in carcinoma of the colon and rectum”, Int J Colorectal Dis, 22, pp. 167-173. 20. Yano H, Saito Y, Kirihara Y, et al (2006), “Tumor invasion of lymph node capsules in patients with Dukes C colorectal adenocarcinoma”, Dis Colon Rectum. 49, pp. 1867-1877. Ngày nhận bài báo: 07/12/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/12/2016 Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnao_vet_hach_cua_phau_thuat_noi_soi_dieu_tri_ung_thu_bieu_mo.pdf
Tài liệu liên quan