Nâng cao vị thế của nữ trí thức Việt Nam trong thời đại ngày nay - Đào Thị Tân

Tài liệu Nâng cao vị thế của nữ trí thức Việt Nam trong thời đại ngày nay - Đào Thị Tân: Đào Thị Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 3 - 7 3 NÂNG CAO VỊ THẾ CỦA NỮ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY Đào Thị Tân, Dương Thị Hương* Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Nói đến nữ trí thức Việt Nam là nói đến một trong những lực lượng sáng tạo và truyền bá tri thức. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nữ trí thức đóng vai trò quan trọng trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc biệt trong công tác giáo dục đào tạo, gia đìnhTuy nhiên, hiện nay với những định kiến và áp lực xã hội đã ảnh hưởng không nhỏ đến vị thế nghề nghiệp và hạnh phúc gia đình của nữ trí thức. Dưới góc độ nghiên cứu của bài viết này nhằm chỉ ra một số trở ngại đối với nữ trí thức và cần phải làm gì để nâng cao vị thế của nữ trí thức Việt Nam. Từ khóa: Nữ trí thức, Tri thức, Vị thế, Vai trò, Định kiến Trí * thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có n...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 350 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao vị thế của nữ trí thức Việt Nam trong thời đại ngày nay - Đào Thị Tân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đào Thị Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 3 - 7 3 NÂNG CAO VỊ THẾ CỦA NỮ TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY Đào Thị Tân, Dương Thị Hương* Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Nói đến nữ trí thức Việt Nam là nói đến một trong những lực lượng sáng tạo và truyền bá tri thức. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nữ trí thức đóng vai trò quan trọng trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc biệt trong công tác giáo dục đào tạo, gia đìnhTuy nhiên, hiện nay với những định kiến và áp lực xã hội đã ảnh hưởng không nhỏ đến vị thế nghề nghiệp và hạnh phúc gia đình của nữ trí thức. Dưới góc độ nghiên cứu của bài viết này nhằm chỉ ra một số trở ngại đối với nữ trí thức và cần phải làm gì để nâng cao vị thế của nữ trí thức Việt Nam. Từ khóa: Nữ trí thức, Tri thức, Vị thế, Vai trò, Định kiến Trí * thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị đối với xã hội. Có thể khẳng định rằng, trí thức nói chung hay nữ trí thức nói riêng là tầng lớp có trình độ học vấn cao trong xã hội, đặc điểm cơ bản của nữ trí thức là lao động trí óc và tính sáng tạo. Trong xã hội phong kiến với ảnh hưởng “nữ nhân nan hóa” mà việc thi cử công danh không có chỗ cho phụ nữ, trước cách mạng tháng Tám nữ trí thức rất hiếm và sự đối xử trong xã hội thuộc địa rất bất công. (Theo Nam Phong tháng 06/1918 lương của giáo viên nữ chỉ bằng 80% thậm chí 60% giáo viên nam). Nữ trí thức Việt Nam ngày nay xuất thân từ các giai tầng khác nhau, được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau và qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Do đặc thù về giới phụ nữ chiếm ưu thế trong một số ngành như: giáo dục, y tế; trong chuyên môn, phụ nữ chiếm số đông trong các lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ, y dược, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và kinh tế. Nữ trí thức cũng đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, nhiều nữ trí thức đạt được những giải thưởng cao quý trong nước và quốc tế, vinh dự được Ðảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo * Tel: 0979 787221, Email: huongnguyenthai26@gmail.com Nhân dân và Nhà giáo Ưu tú, Thầy thuốc Nhân dân, Thầy thuốc Ưu tú, Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú, Giải thưởng Kovalepxkai, Bông hồng vàng Nhiều chức danh khoa học trước đây chỉ có nam giới mới có thể đạt tới thì nay ngày càng nhiều nữ trí thức đạt được (Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Tiến sĩ khoa học...), hoặc được nhận các danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động. Những vị trí trọng trách trong Nhà nước đã có phụ nữ tham gia, như: Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch nước, Bộ trưởng và tương đương,..tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIV chiếm 26,80%; nữ đại biểu HĐND khóa 2016 - 2021, cấp tỉnh/thành chiếm 26,46%, cấp quận, huyện, thị xã chiếm 27,51% và cấp xã, phường, thị trấn chiếm 26,70%. Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, phó giáo sư là nữ chiếm 30,9%, nữ tiến sĩ là 38,6%, và 54,6% nữ thạc sĩ.[9], tỷ lệ nữ trí thức trong tổng số người đạt tiêu chuẩn PGS, GS (từ năm 2000 - 2015) có cải thiện theo thời gian. Sau 8 năm, năm 2015, tỷ lệ nữ đạt chuẩn GS (so với năm 2007) đã tăng được 1,80 lần, PGS tăng 2,52 lần [10]. Theo thống kê của Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, trong lĩnh vực giáo dục, năm học 2015 - 2016, số phó giáo sư là nữ chiếm 18,8%; số tiến sĩ là nữ chiếm 31%, số thạc sĩ là nữ chiếm 58,1%. Ở cấp đại học, giảng viên nữ chiếm 51% [11], trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, nữ chiếm hơn 70% tổng số lao Đào Thị Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 3 - 7 4 động. Nhiều nữ doanh nhân thành đạt, năng động, tài ba, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Xét theo thành phần kinh tế, so với nam giới thì 43,3% nữ trí thức làm việc trong thành phần kinh tế nhà nước, 32% làm việc trong thành phần kinh tế tập thể, riêng trong thành phần kinh tế ngoài Nhà nước nữ trí thức chiếm tỷ lệ 53%. Độ tuổi trung bình của nữ trí thức hiện nay là từ 25 đến 40, khẳng định sức trẻ của trí tuệ, sự say mê trải nghiệm cuộc sống và là lực lượng nữ trí thức nòng cốt. Nữ trí thức tập trung chủ yếu ở thành thị, chủ yếu là 2 trung tâm lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh đồng thời nữ trí thức ở các dân tộc ít người chiếm tỷ lệ thấp. Trong giai đoạn hiện nay, nữ trí thức Việt Nam đã dần khẳng định được vị trí bình đẳng của mình với nam giới trong xã hội. Người phụ nữ được giải phóng khỏi sự ràng buộc của hệ thống triết lý tư tưởng phong kiến với gia đình để tự tin bước ra ngoài xã hội, góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tuy vậy, trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề phụ nữ nói chung, nữ trí thức nói riêng còn có nhiều mặt hạn chế, đặt ra nhiều thách thức như: định kiến xã hội về giới vẫn còn nặng nề; trình độ ngoại ngữ, tin học, kiến thức hội nhập và năng lực lãnh đạo quản lý chưa tương xứng với yêu cầu; một bộ phận nhỏ tinh thần tự học chưa cao, ngại học; một số ít kém ý thức kỷ luật, phát ngôn và làm việc tuỳ tiện, gây mất đoàn kết, làm giảm sức mạnh của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp... Những hạn chế trên phần lớn nguyên nhân đều xuất phát từ những định kiến xã hội và áp lực đối với nữ trí thức. Một số định kiến về nữ trí thức Việt Nam Định kiến về giới thể hiện thông qua sự nhận thức và hành vi. Trước hết, xét về mặt nhận thức của xã hội đối với phụ nữ nói chung hay nữ trí thức nói riêng từ xưa đến nay luôn ở thế “yếu”. Những định kiến về giới thông qua ngôn ngữ (ví như “Đồ đàn bà”, “Biết gì mà nói”), thông qua những niềm tin được thể hiện qua các thước đo chuẩn mực giới truyền thống mà ít nhiều đã có những biến đổi theo những điều kiện kinh tế - xã hội. Từ định kiến nhận thức, sự phân biệt giới ở một bộ phận các tầng lớp xã hội còn nặng nề. Quan điểm “trọng nam, khinh nữ” không chỉ xuất phát ở nông thôn mà còn ở thành thị, không chỉ ở nhân dân mà còn ở một số đội ngũ quản lý những người có trình độ và địa vị trong xã hội. Ảnh hưởng từ tư tưởng coi thường phụ nữ đem đến những hệ lụy về niềm tin và sự trọng dụng đối với năng lực người phụ nữ, đặc biệt là các lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, các ngành về khoa học công nghệ, quản lý hay chính trị, xã hội Do vậy, nữ trí thức cần được nhận thức dựa trên những phẩm chất chân chính, năng lực trí tuệ. Xét về mặt hành vi, nữ trí thức là lực lượng có học vấn cao, được đào tạo bài bản chuyên sâu tuy nhiên họ đối mặt với việc lựa chọn nghề nghiệp eo hẹp cả về số lượng và chất lượng. Chính định kiến hành vi đối với năng lực của người phụ nữ không những giới hạn nữ trí thức trong những nghề nghiệp (như giáo viên cấp dưới các cấp, kế toán, nhân viên văn phòng, nhân viên đào tạo) mà còn giới hạn về độ an toàn của nghề nghiệp với những nhiệm vụ được giao thường không mang tính thử thách, không phát huy được khả năng sáng tạo, năng lực của bản thân. Sự ghi nhận về chuyên môn, sự cống hiến và sự trưởng thành trong công việc của nữ trí thức được xếp sau nam giới. Việc một bộ phận nữ trí thức không có việc làm là điều tất yếu khi chưa có sự nhìn nhận, đánh giá, lựa chọn, đào tạo, sử dụng nữ trí thức đúng đắn. Theo Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, quý 4 năm 2017 tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2017 phân theo vùng và phân theo giới ở nữ giới là 455,1 nghìn người (chiếm 42,5%) [1, tr.4] trong tổng số lượng người thát nghiệp trong độ tuổi chia theo giới tính, trong đó ở trình độ đại học thất nghiệp nhiều hơn cao đẳng, ở nông thôn thất nghiệp nhiều hơn ở đô thị. Đào Thị Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 3 - 7 5 Định kiến về áp lực bản thân và trách nhiệm gia đình của nữ trí thức. Đối với nữ trí thức, bên cạnh những rào cản xã hội đã định sẵn cho họ thì tâm lý giới cũng là một bức tường kìm hãm sự phát triển, thăng tiến về nghề nghiệp. Bản thân nữ trí thức vẫn thiếu ý chí, thiếu tự tin, an phận thủ thường, bằng lòng với hiện thực; không chịu được áp lực công việc, ngại thay đổi, ngại phấn đấu, đặt công việc gia đình cao hơn công việc cơ quanTại sao người nữ trí thức lại có tư thế an phận, dễ dàng chấp nhận hiện thực? sự an phận này dường như chỉ xuất hiện ở nữ giới mà ít xuất hiện ở nam giới? có thể lí giải một trong số những nguồn gốc của tâm lý đó là cách thức giáo dục theo giới tính, vô hình chung tạo ra một khuôn thước “nữ tính” như dịu dàng, nghe lời, lắng nghe, chấp nhận, hi sinh ở người phụ nữ. Song, vấn đề cơ bản vẫn nằm ở chính định kiến mà nữ trí thức tự xây dựng cho mình như: là phụ nữ thì không nên va chạm hay đối đầu, bản thân còn hạn chế về trình độ chuyên môn, công việc gia đình là trên hết, không muốn tiến thân, ưu tiên tiến thân cho người chồng, xã hội chưa quan tâm đúng mức đến nữ trí thứcNhư vậy, áp lực về bản thân mà nữ trí thức đặt ra rất nặng nề chủ yếu là sự thiếu tự tin, sựu e ngại va chạm và thiếu tính phản biện xã hội nên vị thế của họ không thể nâng cao và phát triển khi họ không vượt qua được áp lực chính mình. Một trong những khó khăn lớn đầu tiên cản trở sự phát triển chuyên môn mà nữ trí thức thường đề cập đó là trách nhiệm đối với gia đình. Nữ trí thức và gia đình xây dựng cho họ các vai trò người công dân, người vợ, người mẹ, người thầy đầu tiên của con cái. Với việc hoàn thành và hoàn thành tốt đồng thời các vai trò, sự chi phối về mặt thời gian cũng như thể lực, trí lực và tâm lực dẫn đến nữ trí thức tụt hậu trong việc trau dồi chuyên môn, cập nhật các thông tin mới, gánh nặng công việc gia đình làm bệ đỡ cho tâm lý an phận, ít nỗ lực phấn đấu, đặc biệt trong công tác nghiên cứu khoa học. Mặc dù, gia đình hiện đại cởi mở hơn, sự nhận thức về bình đẳng giới đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa khắc phục được tư duy lệch lạc về vai trò của nữ giới và nam giới trong gia đình. Trong thời đại ngày nay, để cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình tuy khó khăn nhưng vẫn có nhiều nữ trí thức thực hiện được. Để phát huy vai trò của nữ trí thức trong sự nghiệp xây dựng phát triển kinh tế xã hội, xây dựng gia đình Việt Nam phát triển bền vững và để phát triển con người Việt Nam toàn diện cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Một số giải pháp nhằm nâng cao vị thế của nữ trí thức ở nước ta Một là, khắc phục tâm lý giới ở người phụ nữ là nhiệm vụ hàng đầu. Tâm lý giới tạo cho nữ giới luôn mặc cảm so với nam giới về công tác chuyên môn, năng lực lãnh đạo; không chỉ gặp khó khăn với đồng nghiệp nam mà còn gặp khó khăn với cả đồng nghiệp nữ do sự hẹp hòi “níu áo nhau”. Nữ trí thức phải tự đổi mới nhận thức về vị trí vai trò của mình, nỗ lực vươn lên, không ỷ lại hay lệ thuộc vào gia đình hay xã hội. Cần đấu tranh tâm lý giới đối với bản thân, gia đình và định kiến giới về nhận thức, hành vi - đòi hỏi nữ trí thức vượt qua được các áp lực cá nhân và xã hội. Hai là, phát huy các giá trị tốt đẹp của nữ trí thức. Sự kết hợp hài hòa giữa thiên chức, truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam đối với gia đình và khẳng định chỗ đứng của mình trong xã hội, là những người “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Nữ trí thức ở nước ta không ngừng vươn tới mục tiêu: Xây dựng người phụ nữ Việt Nam yêu nước, có tri thức, có sức khỏe, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu, quan tâm tới lợi ích xã hội và cộng đồng. Ba là, tăng cường hoạt động tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới. Bình đẳng giới giúp cho xã hội và nam giới có sự nhận thức đúng đắn về vị thế của nữ trí thức, trả lại chỗ đứng cho nữ trí thức trong việc góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tham gia tích cực các Đào Thị Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 3 - 7 6 hoạt động chính trị, chủ động phản biện xã hội và mở rộng bình đẳng giới. Bình đẳng giới phải được thông qua các đạo luật “Luật bình đẳng giới”, “Luật chống bạo lực gia đình” và phải được thể hiện trong đời sống. Đồng thời, trong các cấp học ngay từ mẫu giáo cần có sự giáo dục cho trẻ em gái định hướng về sự tự chủ, tự tin và bình đẳng về giới. Bốn là, đẩy mạnh các chính sách ưu tiên đối với nữ trí thức về giáo dục, đào tạo. Đầu tư giáo dục cho nữ trí thức với tầm quan trọng không dừng ở một nhóm người hay một tầng lớp mà là đối với sự phát triển của quốc gia. Công tác giáo dục đào tạo nữ trí thức có hiệu quả sẽ tạo ra một lực lượng lao động ưu tú, một nguồn nhân lực chất lượng cao là cầu nối giữa gia đình và xã hội, một thế hệ mới xây dựng đất nước. Cần huy động ngân sách cho nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, khuyến khích xứng đáng đối với nữ trí thức có thành tích cao trong công tác. Năm là, phát huy vai trò của Hội nữ trí thức Việt Nam. Với vai trò là một tổ chức xã hội tập hợp lực lượng nữ trí thức, kể cả đội ngũ nữ trí thức sinh sống và làm việc ở nước ngoài; tạo điều kiện cho nữ trí thức không chỉ chia sẻ tri thức, kinh nghiệm và giúp đỡ nhau trong công việc, hoạt động xã hội mà còn là tổ chức bảo vệ quyền lợi và phát triển cho nữ trí thức. Không ngừng huy động các nguồn lực để phục vụ công tác đào tạo nguồn nhân lực nữ, đào tạo nữ trí thức trẻ. Sáu là, Đảng và Nhà nước cần phát triển hơn nữa các dịch vụ xã hội về gia đình. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng hết mực quan tâm đến phát huy vai trò phụ nữ trong các hoạt động kinh tế - văn hóa – xã hội, Người cho rằng các sở, ban, ngành, phải lập nhà trẻ, vườn trẻ, nhà ăn để phụ nữ yên tâm công tác, lao động sản xuất. Người nói: “Muốn cho người mẹ sản xuất tốt thì cần phải tổ chức những nơi gửi trẻ, những lớp mẫu giáo” [4,tr.295]; “nhà ăn công cộng càng thêm nhiều, thì phụ nữ sẽ rảnh rang để tham gia lao động, như vậy phụ nữ mới thật sự được giải phóng, nam giới mới thật sự bình quyền” [4, tr.370]. Nhà nước đầu tư phát triển rộng khắp các dịch vụ liên quan đến gia đình với chi phí hợp lý là một trong những điều kiện quan trọng nhằm giải phóng chị em phụ nữ nói chung và nữ trí thức nói riêng khỏi “gánh nặng” về chăm sóc gia đình, để có nhiều cơ hội hơn phát huy năng lực, trí tuệ nâng cao vị thế của mình trong mọi lĩnh vực, hướng tới phát triển toàn diện bản thân, tiến bộ xã hội và bình đẳng giới. Bảy là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ nữ trí thức. Nữ trí thức là một bộ phận tinh hoa của trí thức Việt Nam, có trình độ sâu rộng, luôn kiên trì nỗ lực hoàn thành công tác và xây dựng hạnh phúc gia đình. Cần nhận thức đúng đắn và đầy đủ về vị trí, vai trò to lớn của họ đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước đồng nghĩa với việc xây dựng gia đình và các thế hệ con người Việt Nam phát triển bền vững. Thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành các cơ chế, chính sách hợp lý để tạo môi trường cho nữ trí thức phấn đấu, cống hiến và phát triển. Tiếp tục lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới, tăng cường tiếng nói của nữ trí thức trong việc xây dựng, hoạch định cơ chế, chính sách pháp luật liên quan đến phụ nữ. Lãnh đạo có hiệu quả quá trình xây dựng gia đình Việt Nam nói chung, gia đình trí thức nói riêng ấm no, hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ, bền vững, tạo điều kiện giải phóng phụ nữ, để nữ trí thức học tập, cống hiến phát triển. Nâng tầm vị thế nữ trí thức Việt Nam hiện nay đồng nghĩa đề cao vai trò của thế mạnh nội lực của đất nước. Để nâng cao vị thế nữ trí thức Việt Nam hiện nay, cũng là một cuộc cách mạng “to và khó” đối với chính bản thân chị em phụ nữ và toàn xã hội. Cho nên để phát triển lực lượng nữ trí thức một cách toàn diện, nâng tầm phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới chúng ta cần để thực hiện đồng thời cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trên. Đào Thị Tân và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 3 - 7 7 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội – Tổng cục Thống kê (2017), Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam, số 16, quyw 4 năm 2017 2. Ngô Thị Tuấn Dung, Vũ Thị Cúc (2008), Những vấn đề lý luận cơ bản về giới và kinh nghiệm giải quyết vấn đề giới ở một số nước trên thế giới, Nxb. Viện Gia đình và Giới, Hà Nội. 3. Trần Thị Minh Đức (2008), Các thực nghiệm trong tâm lý học xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. 4. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 5. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình xã hội học về giới, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. 6. Nguyễn Thị Tuyết (2007), Cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường Đại học Việt Nam theo hướng bình đẳng giới, Luận án tiến sỹ quản lý giáo dục 7. Web: 8. Web: 9. dan/item/1906-vai-tro-vi-the-cua-nu-tri-thuc-viet- nam-trong-phat-trien-ben-vung.html. 10. thuc-trong-phat-trien-tintuc387032 11. 7/0/38279/Dao_tao_boi_duong_doi_ngu_tri_thuc_ nu_trong_thoi_ky_cong_nghiep_hoa_hien_dai_ho a_va_hoi_nhap_quoc. SUMMARY ADVANCINGTHE POSITION OF VIETNAMESE INTELLECTUAL WOMEN IN TODAY’S TIME Dao Thi Tan, Duong Thi Huong * University of Economics and Bussiness Administration - TNU Vietnamese intellectual women is a creative force as well as the diffusion of knowledge. In the process of industrialization and modernization of the country, intellectual women play an important role in all social economy sectors, especially in education, training and family. However, the prejudices and SOCIAL pressures have significantly affected intellectual women’s career and happiness in family life. This research aims to point out some of the obstacles for intellectualwomen and suggestions for improving the status of Vietnamese intellectual women in the current period. Keywords: Intellectual women, Knowledge, Education, Position, Prejudice Ngày nhận bài: 27/8/2018; Ngày phản biện: 02/10/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018 * Tel: 0979 787221, Email: huongnguyenthai26@gmail.com 8

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf301_361_1_pb_0841_2127079.pdf
Tài liệu liên quan