Tài liệu Nâng cao năng lực tự học của sinh viên đối với môn học tư tưởng Hồ Chí Minh - Lê Thị Hiền: 139
Nâng cao nĕng lực tự học . . .
NÂNG CAO NĔNG LỰC TỰ ḤC CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI MÔN
ḤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CULTIVATING STUDENTS’ SELF - LEARNING ABILITY
TO STUDY HO CHI MINH’S THOUGHTS
Lê Thị Hiền(*)
TÓM TẮT
Đổi ḿi phương pháp dạy ḥc theo hứng
t́ch cực, hiện đại là yêu cầu vừa có t́nh thừng
xuyên, vừa mang t́nh cấp thiết nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng dạy ḥc các môn lý
luận ch́nh trị nói chung và môn Tư tưởng H̀
Ch́ Minh nói riêng. Bài viết này tập trung làm rõ
việc dạy môn tư tưởng H̀ Ch́ minh theo hứng
t́ch cực, hiện đại, lấy ngừi ḥc làm trung tâm,
nâng cao nĕng lực tự ḥc c̉a sinh viên
Từ khóa: tự học, nêu vấn đề, đổi mới
phương pháp, chất lượng đào tạo.
ABSTRACT
Positive, modern, innovations in teaching
method have become on going and urgent
requirements with a view to enhancing of
teaching political theories in general and Ho Chi
Minh’s toughts in particular. The articles clearly
deines how to teach Ho Chi Minh’s thoughts ...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 667 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao năng lực tự học của sinh viên đối với môn học tư tưởng Hồ Chí Minh - Lê Thị Hiền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
139
Nâng cao nĕng lực tự học . . .
NÂNG CAO NĔNG LỰC TỰ ḤC CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI MÔN
ḤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CULTIVATING STUDENTS’ SELF - LEARNING ABILITY
TO STUDY HO CHI MINH’S THOUGHTS
Lê Thị Hiền(*)
TÓM TẮT
Đổi ḿi phương pháp dạy ḥc theo hứng
t́ch cực, hiện đại là yêu cầu vừa có t́nh thừng
xuyên, vừa mang t́nh cấp thiết nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng dạy ḥc các môn lý
luận ch́nh trị nói chung và môn Tư tưởng H̀
Ch́ Minh nói riêng. Bài viết này tập trung làm rõ
việc dạy môn tư tưởng H̀ Ch́ minh theo hứng
t́ch cực, hiện đại, lấy ngừi ḥc làm trung tâm,
nâng cao nĕng lực tự ḥc c̉a sinh viên
Từ khóa: tự học, nêu vấn đề, đổi mới
phương pháp, chất lượng đào tạo.
ABSTRACT
Positive, modern, innovations in teaching
method have become on going and urgent
requirements with a view to enhancing of
teaching political theories in general and Ho Chi
Minh’s toughts in particular. The articles clearly
deines how to teach Ho Chi Minh’s thoughts
subject in a positive, modern way centering
on learners and improving the students’ self –
learning ability.
Keywords: self-learning, issue introduction,
innovative teaching method, training quality.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong lịch sử giáo dục nước ta, việc đổi mới
mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục luôn
được quan tâm qua từng giai đoạn phát triển. Để
đạt được mục tiêu giáo dục đòi hỏi người dạy –
người học phải hợp tác với nhau, trong đó người
học phải có phương pháp suy nghĩ, suy luận,
phương pháp giải quyết vấn đề đúng đắn để tiếp
thu kiến thức đã học. Muốn vậy, người học phải
tích cực, chủ động, độc lập suy nghĩ, phải có
cách học tập hợp lí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dạy: “Về cách ḥc phải lấy tự ḥc làm cốt”(1).
Để đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi
chúng ta phải đầu tư cho giáo dục, xem “giáo
dục là quốc sách hàng đầu”. Ngành giáo dục
phải không ngừng nâng cao chất lượng để thực
hiện mục tiêu chiến lược nâng cao dân trí, đào
(1) H̀ Ch́ Minh toàn tập, tập 5, tr.273, Nxb CTQG Hà
Nội.2000
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào quá trình dạy
học – hoạt động dạy của thầy và hoạt động học
của trò. Trong quá trình đó, dưới sự lãnh đạo của
tổ chức, điều khiển của thầy và trò, thầy và trò
tự giác, chủ động tích cực tự tổ chức quá trình
nhận thức nhằm thực hiện các nhiệm vụ học
tập. Trong thư gửi Hội thảo khoa học nghiên
cứu và tự học, nguyên Tổng Bí thư Trung ương
Đảng Đỗ Mười có viết: “Chất lượng và hiệu
quả giáo dục được nâng lên khi tạo ra được
nĕng lực sáng tạo c̉a ngừi ḥc, khi biến quá
tr̀nh giáo dục thành quá tr̀nh tự giáo dục. Qui
mô giáo dục được mở rộng khi có phong trào
toàn dân tự ḥc”.
Tự học là con đường tốt nhất giúp cho
người học, mỗi sinh viên hiểu biết sâu sắc và
làm phong phú thêm kiến thức của mình, giúp
họ sáng tạo ra những giá trị để góp phần xây
dựng cuộc sống.
(*) ThS. GV. Trừng Đại ḥc Kinh tế - Kỹ thuật B̀nh Dương
140
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng
định: “Đổi ḿi mạnh mẽ phương pháp giáo dục
đào tạo, bảo đảm điều kiện và th̀i gian tự ḥc,
tự nghiên cứu cho ḥc sinh, nhất là sinh viên đại
ḥc phát trỉn mạnh mẽ phong trào tự ḥc, tự
đào tạo thừng xuyên và rộng khắp trong toàn
dân, nhất là thanh niên”.
Luật giáo dục (2005) nêu rõ: Phương pháp
giáo dục phải phát huy t́nh t́ch cực, tự giác,
ch̉ động, tư duy sáng tạo c̉a ngừi ḥc; b̀i
dững cho ngừi ḥc nĕng lực tự ḥc, khả nĕng
thực hành, lòng say mê ḥc tập và ý ch́ vươn
lên.
Vĕn kiện Đại hội XI của Đảng xác định:
“Tiếp tục đổi ḿi nội dung, phương thức, nâng
cao hơn nữa t́nh chiến đấu, t́nh thuyết phục,
hiệu quả c̉a cộng tác tư tưởng tuyên truyền ḥc
tập ch̉ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng H̀ Ch́
Minh, quan đỉm đừng lối c̉a Đảng, ch́nh
sách, pháp luật c̉a Nhà nức, Đổi ḿi, nâng
cao chất lượng công tác giáo dục lý luận ch́nh
trị, giáo dục công dân trong hệ thống các trừng
ch́nh trị, các trừng thuộc hệ thống giáo dục
quốc dân. Mỗi cán bộ, Đảng viên phải ḥc tập
nâng cao tr̀nh độ lý luận ch́nh trị”.(2)
Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự
học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có vị trí cực
kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào
tạo của đất nước. Kết quả đạt được của việc đổi
mới phương pháp dạy học các môn lý luận chính
trị nói chung và môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói
riêng trong thời gian qua ở các trường đại học
và cao đẳng là đáng ghi nhận. Tuy nhiên, vấn
đề dạy học còn tồn tại nhiều hạn chế trong đó
việc sử dụng phương pháp cũ vẫn là chủ đạo,
làm cho người học tiếp nhận tri thức một cách
thụ động. Vì vậy, sử dụng phương pháp dạy
học theo hướng tích cực, hiện đại trong đó việc
hướng dẫn sinh viên tự học, nâng cao nĕng lực
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại bỉu
toàn quốc lần thứ XI (2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.285
tự học của sinh viên là xu hướng chung trong
việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Từ
đó thúc đẩy quá trình rèn luyện kĩ nĕng tự học
cho sinh viên, không ngừng nâng cao chất lượng
đào tạo của nhà trường.
2. TỰ ḤC VÀ VAI TRÒ CỦA TỰ ḤC
2.1. Tự học
Theo từ điển Giáo dục học: “Ḥc là quá
tr̀nh nghiễn ng̃m, đ̣c đi đ̣c lại, nhắc đi nhắc
lại đ̉ ghi nh́, đ̉ bắt chức, đ̉ hỉu, đ̉ làm”(3)
hoặc “Ḥc, cốt lõi là tự ḥc, là quá tr̀nh phát
trỉn nội tại, trong đó ch̉ yếu là tự th̉ hiện và
biến đổi m̀nh, tự làm phong phú giá trị c̉a
m̀nh bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi
thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong c̉a
con ngừi m̀nh”(4)
Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự ḥc
cho SV trong các nhà trừng trung ḥc chuyên
nghiệp và Cao đẳng, Đại ḥc GS – TSKH Thái
Duy Tuyên viết: “Tự ḥc là hoạt động độc lập
chiếm lĩnh kiến thức, kĩ nĕng, kĩ xảo, là tự m̀nh
động não, suy nghĩ, sử dụng các nĕng lực tŕ tuệ
(quan sát, so sánh, phân t́ch, tổng hợp) cùng
các phẩm chất động cơ, t̀nh cảm đ̉ chiếm lĩnh
tri thức một lĩnh vực hỉu biết nào đó hay những
kinh nghiệm lịch sử, xã hội c̉a nhân loại, biến
nó thành sở hữu c̉a ch́nh bản thân ngừi ḥc”.
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu
giáo dục số 7/1998 cũng bàn về khái niệm tự
học: “Tự ḥc là ngừi ḥc t́ch cực ch̉ động,
tự m̀nh t̀m ra tri thức kinh nghiệm bằng hành
động c̉a m̀nh, tự th̉ hiện m̀nh. Tự ḥc là tự
đặt m̀nh vào t̀nh huống ḥc, vào vị tŕ nghiên
cứu, xử ĺ các t̀nh huống, giải quyết các vấn đề,
thử nghiệm các giải phápTự ḥc thuộc quá
tr̀nh cá nhân hóa việc ḥc”.
Từ các quan niệm trên đây có thể nhận thấy
(3) Bùi Hiền và các tác giả, 2001, Từ đỉn Giáo dục ḥc,
Nxb Bách Khoa, Hà Nội.
(4) Phạm Gia Đức, Phạm Đức Quang, 2007, Giáo tr̀nh
dạy ḥc sinh trung ḥc cơ sở tự lực tiếp cận kiến thức toán
ḥc, Nxb Sư phạm, Hà Nội.
141
Nâng cao nĕng lực tự học . . .
rằng: Tự học là quá trình tự thân chiếm lĩnh
những tri thức, tự trau dồi kĩ nĕng, tự bồi dưỡng
tâm hồn của mình ở mọi lúc, mọi nơi.
2.2. Vai trò của tự học
Tự ḥc là mục tiêu cơ bản c̉a quá tr̀nh dạy
ḥc, Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý
nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá
trình hoạt động dạy học giảng viên không chỉ
dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn,
chỉ cần yêu cầu sinh viên ghi nhớ mà quan trọng
hơn là phải định hướng, tổ chức cho sinh viên
tự mình khám phá ra những qui luật, thuộc tính
mới của các vấn đề khoa học. Giúp sinh viên
không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết
cách tìm đến những tri thức ấy.
B̀i dững nĕng lực tự ḥc là phương pháp
tốt nhất đ̉ tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá
tr̀nh ḥc tập. Một trong những phẩm chất quan
trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ
động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.Và, một
trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là
hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ
đó nền giáo dục mới mong đào tạo ra những lớp
người nĕng động, sáng tạo, thích ứng với mọi thị
trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng.
Có thể xem tính tích cực (hình thành từ nĕng lực
tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát
triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại.
Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện
sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân
người học trong quá trình nhận thức thông qua
sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là
tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng
thú người học mới có được sự tự giác say mê
tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động
lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người
chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu
nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm
cho sự định hình tính độc lập trong học tập.
Tự ḥc giúp cho ṃi ngừi có th̉ ch̉ động
ḥc tập suốt đ̀i, học tập để khẳng định nĕng
lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con
người thích ứng với mọi biến cố của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học
mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so
với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với
những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại
mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi
trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người
học có được phương pháp, kĩ nĕng tự học, biết
linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực
tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết
quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao.
Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy,
nếu xây dựng được phương pháp tự học, đặc
biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng
tạo sẽ khơi dậy nĕng lực tiềm tàng, tạo ra động
lực nội sinh to lớn cho người học.
3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM PHÁT
HUY NĔNG LỰC TỰ ḤC CỦA SINH
VIÊN ĐỐI VỚI MÔN ḤC TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
3.1. Về phía Bộ Giáo dục và đào tạo
Trong qui định chuẩn đầu ra đối với sinh
viên, trong đó chú trọng mục tiêu đánh giá nĕng
lực tự học, tự nghiên cứu và vận dụng giữa lý
luận với thực tiễn của sinh viên khi học tập các
môn Lý luận chính trị nói chung và môn tư tưởng
Hồ Chí Minh nói riêng như một yêu cầu, nhiệm
vụ bắt buộc đối với sinh viên các trường trong
quá trình đào tạo. Có kế hoạch chỉ đạo triển khai
định kì nhằm theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc
thực hiện của các trường về mục tiêu đổi mới
phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng
dạy học các môn lý luận chính trị. Định hướng
cách ra đề thi, tổ chức biên soạn và thẩm định
giáo trình sao cho sinh viên trong quá trình
học tập các môn học này và ngay cả sau khi ra
trường vẫn có ý thức tự giác và nhu cầu nâng
cao khả nĕng tự học.
Xây dựng nhận thức đúng đắn cho các cấp
quản lý, giảng viên và sinh viên về tầm quan
trọng và ý nghĩa khoa học thực tiễn của môn học
tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới
và hội nhập quốc tế. Với bất cứ môn học nào, để
học tốt điều trước hết phải nhận thức đúng về
142
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
giá trị lý luận, khoa học và ý nghĩa thực tiễn của
môn học đó. Từ đó xây dựng tình cảm, động cơ
đúng đắn trong quá trình học tập, giải tỏa được
tâm lý gò ép nặng nề, để giúp sinh viên tránh
được áp lực khô khan, cứng nhắc.
Bộ cần có sự hướng dẫn cụ thể, cập nhật
về chương trình tập huấn, kế hoạch nghiên cứu
thực tế của giảng viên giảng dạy tư tưởng Hồ Chí
Minh cho các trường đại học để bài giảng có sức
thuyết phục, kết hợp được lý luận và thực tiễn.
3.2. Về phía nhà trường
Hoàn thiện đề cương chi tiết môn học trên
cơ sở khung chương trình đào tạo của Bộ, trong
đó phải chú trọng đến việc xây dựng kế hoạch
đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập, đây cũng là tiền đề để điều chỉnh
chương trình đào tạo, tổ chức giảng dạy và học
tập. Tĕng cường công tác kiểm tra, giám sát đảm
bảo chất lượng giảng dạy của giảng viên và học
tâp của sinh viên.
Nhà trường chú trọng xây dựng cơ sở vật
chất, đặc biệt là các phòng giáo dục truyền
thống, thư viện tra cứu các nguồn học liệu, tạo
điều kiện cho giảng viên, sinh viên đi thực tế
Trong đó, nguồn học liệu phải thường xuyên
được cập nhật, bổ sung làm cho thông tin ngày
càng phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu tra
cứu và học tập của giảng viên, sinh viên.
Phối hợp định kỳ với các phòng /Khoa/Ban
và các đơn vị chức nĕng trong và ngoài trường
như Phòng công tác học sinh sinh viên, Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên tổ chức các buổi hội
thảo chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm về đổi mới
phương pháp giảng dạy, học tập môn tư tưởng
Hồ Chí Minh nhằm tổng kết đánh giá và định
hướng giảng dạy, học tập cho giảng viên, sinh
viên trong điều kiện học chế tín chỉ. Đặc biệt
quan tâm thường xuyên nội dung, công tác tuyên
truyền, giáo dục giúp cho sinh viên nâng cao ý
thức tự giác, tinh thần thái độ học tập nghiêm
túc, nắm vững lý luận và biết vận dụng kiến thức
đã học để giải quyết vấn đề thực tiễn một cách
linh hoạt và hiệu quả.
3.3. Về phía giảng viên
Cĕn cứ vào đề cương chi tiết môn học, xây
dựng lịch trình, kế hoạch giảng dạy và kiểm tra,
đánh giá học phần đảm bảo theo yêu cầu nâng
cao chất lượng đào tạo. Giảng viên chú ý khơi
gợi, kích thích động cơ học tập của sinh viên
thông qua đổi mới phương pháp dạy học, công
tác kiểm tra, đánh giá như: Tĕng tỷ lệ điểm đánh
giá quá trình để ràng buộc sinh viên phải chủ
động học tập, nâng cao ý thức, thái độ tự giác
trong học tập; giao các bài tập ở nhà như bài tập
cá nhân, bài tập nhóm, chấm và sử dụng điểm
đánh giá quá trình thật khách quan, công bằng
và nghiêm túc.
Trong quá trình giảng dạy, giảng viên nên
giành thời gian thích hợp để hướng dẫn sinh viên
rèn luyện một số kĩ nĕng tự học. Việc này cần
phải được tiến hành vào những tiết học đầu tiên
của học phần, nhằm giới thiệu tổng quát về yêu
cầu, nội dung, chương trình của học phần, giới
thiệu cách học, phương pháp học. Các phương
pháp giảng dạy trong học phần đều phải hướng
đến mục tiêu lấy người học làm trung tâm, vì
vậy giảng viên phải luôn quan tâm, nhắc nhở
sinh viên việc tự học, tự nghiên cứu trước khi
lên lớp để có thể chủ động nắm bắt kiến thức
hiệu quả hơn.
Các phương pháp giảng dạy đề xuất để đối
với giảng viên để nâng cao nĕng lực tự học của
sinh viên đối với môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Sử dụng phương pháp thảo luận trong dạy
ḥc đ̉ thực hiện việc “nêu và giải quyết vấn đề”.
Tại công vĕn số 83/BDGĐT – ĐH&SĐH
ngày 05/01/2006 về hứng d̃n thực hiện
chương tr̀nh các môn Khoa ḥc Mác – Lênin
và tư tưởng H̀ Ch́ Minh tr̀nh độ đại ḥc, cao
đẳng của Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Giảng viên
chủ trì thảo luận theo lớp do trường bố trí với
quy mô phù hợp, đảm bảo cho tất cả sinh viên
đều có cơ hội phát biểu thảo luận. Nội dung thảo
luận cần hướng vào kiến thức cơ bản của môn
học, đặc biệt lưu ý việc liên hệ thực tiễn đất
nước và chuyên ngành đào tạo của sinh viên”.
143
Nâng cao nĕng lực tự học . . .
Nĕm 2008, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành Quyết định số 52/2008/QĐ –
BGDĐT về chương tr̀nh các môn lý luận ch́nh
trị tr̀nh độ đại ḥc và cao đẳng, đào tạo theo
ḥc chế t́n chỉ với 70% lý thuyết, 30% thảo
luận. Thảo luận là hình thức dạy học chính khóa
theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Như
vậy, tổ chức tốt các giờ có thảo luận chính là góp
phần đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy và
học tập các môn khoa học Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Tự học và thảo luận có vai trò rất quan trọng
trong quá trình nắm vững và vận dụng tri thức vào
cuộc sống. Dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh
trước hết phải quán triệt quan điểm của Người về
vai trò của tự học, tự giáo dục và thảo luận.
Thảo luận là một trong những hình thức để
khắc phục hạn chế của phương pháp dạy học
truyền thống (thuyết trình). Thông qua thảo luận,
sinh viên có điều kiện, môi trường để thể hiện
sự hiểu biết, nĕng lực đánh giá vấn đề cũng như
việc thực hành ứng xử các chuẩn mực đạo đức
theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quá
trình chuẩn bị nội dung thảo luận, sinh viên phải
nghiên cứu bài giảng, tìm tư liệu và xử lý thông
tin trước khi đưa nội dung ra trước tập thể lớp,
quá trình này làm cho sinh viên không những
nắm được kiến thức cơ bản mà còn mở rộng và
nâng cao sự hiểu biết về nội dung trí thức của
môn học. Tổ chức thảo luận là cơ hội để sinh
viên trình bày chính kiến, học hỏi lẫn nhau, cùng
nhau đối thoại để giải quyết một vấn đề lý luận
hoặc thực tiễn. Như vậy, thảo luận sẽ nâng cao
nĕng lực tự học, rèn luyện cho sinh viên kỹ nĕng
trình bày vấn đề khoa học, góp phần nâng cao
bản lĩnh chính trị của sinh viên.
Thảo luận đòi hỏi người dạy phải nâng cao
trình độ chuyên môn, nĕng lực sư phạm, khả
nĕng am hiểu thực tế để phục vụ cho công tác
giảng dạy. Trong phương pháp tổ chức thảo
luận, người học – đối tượng của hoạt động
“dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động
“ḥc” – được cuốn hút, tham gia vào các hoạt
động do người thầy tổ chức và chỉ đạo. Thông
qua hoạt động này sinh viên sẽ củng cố thêm hệ
thống tri thức cũng như tự mình tìm kiếm vấn
đề và các phương án giải quyết trong thực tiễn.
Hình thức thảo luận phát huy tính tự tin, tích
cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên không có
nghĩa là vai trò của người thầy sẽ lu mờ, trái lại
để thực sự đóng vai trò là người tổ chức thực
hiện, hướng dẫn sinh viên trong hoạt động học
tập vai trò của người thầy phải được nâng cao,
có như vậy mới thực sự là người định hướng các
hoạt động học tập của sinh viên.
Ưu thế của phương pháp này là: Phát huy
được tính chủ động, tích cực của người học
nhiều hơn (lấy người học làm trung tâm); kiến
thức, kinh nghiệm sẵn có của người học được
giảng viên tác động, kích thích, làm biến đổi,
phát triển. Nội dung học tập phải gắn với kinh
nghiệm sống của bản thân người học. Phát huy
tư duy độc lập, sáng tạo của sinh viên trong khai
thác di sản của Hồ Chí Minh, nhất là những vấn
đề liên quan đến sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh của Đảng ta vào thực tiễn Việt Nam. Bởi
vì, để chuẩn bị cho tiết thảo luận, sinh viên buộc
phải tìm hiểu, nghiên cứu, tham khảo nhiều tài
liệu để có thông tin viết bài thảo luận theo sự
hiểu biết và quan điểm của bản thân, trong quá
trình chuẩn bị bài viết sinh viên có điều kiện bày
tỏ chính kiến của bản thân một cách chủ động,
luyện tập được cách viết, cách phân tích vấn đề
logic, chặt chẽ. Quá trình trao đổi, thảo luận vấn
đề giữa các sinh viên dưới sự hướng dẫn của
giảng viên, sinh viên bộc lộc nĕng lực cá nhân
trước nhiều người, học hỏi lẫn nhau cách trình
bày, cách diễn đạt, được thực hành khả nĕng
trình bày, diễn đạt của bản thân, qua đó lựa chọn
được cách trình bày, diễn đạt tối ưu, bổ sung
thêm nhận thức để làm sáng tỏ nội dung thảo
luận, lý giải, phê phán có cơ sở khoa học, tạo
thành lòng tin phát huy tính độc lập, tự chủ và
sáng tạo trong tư duy, trong nhận thức.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy – ḥc
Hệ thống thông tin, tư liệu phục vụ giảng
dạy tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, đa
144
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
dạng tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như
vĕn bản, sách báo, số liệu, bản đồ, sơ đồ, hình
ảnh, âm thanh, phim tư liệu Đó là những vật
chất cần thiết để xây dựng những bài giảng sinh
động, có hai hướng:
+ Khai thác thông tin, tư liệu giảng dạy từ
internet. Ứng dụng công nghệ để khai thác thông
tin, tư liệu giảng dạy từ internet là quá trình sử
dụng công nghệ thông tin với những phần mềm
tin học hết nối với internet để tìm kiếm, khai
thác thông tin, tổng hợp thành hệ thống tư liệu
phục vụ quá trình biên soạn, thiết kế bài giảng
và giảng dạy. Với việc sử dụng internet để khai
thác thông tin tư liệu cho phép giảng viên nhân
chóng tiếp cận nhiều nguồn khác nhau trong
thời gian ngắn, kết quả được thu thập, xử lý
nhanh chóng. Kết quả tìm kiếm và thư viện tư
liệu, giảng viên có thể giới thiệu để sinh viên
nghiên cứu, học tập.
+ Khai thác tư liệu từ hệ thống bĕng, đĩa
tư liệu về Hồ Chí Minh. Ứng dụng công nghệ
thông tin để khai thác tư liệu từ hệ thống bĕng
đĩa tư liệu về Hồ Chí Minh là quá trình lựa chọn,
sử dụng các thiệt bị công nghệ để khai thác tư
liệu từ hệ thống bĕng, đĩa tư liệu về Hồ Chí
Minh nhằm phục vụ cho quá trình dạy học môn
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ứng dụng công nghệ thông tin để thiết
kế trình bày bài giảng điện tử là quá trình sử
dụng các phần mềm và phương tiện dạy học để
xây dựng giáo trình, bài giảng và giảng dạy hệ
thống giáo trình, bài giảng đó. Việc ứng dụng
đó tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên, tĕng
cường khả nĕng tương tác, làm việc theo nhóm
của sinh viên cũng như khả nĕng tương tác giữa
giảng viên và sinh viên. Bên cạnh đó, giảng viên
có thể tiến hành thiết kế bài giảng, điều chỉnh
nội dung bài giảng một cách nhanh chóng phù
hợp với từng đối tượng nhóm, lớp học.
3.4. Về phía sinh viên
Trang bị phương pháp học tập đại học hiệu
quả. Bước đầu của quá trình tự học có thể sinh
viên còn nhiều lúng túng nhưng đó cũng chính
là động lực giúp sinh viên tư duy để thoát khỏi
những khó khĕn, lúng túng đó, nhờ vậy mà
thành thạo lên. Một trong những mục tiêu quan
trọng mà giáo dục ở bậc đại học hướng đến là
giúp sinh viên tiếp cận tri thức và có thể vận
dụng tốt trong thực tiễn công việc sau này. Bản
thân sinh viên phải chủ động tìm hiểu kiến thức
về phương pháp học tập, nghiên cứu thực tiễn,
tham gia các hội thảo, hoạt động ngoại khóa
liên quan đến rèn luyện tư duy, phương pháp
học tập ở bậc đại học hiệu quả nhằm phát huy
tốt nhất nĕng lực bản thân trong quá trình tiếp
thu, lĩnh hội kiến thức các môn học nói chung
và môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng trong
trường đại học.
Xây dựng niềm đam mê và tinh thần tự giác
trong học tập. Muốn đạt được một kết quả học
tập tốt thì trước hết sinh viên phải có niềm đam
mê, ý thức tự giác, thường xuyên tự trau dồi
kiến thức chuyên môn, tìm hiểu, sưu tầm những
câu chuyện về Hồ Chí Minh, coi Hồ Chí Minh
là tấm gương sáng trong việc học tập cũng như
trong lao động, cuộc sống.
4. KẾT LUẬN
Đổi mới phương pháp dạy – học môn tư
tưởng Hồ Chí Minh là việc làm thường xuyên và
cấp thiết, nhờ đó mà chất lượng dạy – học, chất
lượng đào tạo mới được nâng cao. Nhằm đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, yêu cầu đặt ra là phải
tích cực chủ động nhiều hơn nữa việc đổi mới
phương pháp dạy – học môn tư tưởng Hồ Chí
Minh nói riêng và các môn học khác nói chung.
Hoạt động hướng dẫn sinh viên tự học của
giảng viên tư tưởng Hồ Chí Minh và hoạt động
tự học của sinh viên sẽ làm nền tảng để sinh viên
có điều kiện để tự nghiền ngẫm những vấn đề
nảy sinh trong học tập môn học theo một phong
cách riêng với những yêu cầu và điều kiện thích
hợp. Điều đó không chỉ giúp bản thân sinh viên
nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền
145
Nâng cao nĕng lực tự học . . .
vững; chủ động bồi dưỡng phương pháp học tập
và kĩ nĕng vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt
để rèn luyện ý chí và nĕng lực hoạt động độc
lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất mà chỉ
có chính bản thân sinh viên tự rèn luyện kiên
trì mới có được, không một ai có thể cung cấp
hay làm thay cho mình. Thực tế cũng đã chứng
minh, mỗi thành công của sinh viên trên con
đường học tập nghiên cứu không bao giờ là kết
quả của lối học tập thụ động, đối phó, chờ thời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Công vĕn
số 83/BGDĐT – ĐH&SĐH, Hứng d̃n thực
hiện chương tr̀nh các môn Khoa ḥc Mác –
Lênin và Tư tưởng H̀ Ch́ Minh tr̀nh độ đại
ḥc và cao đẳng, Hà Nội.
[2]. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Vĕn kiện
đại hội đại bỉu toàn quốc lần thứ X, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.285.
[3]. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Vĕn kiện
đại hội đại bỉu toàn quốc lần thứ X, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.256 - 257.
[4]. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng, 2004,
Giáo dục Việt Nam hứng t́i tương lai vấn đề
và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
[5]. Lưu Xuân Mới, 2001, Phương pháp dạy học
đại học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[6]. Nguyễn Nghĩa Dán, V̀ nĕng lực tự ḥc
sáng tạo c̉a ḥc sinh, Tạp chí Nghiên cứu
Giáo dục, số 2/ 1998.
[7]. Trần Bá Hoành, Vị tŕ c̉a tự ḥc tự đào
tạo trong quá tr̀nh dạy ḥc giáo dục và đào
tạo, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số tháng
7/1998.
[8]. Đặng Vũ Hoạt, Một số nét về thực trạng,
phương pháp dạy ḥc đại ḥc, Tạp chí “Nghiên
cứu Giáo dục”, số 1/ 1994.
[9]. Phạm Trọng Luận, Về khái niệm “Ḥc sinh
là trung tâm”, Tạp chí “Nghiên cứu Giáo dục”,
số 2/ 1995.
[10]. Thái Duy Tuyên, Giáo dục ḥc hiện đại
- Những vấn đề cơ bản, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11_4489_2148008.pdf