Tài liệu Nằm viện và sự tiến triển suy yếu trên bệnh nhân cao tuổi nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên được can thiệp mạch vành qua da tiên phát: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 45
NẰM VIỆN VÀ SỰ TIẾN TRIỂN SUY YẾU TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI
NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP CÓ ST CHÊNH LÊN
ĐƯỢC CAN THIỆP MẠCH VÀNH QUA DA TIÊN PHÁT
Nguyễn Thế Quyền*, Phạm Hòa Bình*, Nguyễn Thượng Nghĩa**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Suy yếu là một hội chứng lão khoa, đặc trưng bởi sự gia tăng tính dễ bị tổn thương với
những thay đổi bất lợi cấp tính, và làm gia tăng nguy cơ cho các kết cục sức khỏe bao gồm tái nhập viện và
tử vong. Tuy nhiên, tác động của quá trình nằm viện đến sự tiến triển của suy yếu trên bệnh nhân (BN) cao
tuổi nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên (NMCTC có STCL) được can thiệp mạch vành qua da
(CTMVQD) tiên phát chưa được biết rõ.
Phương pháp nghiên cứu: Với phương pháp theo dõi dọc tiến cứu, sử dụng thang suy yếu lâm sàng
gồm 9 điểm, chúng tôi xác định suy yếu của 426 BN cao tuổi trải qua CTMVQD tiên phát tại 2 thời điểm: 1
tuần trước khi xảy ra NMCTC có STCL và trướ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nằm viện và sự tiến triển suy yếu trên bệnh nhân cao tuổi nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên được can thiệp mạch vành qua da tiên phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 45
NẰM VIỆN VÀ SỰ TIẾN TRIỂN SUY YẾU TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI
NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP CÓ ST CHÊNH LÊN
ĐƯỢC CAN THIỆP MẠCH VÀNH QUA DA TIÊN PHÁT
Nguyễn Thế Quyền*, Phạm Hòa Bình*, Nguyễn Thượng Nghĩa**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Suy yếu là một hội chứng lão khoa, đặc trưng bởi sự gia tăng tính dễ bị tổn thương với
những thay đổi bất lợi cấp tính, và làm gia tăng nguy cơ cho các kết cục sức khỏe bao gồm tái nhập viện và
tử vong. Tuy nhiên, tác động của quá trình nằm viện đến sự tiến triển của suy yếu trên bệnh nhân (BN) cao
tuổi nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên (NMCTC có STCL) được can thiệp mạch vành qua da
(CTMVQD) tiên phát chưa được biết rõ.
Phương pháp nghiên cứu: Với phương pháp theo dõi dọc tiến cứu, sử dụng thang suy yếu lâm sàng
gồm 9 điểm, chúng tôi xác định suy yếu của 426 BN cao tuổi trải qua CTMVQD tiên phát tại 2 thời điểm: 1
tuần trước khi xảy ra NMCTC có STCL và trước khi xuất viện. BN được chẩn đoán suy yếu khi đạt ít nhất
5 điểm của thang suy yếu lâm sàng. Mục tiêu của nghiên cứu là so sánh sự khác biệt giữa điểm suy yếu lâm
sàng tại 2 thời điểm.
Kết quả: 36/426 (8,5%) BN cao tuổi được chẩn đoán suy yếu trước nhập viện và tại thời điểm xuất viện
94/379 (24,8%) BN được chẩn đoán suy yếu (p < 0,001). Điểm số suy yếu lâm sàng tại thời điểm trước nhập
viện và khi xuất viện lần lượt là 2,4 ± 0,9 và 3,2 ± 1,6 (p < 0,001).
Kết luận: Sau quá trình nằm viện, suy yếu xảy ra nhiều hơn và tiến triển nặng hơn ở bệnh nhân cao tuổi
nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên được can thiệp mạch vành qua da tiên phát.
Từ khóa: Suy yếu, cao tuổi, nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên, nằm viện
ABSTRACT
FRAILTY AND SHORT-TERM CLINICAL OUTCOMES OF ELDERLY PATIENTS UNDERGOING
PRIMARY PERCUTANEOUS CORONARY INTERVENTION FOR ACUTE ST-ELEVATION
MYOCARDIAL INFARCTION
Nguyen The Quyen, Pham Hoa Binh, Nguyen Thuong Nghia
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 - No 1- 2019: 45 - 50
Background: Frailty, a geriatric syndrome characterized by an increased vulnerability with acute stressors,
carries an increased risk for poor health outcomes including hospitalization, and mortality. However, impact of
hospitalization on frailty progression of elderly patients undergoing primary percutaneous coronary intervention
(pPCI) for acute ST-elevation myocardial infarction (STEMI) is unknown.
Methods: In a longitudinal study, using the 9-point Clinical Frailty Scale (CFS), we identified the frailty
state of 426 elderly patients undergoing pPCI at 2 time points: 1 week before the occurrence of STEMI and before
discharge. Patients considered frailty if they had at least 5 points of the CFS. Study objective was to compare
mean CFS points at 2 time points.
Results: 36 of 426 (8.5%) elderly patients were reported frailty before admission while there were 94 of 379
(24.6%) diagnosed frailty before discharge (p < 0.001). The CFS points at 2 time points were 2.4 ± 0.9 and 3.2 ±
*Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **Bệnh viện Chợ Rẫy TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Thế Quyền ĐT: 0797334546 Email: quyendr0809@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 46
1.6 (p < 0,001), respectively.
Conclusions: After hospitalization, frailty increased in prevalence and progressed worse in elderly patients
undergoing primary percutaneous coronary intervention for acute ST-elevation myocardial infarction.
Key words: frailty, elderly, ST-elevation myocardial infarction, hospitalization
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy yếu là một hội chứng lão khoa quan
trọng, xảy ra trong 7 – 10% cộng đồng người
cao tuổi và sự hiện diện của suy yếu là một
yếu tố dự báo xấu độc lập cho nằm viện, tàn
phế và tử vong trên hầu hết mọi bệnh tật(1,5,7).
Tuy chưa có ghi nhận nghiên cứu nào trên thế
giới về liên quan giữa suy yếu và kết cục ngắn
hạn lẫn dài hạn của nhồi máu cơ tim cấp có ST
chênh lên (NMCTC có STCL) được can thiệp
mạch vành qua da (CTMVQD) tiên phát
nhưng theo một báo cáo tại Nhật Bản trên BN
NMCTC có STCL ≥ 75 tuổi ghi nhận, mỗi khi
tốc độ di chuyển giảm 0,1 m/giây thì biến cố
tim mạch tăng lên 29%(6). Một khảo sát trên 307
BN ≥ 75 tuổi NMCTC không STCL ghi nhận
suy yếu là yếu tố tiên lượng độc lập đối với tử
vong 30 ngày, làm tăng nguy cơ tử vong lên
4,6 lần(3). Một nghiên cứu tại Anh năm 2015
trên BN cao tuổi được CTMVQD cấp cứu hay
chương trình cũng cho thấy suy yếu là một
yếu tố dự báo tử vong độc lập, làm gia tăng
nguy cơ tử vong 30 ngày lên 4,8 lần và nguy cơ
tử vong 1 năm lên 5,9 lần(8).
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thang suy yếu lâm sàng (Clinical Frailty Scale–
CFS)
Mặc dù lợi ích của tầm soát suy yếu vẫn
chưa được chứng minh rõ ràng nhưng đồng
thuận quốc tế đã đề nghị người cao tuổi từ 70
tuổi trở lên nên được tầm soát tình trạng này. Có
rất nhiều công cụ chẩn đoán suy yếu được đề
xuất và hiện vẫn chưa có đồng thuận thống nhất
sử dụng công cụ nào. Năm 2016, Hội Lão Khoa
Hoa Kỳ công nhận công cụ của Fried là phương
pháp đánh giá suy yếu đáng tin cậy và nên được
sử dụng trong đánh giá lâm sàng. Tuy nhiên, sự
khó khăn trong đo đạc các tiêu chuẩn của Fried
đã ít nhiều gây trở ngại trong đánh giá suy yếu
thông qua công cụ này. Các nghiên cứu đánh giá
về suy yếu cũng sử dụng một công cụ khác của
Canadian Study of Health and Aging (CSHA)
gọi là thang suy yếu lâm sàng của CSHA. Thang
điểm này chia suy yếu thành 9 mức độ khác
nhau dựa vào sự thay đổi của hoạt động chức
năng cơ bản hàng ngày (Basic Activities of Daily
Living – BADLs) và hoạt động chức năng sinh
hoạt hàng ngày (Instrumental Activities of Daily
Livings – IADLs) (Hình 1)(10,11). BN có điểm từ 5
trở lên cho phép chẩn đoán suy yếu. Thang điểm
này đã được kiểm chứng trên 2305 người cao
tuổi và cho thấy có tương quan rất chặt (r = 0,8)
với chỉ số suy yếu của CSHA gồm 70 thành tố(9).
Dân số nghiên cứu
BN được chọn vào nghiên cứu khi có tuổi 60
trở lên, được chẩn đoán NMCTC có STCL và
được thực hiện CTMVQD tiên phát. Chúng tôi
thu nhận tất cả BN thỏa tiêu chuẩn nhận vào tại
khoa Tim Mạch Can Thiệp bệnh viện Chợ Rẫy
và khoa Tim Mạch Cấp Cứu – Can Thiệp bệnh
viện Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh trong
khoảng thời gian từ tháng 2 năm 2017 đến hết
tháng 4 năm 2018.
BN được loại trừ khỏi nghiên cứu nếu không
có quốc tịch Việt Nam hoặc có vấn đề về sức
khỏe tâm thần do dự trù khả năng khó khăn
trong phỏng vấn.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu theo dõi dọc. Tất cả BN
thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu được đánh giá khả
năng hoạt động chức năng và mức độ suy yếu
dựa theo thang suy yếu lâm sàng vào thời gian 1
tuần trước khi xảy ra NMCTC có STCL và khi
xuất viện. BN sẽ có 2 điểm số cụ thể của thang
suy yếu lâm sàng đồng thời sẽ được phân nhóm
có hay không có suy yếu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 47
Phân tích thống kê
Tỉ lệ suy yếu tại 2 thời điểm được thể hiện
bằng tần suất và phần trăm. So sánh 2 tỉ lệ này
chúng tôi sử dụng phép kiểm Chi bình
phương, có hiệu chỉnh Fisher. Điểm số của
thang suy yếu lâm sàng được trình bày bằng
trung bình ± độ lệch chuẩn. So sánh 2 điểm số
trung bình tại 2 thời điểm chúng tôi sử dụng
phép kiểm T bắt cặp. Trị số p được xem là có ý
nghĩa thống kê khi nhỏ hơn 0,05.
KẾT QUẢ
Chúng tôi thu nhận được 426 BN cao tuổi
NMCTC có STCL được CTMVQD tiên phát.
Qua đánh giá, có 36/426 BN (8,5%) được chẩn
đoán suy yếu trước khi nhập viện. Sau thời
gian theo dõi, có 47/426 BN tử vong nội viện,
còn lại 329 BN xuất viện khỏe mạnh. Đánh giá
lần 2, có 94/379 BN (24,8%) có suy yếu khi xuất
viện (Hình 2).
Tỉ lệ suy yếu gia tăng rõ rệt khi BN xuất
viện so với thời điểm trước nhập viện (p <
0,001) (Hình 3).
Xét chi tiết từng điểm trong thang suy yếu
lâm sàng, có thể thấy tỉ lệ tăng cao ở những điểm
số ≥ 5 tại thời điểm xuất viện. Trong khi đó, thời
điểm trước nhập viện tập trung chủ yếu ở điểm
số 2 và 3 (Hình 4).
Tại thời điểm xuất viện, BN có điểm số suy
yếu lâm sàng tăng cao hơn có ý nghĩa thống kê
so với thời điểm trước khi BN nhập viện
(p < 0,001) (Bảng 1).
Bảng 1. Khác biệt về điểm số suy yếu lâm sàng
trung bình giữa 2 thời điểm
Trung bình ± độ lệch
chuẩn Khác biệt
trung bình
KTC 95% P
Trước
nhập viện
Khi xuất
viện
2,4 ± 0,9 3,2 ± 1,6 0,8 ± 1,3 0,6 – 0,9 < 0,001
Hình 1. Thang điểm suy yếu lâm sàng CHSA. Nguồn: Rockwood K, 2005(9)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 48
Hình 2. Quy trình thực hiện nghiên cứu
Hình 3. Sự khác biệt về tỉ lệ suy yếu giữa 2 thời điểm
8,5
24,8
91,5
75,2
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Trước nhập viện Khi xuất viện
%
Có suy yếu Không suy yếu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 49
Hình 4. Phân bố điểm suy yếu lâm sàng tại 2 thời điểm
BÀN LUẬN
Do đánh giá suy yếu theo CSHA hoàn toàn
dựa vào phỏng vấn về khả năng hoạt động và
sinh hoạt hằng ngày nên chúng ta hoàn toàn có
khả năng hồi cứu trở lại tình hình suy yếu của
bệnh nhân 1 tuần trước khi xảy ra nhồi máu cơ
tim cấp mặc dù vấn đề chủ quan về trí nhớ sẽ là
1 trở ngại không nhỏ cho độ chính xác. Chúng
tôi ghi nhận được, trước khi nhập viện, điểm số
CSHA trung bình của dân số nghiên cứu là 2,4 ±
0,9. Phần lớn bệnh nhân nằm ở mức điểm 2 – 3
cho thấy tình hình sức khỏe, mức độ năng động
và sinh hoạt của đa số bệnh nhân vẫn còn rất tốt
và chúng tôi chỉ ghi nhận được 36 bệnh nhân
(8,5%) có điểm CSHA ≥ 5, tức là có suy yếu từ
trước. Tuy nhiên, khi chúng tôi đánh giá suy yếu
bệnh nhân lần thứ hai vào thời điểm bệnh nhân
chuẩn bị xuất viện thì điểm số CSHA trung bình
lúc này là 3,2 ± 1,6 – cao hơn có ý nghĩa thống kê
so với trước nhập viện (p < 0,001). Tỷ lệ bệnh
nhân có suy yếu vào thời điểm này chúng tôi ghi
nhận được cũng cao hơn hẳn – 94/379 bệnh nhân
chiếm 24,8%. Đồng thời, chúng tôi cũng ghi
nhận có đến 5,5% BN tiến triển thành suy yếu
nặng hoặc rất nặng (CSHA 7 – 8 điểm) trong quá
trình nằm viện. Điều này đã cho thấy rằng, việc
mắc phải nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên,
việc phải nằm viện và trải qua can thiệp mạch
vành qua da đã làm xuất hiện suy yếu trên một
số bệnh nhân hay làm nặng thêm tình trạng suy
yếu ở những bệnh nhân đã có suy yếu từ trước.
Chúng tôi chưa ghi nhận nghiên cứu nào cả
trong lẫn ngoài nước có đánh giá về sự tiến triển
của suy yếu trong quá trình nằm viện. Tuy
nhiên, sự suy giảm về các hoạt động chức năng
cơ bản hằng ngày (ADL) cũng góp phần không
nhỏ đến sự tiến triển nặng của suy yếu. Một
nghiên cứu vào năm 2005 trên 595 phụ nữ ≥ 65
tuổi trong cộng đồng ghi nhận có 32,0% có ít
nhất 1 lần nhập viện trong 18 tháng theo dõi.
Nghiên cứu ghi nhận được trong số những
người cao tuổi nhập viện, có đến 17,0% có suy
giảm ADL, trong khi đó, con số này ở nhóm
chưa nhập viện lần nào chỉ là 8,0% (p < 0,001).
Phân tích đa biến của nghiên cứu cũng cho thấy
việc nhập viện là yếu tố nguy cơ độc lập của suy
giảm ADL, gia tăng nguy cơ suy giảm ADL lên
3,2 lần (KTC 95%, 1,7 – 5,8)(2).
Một nghiên cứu cổ điển năm 1990 trên 71 BN
≥ 75 tuổi nhập viện cho thấy, khi so sánh hoạt
70,2
21,1
0,2
4,2 2,8 1,4 0
50,4
23,5
1,3
16,6
2,6 3,4 2,1
0
10
20
30
40
50
60
70
80
2 3 4 5 6 7 8
%
Trước nhập viện Khi xuất viện
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 50
động chức năng qua 2 thời điểm: trước nhập
viện và sau nhập viện 2 ngày, có đến 65,0% bệnh
nhân được ghi nhận suy giảm ADL. Hơn nữa,
khi so sánh giữa ngày 2 và thời điểm xuất viện,
suy giảm ADL không những không cải thiện mà
còn có thêm 10,0% BN tiếp tục tiến triển xấu các
hoạt động chức năng cơ bản(4). Đồng thời, 2
nghiên cứu trên cũng ghi nhận việc sử dụng
dụng cụ hỗ trợ đi lại trước khi nhập viện và suy
giảm nhận thức trước khi nhập viện cũng là 2
yếu tố nguy cơ độc lập của suy giảm hoạt động
chức năng cơ bản trong quá trình nằm viện.
Qua 2 nghiên cứu nước ngoài nêu trên, có
thể thấy rằng, quá trình nằm viện làm cho BN
cao tuổi phụ thuộc đáng kể các hoạt động chức
năng cơ bản hằng ngày và qua đó phản ánh sự
tiến triển ngày càng xấu trong vấn đề suy yếu.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả
khá tương đồng với 2 nghiên cứu trên, tuy
nhiên, do chúng tôi chỉ thu thập BN trên 1 loại
bệnh cụ thể nên chưa thể có cái nhìn bao quát
về sự ảnh hưởng của nằm viện đến sự tiến
triển xấu của suy yếu trên người cao tuổi nói
chung. Qua đó, cần có thêm nghiên cứu đánh
giá trên BN cao tuổi nhập viện vì nhiều bệnh
lý cấp tính khác nhau để có thể thấy rõ mối liên
hệ giữa 2 vấn đề này.
KẾT LUẬN
Sau quá trình nằm viện, suy yếu xảy ra
nhiều hơn và tiến triển nặng hơn ở bệnh nhân
cao tuổi nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên
được can thiệp mạch vành qua da tiên phát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abdullah A, Sanjay K, Andrew M et al (2015). "Prognosis of
primary percutaneous coronary intervention in elderly
patients with ST-elevation myocardial infarction". Journal of
the Saudi Heart Association, 27 (2): pp.85-90.
2. Boyd CM, Xue QL, Guralnik JM, Fried LP (2005).
"Hospitalization and development of dependence in
activities of daily living in a cohort of disabled older women:
the Women's Health and Aging Study I". J Gerontol A Biol Sci
Med Sci, 60 (7): pp.888-893.
3. Ekerstad N, Swahn E, Janzon M et al (2011). "Frailty is
independently associated with short-term outcomes for
elderly patients with non-ST-segment elevation myocardial
infarction". Circulation, 124 (22): pp.2397-2404.
4. Hirsch CH, Sommers L, Olsen A, Mullen L, Winograd CH
(1990). "The natural history of functional morbidity in
hospitalized older patients". J Am Geriatr Soc, 38 (12): pp.1296-1303.
5. Ipek G, Kurmus O, Koseoglu C et al (2017). "Predictors of in-
hospital mortality in octogenarian patients who underwent
primary percutaneous coronary intervention after ST
segment elevated myocardial infarction". Geriatr Gerontol Int,
17 (4): pp.584-590.
6. Matsuzawa Y, Masaaki K, Eiichi A et al (2013). "Association
between gait speed as a measure of frailty and risk of
cardiovascular events after myocardial infarction". Journal of
the American College of Cardiology, 61 (19): pp.1964-1972.
7. Medina-W, Pacala JT (2016). Geriatrics Review Syllabus 9th
edition. 9 ed. American Geriatrics Society.
8. Rachel M, Javaid I, Rebecca R et al (2015). "Impact of frailty
on outcomes after percutaneous coronary intervention: a
prospective cohort study". Open Heart, 2 (1): pp.e000294.
9. Rockwood K, Xiaowei S, MacKnight C et al (2005). "A global
clinical measure of fitness and frailty in elderly people".
Canadian Medical Association Journal, 173 (5): pp.489-495.
10. Williams B (2014). Consideration of Function & Functional
Decline. Current Diagnosis and Treatment: Geriatrics, Second
Edition, NY: McGraw-Hill, New York: pp.3-4.
11. Williams C (2011) Healthy Aging & Assessing Older Adults.
CURRENT Diagnosis & Treatment in Family Medicine, 3rd
edition, NY: McGraw-Hill, New York.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nam_vien_va_su_tien_trien_suy_yeu_tren_benh_nhan_cao_tuoi_nh.pdf