Tài liệu Mức độ phục hồi chức năng vận động và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tai biến mạch máu não trước và sau điều trị phục hồi chức năng tại Bệnh viện Phục hồi chức năng – điều trị bệnh nghề nghiệp: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 320
MỨC ĐỘ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG VÀ CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO TRƯỚC
VÀ SAU ĐIỀU TRỊ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤC HỒI
CHỨC NĂNG – ĐIỀU TRỊ BỆNH NGHỀ NGHIỆP
Lê Minh Hải*, Võ Thị Xuân Hạnh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá mức độ phục hồi chức năng vận động và chất lượng cuộc sống
(CLCS) của bệnh nhân tai biến mạch máu não (TBMMN) trước và sau 6 tuần điều trị phục hồi chức năng vận
động tại bệnh viện Phục hồi chức năng – Điều trị bệnh nghề nghiệp (PHCN – ĐTBNN).
Phương pháp: Nghiên cứu so sánh trước – sau, không có nhóm chứng được thực hiện tại bệnh viện PHCN
– ĐTBNN trong năm 2017. Nghiên cứu sử dụng Thang đo Barthel Index để đánh giá mức độ phục hồi chức
năng (PHCN) vận động và bảng câu hỏi DUKE Health Profile để đánh giá CLCS của bệnh nhân.
Kết quả: 100 bệnh ...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mức độ phục hồi chức năng vận động và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân tai biến mạch máu não trước và sau điều trị phục hồi chức năng tại Bệnh viện Phục hồi chức năng – điều trị bệnh nghề nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 320
MỨC ĐỘ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG VÀ CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO TRƯỚC
VÀ SAU ĐIỀU TRỊ PHỤC HỒI CHỨC NĂNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤC HỒI
CHỨC NĂNG – ĐIỀU TRỊ BỆNH NGHỀ NGHIỆP
Lê Minh Hải*, Võ Thị Xuân Hạnh**
TĨM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá mức độ phục hồi chức năng vận động và chất lượng cuộc sống
(CLCS) của bệnh nhân tai biến mạch máu não (TBMMN) trước và sau 6 tuần điều trị phục hồi chức năng vận
động tại bệnh viện Phục hồi chức năng – Điều trị bệnh nghề nghiệp (PHCN – ĐTBNN).
Phương pháp: Nghiên cứu so sánh trước – sau, khơng cĩ nhĩm chứng được thực hiện tại bệnh viện PHCN
– ĐTBNN trong năm 2017. Nghiên cứu sử dụng Thang đo Barthel Index để đánh giá mức độ phục hồi chức
năng (PHCN) vận động và bảng câu hỏi DUKE Health Profile để đánh giá CLCS của bệnh nhân.
Kết quả: 100 bệnh nhân TBMMN đồng ý tham gia vào nghiên cứu, với 60% nam và 91% người ≥ 40 tuổi.
Điểm PHCN vận động chung của bệnh nhân trước điều trị là 20 điểm và sau điều trị thì điểm số này tăng với
trung vị của khoảng tăng là 40 điểm và cĩ sự khác biệt cĩ ý nghĩa thống kê giữa điểm PHCN vận động chung
trước và sau 6 tuần điều trị (p < 0,001). Điểm CLCS của bệnh nhân trước điều trị dao động trong khoảng từ 50 –
60 điểm, sau điều trị thì các điểm CLCS đa số giảm, số điểm giảm dao động từ 3 – 10,5 điểm. Cĩ sự khác biệt cĩ ý
nghĩa thống kê giữa điểm CLCS trước và sau 6 tuần điều trị ở tất cả các lĩnh vực (trừ lĩnh vực Tự đánh giá bản
thân). Các yếu tố cĩ liên quan đến sự thay đổi chức năng vận động là Nơi cư trú, Thời gian từ lúc bị TBMMN
đến lúc điều trị PHCN, Số lần bị TBMMN, Hơn mê khi bị TBMMN, tiền sử bệnh mạn tính và tiền sử tăng
huyết áp.
Kết luận: Sau 6 tuần điều trị đa số bệnh nhân đều cải thiện chức năng vận động nhưng CLCS lại
giảm. Cần phát triển thêm mảng điều trị, tư vấn tâm lý cho bệnh nhân TBMMN để giúp bệnh nhân
nâng cao CLCS sau TBMMN.
Từ khĩa: phục hồi chức năng, chất lượng cuộc sống, tai biến mạch máu não, đột quỵ, Barthel Index, Duke.
ABSTRACT
DEGREE OF REHABILITATION AND QUALITY OF LIFE IN STROKE PATIENTS BEFORE AND
AFTER PARTICIPATED IN REHABILITATION THERAPY IN HO CHI MINH CITY HOSPITAL FOR
REHABILITATION-PROFESSIONAL DISEASES
Le Minh Hai, Vo Thi Xuan Hanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 3- 2018: 320 - 326
Objective: To evaluate degree of rehabilitation and quality of life in stroke patients before and after 6 weeks
participated in rehabilitation therapy in HCMC Hospital for rehabilitation – professional diseases.
Methods: A before-after with no control group design was conducted at HCMC Hospital for rehabilitation –
professional diseases in 2017. The Barthel Index was used to evaluate the degree of rehabilitation and The DUKE
Health Profile was used to evaluate quality of life of stroke patients.
*Ban Quản lý An tồn thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh,
**Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: BS. CKII. Lê Minh Hải - ĐT: 0903918505- Email: drleminhhai@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 321
Results: Data were available for 100 stroke patients (60% men, 91% aged ≥ 40 years). The Barthel Index
score before participating in rehabilitation therapy was 20 points. This score increases with a median of 40 points
after 6 weeks and statistically significant difference was found between the Barthel Index scores before and after 6
weeks rehabilitation therapy (p < 0,001). The DUKE Health Profile scores were in the range from 50 – 60 points,
and after 6 weeks they decreased in the range from 3 to 10.5 points in almost domains. There was a statistically
significant difference between the DUKE Health Profile scores in all domains before and after 6 weeks
rehabilitation therapy (excepted Self-esteem domain). Factors related to the change of the Barthel Index scores are
resident, the time from stroke to rehabilitation, stroke times, unconscious when stroke, hypertension or having
uncommunicable disease.
Conclusion: After 6 weeks rehabilitation, most of patients improved their motor function but their quality of
life were decreased. It was necessary that HCMC Hospital for rehabilitation – professional diseases develop the
psychological counseling for stroke patients to help them improve their quality of life after stroke.
Key words: rehabilitation, quality of life, stroke, Barthel Index, Duke Health Profile
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não (TBMMN) luơn là
vấn đề thời sự của ngành y tế ở tất cả các quốc
gia trên thế giới. Tại Việt Nam, số người bị
TBMMN hiện đang sống khoảng 486.000 người,
số người mới mắc khoảng 200.000 người/năm và
tử vong khoảng 104.800 người/năm(8). Và theo
Báo cáo chung tổng quan ngành y tế thì TBMMN
là nguyên nhân gây gánh nặng bệnh tật lớn nhất
trong nhĩm bệnh khơng lây nhiễm năm 2010(1).
Việc giải quyết vấn đề phục hồi vận động cho
bệnh nhân sau đột quỵ là vấn đề quan trọng,
giúp cho bệnh nhân hịa hợp với gia đình và
cộng đồng. Bên cạnh đĩ, trong điều trị TBMMN,
vấn đề đặt ra khơng chỉ là giúp kéo dài tuổi thọ,
tăng cường vận động mà cịn phải nâng cao Chất
lượng cuộc sống (CLCS) cho người bệnh.
Hiện nay cĩ rất nhiều phương pháp phục hồi
chức năng (PHCN) cho bệnh nhân TBMMN
nhưng kết quả về sự cải thiện vận động của mỗi
phương pháp rất khác nhau, và đa số chưa nĩi
rõ được những yếu tố nào về phía đặc điểm của
bệnh nhân và bệnh cảnh lâm sàng ban đầu tiên
lượng đến sự cải thiện. Ngồi ra, đa số các Bệnh
viện chỉ áp dụng các phương pháp điều trị phục
hồi vận động mà chưa chú trọng đến việc cải
thiện CLCS cho bệnh nhân.
Bệnh viện Phục hồi chức năng – Điều trị
bệnh nghề nghiệp (PHCN – ĐTBNN) chuyên
tiếp nhận, chọn lựa các phương pháp vật lý trị
liệu PHCN thích hợp để điều trị cho các bệnh
mãn tính, bệnh nghề nghiệp, người tàn tật,
người cao tuổi. Một trong những nội dung mà
Bệnh viện chú trọng chính là PHCN cho bệnh
nhân TBMMN. Tuy nhiên từ trước tới nay tại
bệnh viện chưa cĩ một đề tài nghiên cứu nào về
hiệu quả của các chương trình PHCN cho bệnh
nhân cũng như thơng tin về CLCS của những
bệnh nhân này sau quá trình điều trị.
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá mức độ
cải thiện, các yếu tố ảnh hưởng đến cải thiện
chức năng vận động và CLCS của bệnh nhân
TBMMN trước và sau 6 tuần điều trị PHCN vận
động tại bệnh viện PHCN – ĐTBNN trong năm
2017. Nghiên cứu này nhằm mục đích cung cấp
những thơng tin ban đầu cho nhà quản lý bệnh
viện trong đánh giá hiệu quả điều trị qua cải
thiện vận động của bệnh nhân và gợi ý cho các
bác sĩ lâm sàng những nhĩm đối tượng nặng cần
chú ý trong điều trị phục hồi sau TBMMN.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu so sánh trước – sau, khơng cĩ
nhĩm chứng.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được chẩn đốn TBMMN nhập
viện điều trị PHCN vận động tại bệnh viện
PHCN – ĐTBNN vào thời điểm nghiên cứu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 322
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 1 – tháng 8/2017.
Cỡ mẫu
Sử dụng cơng thức tính cỡ mẫu so sánh 2 số
trung bình dạng bắt cặp, với Z(1-α/2) = 1,96; Z(1-β) =
0,84; µDiff = 14,7; σDiff = 31,34 (10); dự trù mất dấu
trong thời gian theo dõi 20% tính được số
người cần khảo sát là 93 người. Thực tế nghiên
cứu đã khảo sát được 100 người.
Tiêu chí chọn mẫu
Tất cả bệnh nhân TBMMN (đã được chẩn
đốn bằng lâm sàng và chụp CT Scan sọ não) bị
liệt nửa người đã được điều trị qua giai đoạn
cấp, nhập viện điều trị PHCN vận động vào thời
điểm nghiên cứu và đồng ý tham gia nghiên
cứu. Nghiên cứu loại ra các trường hợp cĩ thời
gian nhập viện điều trị PHCN vận động < 6
tuần, bệnh nhân cĩ các bệnh lý nội khoa nặng
như: suy tim nặng, suy thận và mắc các bệnh
khác ảnh hưởng đến chức năng vận động trước
khi bị TBMMN như: bệnh Gout, dị tật.
Phương pháp thu thập dữ kiện
Số liệu được thu thập thơng qua đánh giá
của Bác sĩ điều trị về mức độ PHCN vận động và
kỹ thuật viên vật lý trị liệu phỏng vấn bệnh nhân
theo bộ câu hỏi soạn sẵn về các đặc điểm kinh tế
- xã hội và CLCS.
Cơng cụ thu thập dữ kiện
Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi gồm 4 phần:
đặc điểm về kinh tế - xã hội; đặc điểm về lâm
sàng và tiền sử bệnh; đánh giá mức độ PHCN
vận động bằng Thang đo Barthel Index trước và
sau 6 tuần điều trị PHCN vận động(9); Đánh giá
CLCS bằng Bảng câu hỏi DUKE Health Profile –
DHP (DUKE) trước và sau 6 tuần điều trị(11).
Xử lý và phân tích dữ kiện
Sử dụng kiểm định Wilcoxon Signed Rank
test để so sánh điểm PHCN vận động và CLCS
của bệnh nhân trước và sau khi điều trị và kiểm
định Kruskal-Wallis để xác định mối liên quan
giữa sự thay đổi chức năng vận động với các
biến số về đặc điểm kinh tế - xã hội, đặc điểm
lâm sàng và tiền sử bệnh của bệnh nhân.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu khảo sát trên 100 bệnh nhân,
trong đĩ tỷ lệ nam giới là 60% và nhĩm ≥ 40 tuổi
chiếm 91%. Những bệnh nhân này đa số là lao
động tự do, kinh doanh hoặc buơn bán (48%) và
cĩ 72% bệnh nhân là cĩ hộ khẩu TPHCM.
Về các đặc điểm lâm sàng của mẫu nghiên
cứu thì đa số bệnh nhân cĩ thời gian từ lúc bị
TBMMN đến khi nhập viện điều trị PHCN là > 1
tháng (77%). Hầu hết là bị TBMMN lần đầu
(93%) và tỉ lệ cĩ hơn mê khi tai biến là 60%. Đa số
bệnh nhân bị liệt ½ người bên phải (64%) và cĩ
liệt mặt (86%). Tỉ lệ bệnh nhân bị suy giảm nhận
thức (theo thang MoCA) khá cao (84%).
Tỉ lệ bệnh nhân cĩ tiền sử bệnh mạn tính khá
cao (69%), trong đĩ tỉ lệ các bệnh tăng huyết áp,
bệnh lý tim mạch, đái tháo đường và rối loạn
lipid máu lần lượt là 24%, 5%, 4% và 3%. Tỉ lệ
bệnh nhân bị thừa cân – béo phì là 37%.
Mức độ phục hồi chức năng vận động
Bảng 1: So sánh sự thay đổi điểm PHCN vận động ở
từng lĩnh vực sau 6 tuần so với trước điều trị
Thay đổi trước – sau điều trị (∆
Barthel)
TB (ĐLC) TV (KTV) pvalue*
Ăn uống 4,4 (2,9) 5 (5 – 5) < 0,001
Tắm 2,7 (2,6) 5 (0 – 5) < 0,001
Vệ sinh cá nhân 3 (2,7) 5 (0 – 5) < 0,001
Thay quần áo 4,4 (3,2) 5 (2,5 – 5) < 0,001
Kiểm sốt đại tiện 3,1 (3,0) 5 (0 – 5) < 0,001
Kiểm sốt tiểu tiện 2,9 (3,0) 5 (0 – 5) < 0,001
Sử dụng nhà vệ sinh 4 (2,8) 5 (0 – 5) < 0,001
Di chuyển giường - ghế 5,6 (4,5) 5 (5 – 10) < 0,001
Đi lại 6 (4,5) 5 (5 – 10) < 0,001
Leo cầu thang 3,5 (3,3) 5 (0 – 5) < 0,001
(*): Kiểm định Wilcoxon Signed Rank
Sau 6 tuần điều trị, điểm PHCN vận động ở
tất cả các lĩnh vực đều tăng với trung vị của
khoảng tăng là 5 điểm, lĩnh vực cĩ sự cải thiện
(tăng) nhiều nhất là đi lại (6 điểm) và lĩnh vực cải
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 323
thiện ít nhất là Tắm (2,7 điểm). Cĩ sự khác biệt
cĩ ý nghĩa thống kê giữa điểm PHCN vận động
trước và sau 6 tuần điều trị ở tất cả các lĩnh vực
(p < 0,001).
Bảng 2: So sánh về điểm PHCN vận động chung
trước và sau 6 tuần điều trị (n = 100)
Thay đổi trước – sau điều trị (∆
Barthel chung)
TB (ĐLC) TV (KTV) pvalue*
Điểm PHCN vận
động
39,3 (19,1) 40 (25 – 50) < 0,001
(*): Kiểm định Wilcoxon Signed Rank
Điểm PHCN vận động chung tăng với trung
vị của khoảng tăng là 40 điểm và cĩ sự khác biệt
cĩ ý nghĩa thống kê giữa điểm PHCN vận động
chung trước và sau 6 tuần điều trị (p < 0,001).
Chất lượng cuộc sống
Bảng 3: So sánh về điểm CLCS trước và sau 6 tuần
điều trị (n = 100)
Thay đổi trước – sau điều trị
TB (ĐLC) TV (KTV) pvalue*
SKTC - 7,4 (25,1) 0 (-20 – 0) 0,007
SKTT - 5 (17,7) 0 (-20 – 0) 0,007
SKXH 3,5 (14,0) 0 (0 – 10) 0,004
SKTQ - 3 (11,5) 0 (-10 – 3,3) 0,038
SKCN 20 (36,9) 0 (0 – 50) < 0,001
Tự đánh giá bản
thân
2,2 (13,5) 0 (0 – 10) 0,117
Lo lắng - 4,9 (16,5)
0 (-16,7 –
16,7)
0,011
Trầm cảm - 10,5 (24,5) 0 (-30 – 0) < 0,001
Đau - 5,5 (31,7) 0 (0 – 0) 0,022
(*): Kiểm định Wilcoxon Signed Rank
Sau 6 tuần điều trị, điểm CLCS của bệnh
nhân đa số giảm so với ban đầu, số điểm giảm
dao động từ 3 – 10,5 điểm. Trong đĩ giảm nhiều
nhất là lĩnh vực Trầm cảm (-10,5 điểm). Trong 9
lĩnh vực CLCS thì cĩ 3 lĩnh vực CLCS cĩ tăng
lên, trong đĩ tăng nhiều nhất là lĩnh vực Sức
khỏe chức năng (20 điểm). Và cĩ sự khác biệt cĩ
ý nghĩa thống kê giữa điểm CLCS trước và sau 6
tuần điều trị ở hầu hết các lĩnh vực (trừ lĩnh vực
Tự đánh giá bản thân).
Các yếu tố liên quan đến sự cải thiện chức năng
vận động của bệnh nhân
Bảng 4: Mối liên quan giữa các đặc điểm về kinh tế -
xã hội, các đặc điểm lâm sàng và tiền sử bệnh với sự
thay đổi chức năng vận động (∆ Barthel chung) của
bệnh nhân TBMMN (n = 100)
∆ Barthel chung
pvalue* n TB (ĐLC) TV (KTV)
Nơi cư trú
TP HCM
72 41,9 (17,8)
50 (32,5 –
50)
0,038
Tỉnh thành
khác
28 32,5 (20,9)
32,5 (17,5 –
50)
Thời gian từ TBMMN đến lúc điều trị
≤ 1 tháng 23 31,1 (17,4) 30 (20 – 40)
0,011
> 1 tháng 77 41,8 (19,0) 50 (35 – 50)
Số lần TBMMN
1 lần 93 40,3 (19,1) 45 (30 – 50)
0,025
≥ 2 lần 7 25,7 (12,7) 30 (20 – 35)
Hơn mê khi TBMMN
Cĩ 60 44,8 (16,7) 50 (35 – 55)
< 0,001 Khơng
40 31 (19,6)
30 (15 –
42,5)
Tiền sử bệnh
mạn tính
Cĩ 31 30,8 (19,2) 35 (15 – 45)
0,003
Khơng 69 43,1 (17,9) 50 (35 – 50)
Tăng huyết áp
Cĩ
24 33,5 (17,1)
35 (22,5 –
42,5) 0,05
Khơng 76 41,1 (19,4) 50 (30 –50)
(*):Kiểm định Kruskal-Wallis
Các yếu tố cĩ liên quan đến sự thay đổi chức
năng vận động là Nơi cư trú, Thời gian từ lúc bị
TBMMN đến lúc điều trị PHCN, Số lần bị
TBMMN, Hơn mê khi bị TBMMN, tiền sử bệnh
mạn tính và tiền sử tăng huyết áp.
BÀN LUẬN
Mức độ phục hồi chức năng vận động
Điểm PHCN vận động chung (theo thang
Barthel) tăng với trung vị của khoảng tăng là 40
điểm, cĩ bệnh nhân cĩ tăng tối đa 80 điểm. Cĩ sự
khác biệt cĩ ý nghĩa thống kê giữa điểm PHCN
vận động chung trước và sau 6 tuần điều trị (p <
0,001). So sánh kết quả này với tác giả Nguyễn
Tấn Dũng thì nghiên cứu của chúng tơi tăng ít
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 324
hơn 20 điểm(10). Do nghiên cứu của tác giả Tấn
Dũng thời gian đánh giá sau can thiệp là thời
điểm bệnh nhân ra viện, nghĩa là khoảng thời
gian can thiệp ở các bệnh nhân khơng giống
nhau, và khi bệnh nhân ra viện thì hầu như bệnh
nhân đã cải thiện rất tốt về chức năng vận động.
Cịn nghiên cứu chúng tơi sử dụng thời gian
đánh giá chung là 6 tuần, vì vậy điểm PHCN
vận động thấp hơn là điều hợp lý. Kết quả cũng
là bằng chứng hiệu quả của chương trình PHCN
đang được thực hiện tại bệnh viện. Các bệnh
nhân TBMMN chỉ trong vịng 6 tuần tham gia
điều trị đã cĩ thể cải thiện một cách đáng kể các
hoạt động cơ bản trong sinh hoạt cuộc sống hàng
ngày, khơng cần cĩ sự trợ giúp của người thân,
việc điều trị đã giúp bệnh nhân phần nào cĩ thể
hịa nhập lại với cuộc sống.
Chất lượng cuộc sống
Sau 6 tuần điều trị, điểm CLCS của bệnh
nhân đa số giảm so với ban đầu. So sánh với
các nghiên cứu khác về đánh giá CLCS của
bệnh nhân TBMMN trước và sau can thiệp thì
nghiên cứu của chúng tơi cho kết quả khơng
đồng nhất. Như nghiên cứu của tác giả
Rasmussen cho kết quả là điểm CLCS của
bệnh nhân cĩ cải thiện đáng kể(13) hoặc nghiên
cứu của tác giả Matsumoto thì điểm trung
bình CLCS ở tất cả các lĩnh vực tăng từ 3,4 – 16
điểm và tất cả sự khác biệt này đều cĩ ý nghĩa
thống kê(12). Tuy nhiên điều này cĩ thể lý giải
là do các tác giả này sử dụng thang đo khác
với nghiên cứu của chúng tơi, trong khi chúng
tơi sử dụng thang Duke thì các nghiên cứu
này sử dụng EQ-5D và SF-36. Khi so sánh với
nghiên cứu của tác giả Treger sử dụng thang
đo giống nghiên cứu của chúng tơi thì kết quả
cĩ phần tương tự khi cho kết quả CLCS ở một
số lĩnh vực là giảm, và lĩnh vực Tự đánh giá
bản thân thì tăng khá cao so với các lĩnh vực
khác. Sự khác biệt về điểm số giữa 2 nghiên
cứu cĩ thể là do thời gian nghiên cứu của
chúng tơi chỉ cĩ 6 tuần nên điểm tăng khơng
cao bằng điểm số sau 3 tháng trong nghiên
cứu của Treger(7).
Theo thang đo Duke thì hai nội dung Sức
khỏe chức năng và Tự đánh giá bản thân là hồn
tồn dựa trên đánh giá chủ quan của người bệnh
và thực tế trong nghiên cứu thì hai nội dung này
đều cĩ cải thiện sau điều trị. Đây là một kết quả
tốt khi cho thấy rằng tuy cĩ thể một số nội dung
cĩ điểm số chưa cải thiện nhưng về mặt tự cảm
nhận của bệnh nhân thì khá khả quan. Về Sức
khỏe tinh thần thì trong các nghiên cứu khác, sau
thời gian điều trị, bệnh nhân cĩ thể bị trầm cảm
và đây cĩ thể là lý do làm cho điểm Sức khỏe
tinh thần giảm sút. Bằng chứng là điểm số ở nội
dung lo lắng và trầm cảm trong nghiên cứu của
chúng tơi cũng giảm cùng với điểm Sức khỏe
tinh thần.
Một số nghiên cứu trên Thế giới và Việt
Nam đánh giá CLCS của bệnh nhân TBMMN
trước và sau can thiệp cho thấy điểm CLCS
tăng(2,6,10,12,13,16) tuy các thang đo sử dụng trong
các nghiên cứu này lại khơng giống nhau. Sau
khi tìm hiểu cho thấy các bộ câu hỏi này đánh
giá CLCS của bệnh nhân chủ yếu dựa trên các
cảm nhận thực thể nên khi người bệnh cĩ cải
thiện về khả năng vận động thì cũng dẫn đến
sự cải thiện về CLCS. Trong nghiên cứu này,
về chức năng vận động chúng tơi đã sử dụng
một thang đánh giá riêng là Barthel nên CLCS
chúng tơi chọn thang đo Duke. Lý do là thang
đo này đánh giá CLCS của bệnh nhân chủ yếu
dựa trên sự tự cảm nhận, từ đĩ đánh giá chính
xác hơn về CLCS ở bệnh nhân TBMMN. Và
kết quả nghiên cứu cho thấy, tuy được điều trị
6 tuần PHCN nhưng các lĩnh vực về cảm nhận
như lĩnh vực Trầm cảm, Sức khỏe tinh thần,
Lo lắng, Đau thì bệnh nhân lại giảm hơn so
với ban đầu. Lý do thứ 2 cĩ thể là do CLCS
của bệnh nhân chưa thể cải thiện trong thời
gian quá ngắn (6 tuần) khi mà bệnh nhân vừa
bị TBMMN và bị giảm khả năng vận động so
với trước đây dù cho quá trình điều trị cĩ
mang lại hiệu quả. Như trong nghiên cứu của
tác giả Nguyễn Tấn Dũng thì ở thời điểm ra
viện và sau 3 tháng điều trị khơng thấy cĩ sự
khác biệt về CLCS của bệnh nhân TBMMN ở
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 325
nhĩm can thiệp hay nhĩm chứng. Cho đến
thời điểm một năm ra viện thì mới cĩ sự khác
biệt rõ (p < 0,05)(10).
Các yếu tố liên quan đến sự cải thiện chức năng
vận động của bệnh nhân
Cĩ nhiều yếu tố liên quan đến kết quả phục
hồi vận động của bệnh nhân TBMMN. Việc tiên
lượng và đánh giá khả năng phục hồi của bệnh
nhân TBMMN khĩ cĩ thể xác định được chính
xác ở những lần khám đầu tiên sau đột quỵ. Đề
cập đến các yếu tố liên quan đến kết quả phục
hồi của người bệnh TBMMN, nghiên cứu của
chúng tơi đã tìm ra một số yếu tố sau:
Nghiên cứu tìm thấy sự khác biệt giữa điểm
thay đổi chức năng vận động của người bệnh
hiện đang sinh sống tại TPHCM và những người
bệnh sống tại các tỉnh thành khác (p = 0,038).
Điều này cĩ thể là do những bệnh nhân sinh
sống tại TPHCM sẽ thuận lợi hơn cho người nhà
trong việc chăm sĩc và đi lại, từ đĩ sẽ giúp chăm
sĩc và giúp đỡ bệnh nhân tốt hơn. Vì quá trình
PHCN là quá trình kéo dài, khơng thể hồn
thành trong khoảng thời gian ngắn, nên nơi cư
trú trở thành một trong những đặc điểm cản trở
ở những bệnh nhân thuộc các tỉnh thành khác.
Từ đây cĩ thể thấy được rằng, cần phải cĩ sự
đầu tư và xây dựng những cơ sở, bệnh viện
chuyên về PHCN tại các tỉnh thành khác nhằm
giúp người bệnh cĩ nơi điều trị, tập luyện thuận
tiện, chuyên nghiệp, hạn chế sự lãng phí trong
việc di chuyển, ăn ở của người nhà, và phát triển
y tế địa phương.
Nhiều tác giả qua nghiên cứu về bệnh nhân
TBMMN cho thấy bệnh nhân nếu được bắt đầu
tập luyện PHCN sớm thì kết quả phục hội sẽ tốt
hơn nhiều so với bắt đầu phục hồi muộn(3,14,15).
Tuy nhiên nghiên cứu của chúng tơi lại cho thấy
kết quả khơng đồng nhất. Sự khác biệt về kết
quả giữa các nghiên cứu cĩ thể là do cĩ thể
những bệnh nhân tới điều trị sớm là những bệnh
nhân cĩ tình trạng bệnh nặng hơn, cần được
điều trị PHCN gấp mới cĩ thể thực hiện các hoạt
động thường ngày, trong khi các bệnh nhân tới
sau khi bị TBMMN trên 1 tháng cĩ thể là bệnh
nhẹ hơn, vẫn cĩ thể duy trì một số hoạt động dù
chưa được tập luyện điều trị PHCN.
Nghiên cứu cũng tìm thấy sự khác biệt giữa
điểm thay đổi chức năng vận động của người
bệnh bị TBMMN lần đầu và người bệnh bị
TBMMN tái phát (p = 0,0245). Kết quả nghiên
cứu này tương đồng với một số tác giả khác như
nghiên cứu của tác giả Hồng Thị Ý Nhi(5) hay
tác giả Hồng Thanh Hiền(4). Đây là điều khá
hợp lý vì ở những bệnh nhân TBMMN tái phát,
nghĩa là bệnh nhân cĩ khả năng sẽ bị nặng hơn,
đã qua điều trị lần đầu nhưng vẫn tiếp tục bệnh
dẫn đến khĩ hồi phục. Chưa kể đến những bệnh
nhân này cĩ thể là những người lớn tuổi và đây
cũng là một trong những yếu tố làm cản trở sự
hồi phục của bệnh nhân. Điều này đặt ra vấn đề
trong chiến lược dự phịng thứ cấp TBMMN, đĩ
là việc dự phịng tái phát TBMMN trên bệnh
nhân cĩ tiền sử bị TBMMN là những bệnh nhân
cĩ nguy cơ cao chưa thực sự cĩ hiệu quả. Một
trong những nguyên nhân đĩ là sự hiểu biết của
người bệnh về phịng ngừa TBMMN chưa thực
sự rõ ràng.
Ngồi ra nghiên cứu cịn tìm thấy sự khác
biệt giữa điểm thay đổi chức năng vận động của
người bệnh cĩ bị hơn mê khi tai biến và người
bệnh khơng bị hơn mê (p = 0,0002). Kết quả
nghiên cứu này tương đồng với nghiên cứu của
tác giả Hồng Thanh Hiền cho thấy bệnh nhân
khơng hơn mê thì hiệu quả điều trị tốt gấp 2,7
lần bệnh nhân cĩ hơn mê(4).
Thể trạng bệnh nhân là một yếu tố quan
trọng đối với kết quả điều trị bất kỳ bệnh gì. Đặc
biệt khi bệnh nhân cĩ kèm bệnh tim mạch. Đối
với phương pháp điều trị PHCN cũng khơng
ngoại lệ. Nghiên cứu tìm thấy sự khác biệt giữa
điểm thay đổi chức năng vận động của người
bệnh cĩ tiền sử bệnh mạn tính và người bệnh
khơng cĩ bệnh mạn tính đi kèm (p = 0,003). Đa
số các nghiên cứu đều xác định rõ bệnh mạn tính
cĩ ảnh hưởng đến kết quả điều trị là bệnh nào,
trong khi nghiên cứu chúng tơi chưa tìm được
các mối liên quan này ở từng bệnh riêng lẻ mà
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 326
chỉ tìm thấy ở biến số bệnh mạn tính (chung) và
bệnh tăng huyết áp. Nguyên nhân cĩ thể là do
nghiên cứu này được thực hiện với cỡ mẫu
khơng lớn nên khi phân tích theo từng bệnh
riêng lẻ thì số liệu quá ít, chưa thể xác định được.
Chúng tơi chỉ tìm thấy sự tương đồng về kết quả
nghiên cứu với nghiên cứu của tác giả Trịnh Thị
Diệu Thường(15). Những kết quả trên cũng là một
gợi ý cho các nghiên cứu sâu hơn về các bệnh
mạn tính ảnh hưởng như thế nào trong quá trình
điều trị PHCN ở bệnh nhân TBMMN.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho kết quả là đa số bệnh nhân
sau khi điều trị đều cĩ sự cải thiện về chức năng
vận động nhưng CLCS lại chưa cải thiện rõ. Từ
đĩ cho thấy nhân viên y tế của bệnh viện, người
thân, gia đình và xã hội cần quan tâm hơn đến
vấn đề tâm lý, cảm xúc của bệnh nhân. Đặc biệt
là giao tiếp với người bệnh, tìm hiểu nắm bắt
diễn biến, trạng thái, tâm lý của người bệnh, để
kịp thời động viên, an ủi bệnh nhân yên tâm
điều trị. Ngồi ra bệnh viện cĩ thể phát triển
thêm mảng điều trị, tư vấn tâm lý cho bệnh nhân
TBMMN để giúp bệnh nhân đối phĩ, giải quyết
với cảm giác thất vọng, trầm cảm, tự ti ... Từ đĩ
giúp cho bệnh nhân khơng chỉ phục hồi về thể
chất mà cịn về mặt tinh thần, giúp bệnh nhân
nâng cao CLCS sau TBMMN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2014). Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2014.
Hà Nội: Nhà xuất bản Y học.
2. Đặng Hồng Anh, Nguyễn Văn Chương (2009). Nghiên cứu
sự hồi phục ở bệnh nhân sau tai biến mạch máu não cĩ tăng
huyết áp sau 1 năm và một số yếu tố liên quan. Hội thần kinh
học Việt Nam.
3. Feys H, Weerdt WD (2004). Early and repetitive stimulation of
the arm can substantially improve the long-term outcome
after stroke: 5-year follow-up study of a randomized trial.
Stroke.;35:pp. 924-9.
4. Hồng Thanh Hiền, Phan Quan Chí Hiếu (2012). Khảo sát
những yếu tố cĩ ảnh hưởng trên hiệu quả phục hồi vận động
sau đột quỵ bằng phương pháp châm cứu cải tiến phối hợp
vật lý trị liệu tại TPHCM. Tạp chí Y học TP Hồ Chí
Minh;16(1):tr. 62-7.
5. Hồng Thị Ý Nhi (2009). Kết quả phục hồi chức năng bệnh
nhân liệt nửa người do tai biến mạch máu não tại Bệnh viện
Điều dưỡng - Phục hồi chức năng Thừa Thiên Huế năm 2005 -
2009: Trường Đại học Y Dược Huế.
6. Huang YC, Leong CP, Wang L, et al (2016). Effect of
kinesiology taping on hemiplegic shoulder pain and
functional outcomes in subacute stroke patients: a randomized
controlled study. European Journal of Physical and
Rehabilitation Medicine;52(6):pp. 774-81.
7. Iuly T, Landesman C, Tabacaru E, Kalichman L (2014).
Influence of home-based exercises on walking ability and
function of post-stroke individuals. International Journal of
Therapy and Rehabilitation;21(9):pp. 441-6.
8. Lê Văn Thành, Nguyễn Thị Kim Liên, Phan Cơng Tân,
Nguyễn Văn Tuấn (2011). Những tiến bộ mới trong điều trị tai
biến mạch máu não và đơn vị đột quỵ. Thời sự y học.
9. Mahoney F.I, Barthel D (1965). Functional evaluation: the
Barthel Index. Maryland State Med Journal;14:pp. 56-61. Used
with permission.
10. Nguyễn Tấn Dũng (2012). Nghiên cứu chất lượng sống và
hiệu quả phục hồi chức năng nâng cao chất lượng sống của
người bệnh sau tai biến mạch máu não tại Đà Nẵng. Hà Nội:
Trường Đại học Y Hà Nội.
11. Parkerson GR, Broadhead WE, Tse CKJ (1990). The Duke
Health Profile : a 17 item measure of health and dysfunction.
Medical care;28(11):pp. 1056-72.
12. Shimodozono M, Noma T, et al (2016). Outcomes of repetitive
facilitation exercises in convalescent patients after stroke with
impaired health status. Brain Injury;30(13-14):pp. 1722-30.
13. Skovgaard RR, Kjỉr P, Skerris A, et al (2015). Stroke
rehabilitation at home before and after discharge reduced
disability and improved quality of life: A randomised
controlled trial. Clinical Rehabilitation;30(3):pp. 225-36.
14. Trần Thị Mỹ Luật (2008). Đánh giá kết quả phục hồi chức
năng vận động của bệnh nhân tai biến mạch máu não tại Viện
điều dưỡng - PHCN tỉnh Thái Nguyên Luận văn thạc sĩ y
khoa - Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên;.
15. Trịnh Thị Diệu Thường (2013). Đánh giá hiệu quả phục hồi
vận động của phương pháp châm cải tiến kết hợp vận động
trị liệu trên bệnh nhân nhồi máu não [Luận án Tiến sĩ Y học]:
Đại học Y Dược TP HCM.
16. Young KH, Kim YL, Lee SM (2015). Effects of therapeutic Tai
Chi on balance, gait, and quality of life in chronic stroke
patients. International Journal of Rehabilitation
Research;38:pp. 156-61.
Ngày nhận bài báo: 29/01/2018
Ngày phản biện bài báo: 05/02/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- muc_do_phuc_hoi_chuc_nang_van_dong_va_chat_luong_cuoc_song_c.pdf