Tài liệu Một trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát do hội chứng kháng phospholipid: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa
214
MỘT TRƯỜNG HỢP HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU TÁI PHÁT
DO HỘI CHỨNG KHÁNG PHOSPHOLIPID
Nguyễn Trường Duy *
TÓM TẮT
Huyết khối tĩnh mạch sâu là một bệnh cảnh thường gặp, việc điều trị tương đối lâu dài, tỉ lệ tử vong cao nếu
gây ra thuyên tắc động mạch phổi cấp. Huyết khối tĩnh mạch sâu dễ tái phát nếu nguyên nhân gây huyết khối
không được tìm ra hoặc nguyên nhân này không thể được giải quyết triệt để cũng như việc bệnh nhân không
được điều trị kháng đông một cách tích cực. Chúng tôi báo cáo một trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát
do hội chứng antiphospholipid.
Từ khóa: huyết khối tĩnh mạch sâu, kháng đông, kháng phospholipid
ABTRACT
RECURRENT DEEP VENOUS THROMBOSIS DUE TO ANTIPHOSPHOLIPID SYNDROME:
A CASE REPORT
Nguyen Truong Duy
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 214-219
Deep venous thrombosis is a common disease w...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 123 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát do hội chứng kháng phospholipid, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa
214
MỘT TRƯỜNG HỢP HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU TÁI PHÁT
DO HỘI CHỨNG KHÁNG PHOSPHOLIPID
Nguyễn Trường Duy *
TÓM TẮT
Huyết khối tĩnh mạch sâu là một bệnh cảnh thường gặp, việc điều trị tương đối lâu dài, tỉ lệ tử vong cao nếu
gây ra thuyên tắc động mạch phổi cấp. Huyết khối tĩnh mạch sâu dễ tái phát nếu nguyên nhân gây huyết khối
không được tìm ra hoặc nguyên nhân này không thể được giải quyết triệt để cũng như việc bệnh nhân không
được điều trị kháng đông một cách tích cực. Chúng tôi báo cáo một trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát
do hội chứng antiphospholipid.
Từ khóa: huyết khối tĩnh mạch sâu, kháng đông, kháng phospholipid
ABTRACT
RECURRENT DEEP VENOUS THROMBOSIS DUE TO ANTIPHOSPHOLIPID SYNDROME:
A CASE REPORT
Nguyen Truong Duy
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 214-219
Deep venous thrombosis is a common disease which requires long time treatment with high mortality if
complicating acute pulmonary embolism. Deep venous thrombosis usually relapses once its etiology is not found
or enable to be completely solved as well as that the patient is not intensively anticoagulated. We hereby report a
case of recurrent deep venous thrombosis due to antiphospholipid syndrome.
Keywords: deep venous thrombosis, anticoagulation, antiphospholipid
GIỚI THIỆU BỆNH ÁN
Bệnh nhân Phạm Thị H., sinh năm 1990 (27
tuổi). Nghề nghiệp: nội trợ.
Nhập viện ngày 07/06/2017. Số hồ sơ: 54470.
Lý do nhập viện
Đau chân trái.
Cách nhập Bệnh viện Chợ Rẫy 1 ngày: bệnh
nhân (BN) đột ngột sưng và đau chân trái từ đùi
đến bàn chân, hạn chế vận động. BN nhập bệnh
viện tỉnh, ∆: tắc tĩnh mạch nông, sâu chân trái do
huyết khối; điều trị giảm đau với paracetamol
chuyển BV Chợ Rẫy.
Tiền căn
Bệnh nhân không bị chấn thương, không
nằm bất động hoặc sử dụng thuốc gì trong thời
gian gần đây.
Năm 2001: bệnh nhân đã được chẩn đoán
huyết khối tĩnh mạch sâu chân trái (không ghi
nhận chẩn đoán nguyên nhân vào thời điểm đó),
được điều trị với thuốc kháng đông không rõ
loại trong 6 tháng, sau đó ngưng điều trị.
Sẩy thai 2 lần: lần 1 với thai #20 tuần, lần 2
với thai #14 tuần.
Rụng tóc nhiều trong thời gian gần đây.
Thường hay sưng, đau các khớp liên đốt
ngón tay, tự hết.
Ghi nhận tại Bệnh viện Chợ Rẫy
BN tỉnh, tiếp xúc tốt. Không đau ngực hoặc
khó thở.
Mạch: 85 l/ph Huyết áp: 120/80 mmHg.
Nhiệt độ: 370C Nhịp thở: 20 lần/phút.
Tim: T1, T2 đều rõ. Phổi: trong, không rale.
Không ghi nhận hồng ban ngoài da,
không lở miệng.
*Bộ môn Nội - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, khoa Nội Tim Mạch – Bệnh viện. Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Trường Duy ĐT: 0907021198 Email: superntduy410@yahoo.com
.* Bộ môn Nội, ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa
215
Chân trái: phù từ vùng đùi đến bàn chân, ấn
lõm, không nóng, không dấu hiệu viêm mô tế bào.
Đầu chi hồng, cử động các ngón chân bình
thường, không dị cảm.
Hạch: không sờ thấy.
Siêu âm mạch máu chi dưới:
Siêu âm động mạch 2 chân không phát hiện
tắc hẹp.
Tắc gần hoàn toàn hệ tĩnh mạch chậu-đùi
sâu chân trái do huyết khối.
Siêu âm tim: không ghi nhận huyết khối
trong buồng tim và tĩnh mạch chủ dưới.
Các xét nghiệm căn bản
Bảng 1. Công thức máu
RBC Hb. MCV MCH MCHC WBC Neu. Lym. PLT
3,75
T/L
110
g/L
91,9
fL
29,3
pg
319
g/L
12,99
G/L
69,3% 19,1% 33
G/L
Thiếu máu đẳng sắc đẳng bào, giảm tiểu cầu,
tăng số lượng bạch cầu.
Bảng 2. Xét nghiệm sinh hóa
Glucose BUN Creatinine ALT AST TPTNT
76 mg/dL 17 mg/dL 0,8 mg/dL 47 U/L 29 U/L Bình
thường
Protein: (-)
Blood (-)
BN được làm các xét nghiệm tầm soát bệnh
tự miễn
Bảng 3. Các xét nghiệm tự miễn
ANA Anti-
dsDNA
C3 C4 Anti-CCP RF
Dương
tính
Âm tính 66 mg/dL 5,3
mg/dL
3,2 IU/mL 11,8
IU/mL
Có tình trạng giảm bổ thể C3 + C4 và ANA (+).
BN được khảo sát các yếu tố tăng đông và
kháng đông:
Bảng 4. Các xét nghiệm yếu tố tăng đông và kháng đông
Xét nghiệm Kết quả Giá trị bình thường
Protein S 68,3% 62 - 145
Protein C 70,1% 70-135
Anti-thrombin 70,6% 80 - 130
Homocystein 12,1 µmol/L 3,36 – 20,4
Có tính trạng giảm Anti-thrombin phù
hợp với bệnh cảnh hội chứng kháng
phospholipid.
Với bệnh cảnh hướng đến bệnh tự miễn, về
tiền căn bệnh nhân có sẩy thai tái phát nhiều
lần, chúng tôi tầm soát hội chứng kháng
phospholipid.
Bảng 5. Xét nghiệm tầm soát hội chứng
kháng phospholipid
Xét nghiệm Kết quả Giá trị bình
thường
Anti-cardiolipin IgG 158 U/mL < 20 U/mL
Anti-cardiolipin IgM 253 U/mL < 15 U/mL
Lupus Anticoagulant confirm 43 giây 30 – 38 giây
Lupus Anticoagulant confirm ratio 1,37 R 0,9 – 1,1
Các xét nghiệm đều phù hợp với hội chứng
kháng phospholipid.
Chẩn đoán
Huyết khối tĩnh mạch sâu chân trái tái phát
chưa biến chứng – hội chứng kháng phospholid
thứ phát – lupus ban đỏ hệ thống biến chứng
huyết học.
Điều trị
Ức chế miễn dịch: methylprednisolone
1mg/kg/ngày tiêm tĩnh mạch.
Kháng đông: rivaroxaban 15 mg x 2/ngày (uống).
Điều trị hỗ trợ: calcium + viatmin D3.
KẾT QUẢ
Lâm sàng
BN giảm sưng và đau chân trái sau 3 ngày.
Đến ngày 5: hết phù chân, hết đau.
Huyết học
Bảng 6. Thay đổi thông số xét nghiệm huyết học sau
điều trị
Ngày nhập
viện
Ngày 2 Ngày 4 Ngày
8
Hb (g/L) 110 108 105 107
PLT (G/L) 33 40 96 101
BN đáp ứng tốt với điều trị trên cả phương
diện lâm sàng (giảm đau + phù chân) và cận lâm
sàng (tình trạng giảm tiểu cầu cải thiện rõ rệt).
BÀN LUẬN
Huyết khối tĩnh mạch sâu là một bệnh cảnh
thường gặp, có thể gây biến chứng nguy hiểm
đe dọa tính mạng như thuyên tắc động mạch
phổi cấp, hoặc về lâu dài có thể gây tổn thương
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa
216
van tĩnh mạch không hồi phục – hội chứng hậu
huyết khối. Nếu không được điều trị, 50% bệnh
nhân sẽ tái phát huyết khối tĩnh mạch sâu có
triệu chứng trong vòng 3 tháng. Nếu điều trị
không đầy đủ, nguy cơ tử vong do thuyên tắc
phổi là 3%. Sau ngưng điều trị kháng đông, tỉ lệ
tái phát là 5 -15% mỗi năm. Huyết khối tĩnh
mạch sâu có thể tái phát nếu bệnh nhân không
được điều trị kháng đông đúng và đủ (đủ liều,
đủ thời gian) hoặc nguyên nhân khởi kích tình
trạng tạo lập huyết khối không được tìm thấy.
Chính vì vậy, trên những bệnh nhân bị huyết
khối tĩnh mạch sâu, việc truy tìm nguyên nhân,
yếu tố khởi kích rất quan nếu bệnh cảnh huyết
khối tĩnh mạch tái phát nhiều lần và tuổi thai của
những lần bị sẩy càng nhỏ dần thì hội chứng
kháng phospholipid là bệnh cảnh nên được nghĩ
đến. Theo nghiên cứu của Cervera R. và cộng sự
trên 1000 bệnh nhân có hội chứng kháng
phospholipid thì biểu hiện bằng huyết khối tĩnh
mạch sâu chiếm 39%, giảm tiểu cầu: 30%, sẩy
thai sớm (<10 tuần): 35%, sẩy thai muộn (≥10
tuần): 17%(8).
Hội chứng kháng phospholipid đặc trưng
bởi tình trạng huyết khối động mạch hoặc tĩnh
mạch và/hoặc gây sẩy thai nhiều lần cùng với sự
hiện diện của kháng thể kháng phospholipid.
Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng kháng
phospholipid đã có nhiều thay đổi trong những
năm vừa qua. Kể từ năm 1999, tiêu chuẩn
Sapporo được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán
hội chứng kháng phospholipid do có độ nhạy và
độ đặc hiệu cao(4). Theo tiêu chuẩn này, để chẩn
đoán hội chứng kháng phospholipid cần ít nhất
1 tiêu chuẩn lâm sàng và 1 tiêu chuẩn cận lâm
sàng. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này khó áp dụng
trên những bệnh nhân lớn tuổi, không định
nghĩa rõ ràng về ngưỡng cắt “trung bình – cao”
của hiệu giá kháng thể anticardiolipin IgM và
IgG. Để khắc phục những nhược điểm đó, tiêu
chuẩn Sapporo cải biên 2006 (tiêu chuẩn Sydney)
đã được đề xuất để chẩn đoán hội chứng kháng
phospholipid như sau: chẩn đoán xác định cần ít
nhất 1 tiêu chuẩn lâm sàng và 1 tiêu chuẩn cận
lâm sàng(4).
Tiêu chuẩn lâm sàng
Huyết khối mạch máu: có ≥1 biến cố tắc
động mạch, tĩnh mạch hoặc mạch máu nhỏ xảy
ra tại bất kỳ mô hay cơ quan nào, được xác định
bằng hình ảnh học hoặc mô học (huyết khối tĩnh
mạch nông không nằm trong tiêu chuẩn này).
Biến chứng trên thai kỳ
Có ≥3 lần sẩy thai liên tiếp nhau trước tuần
thứ 10 của thai kỳ, không giải thích được bằng
các bất thường nhiễm sắc thể của cha/mẹ hoặc
các bất thường về giải phẫu, nội tiết của người mẹ.
Có ≥1 lần sẩy thai không giải thích được khi
thai ≥10 tuần tuổi.
Có ≥1 lần sinh non khi thai ≤34 tuần do tiền
sản giật năng, sản giật hoặc suy nhau thai.
Tiêu chuẩn cận lâm sàng
Lupus anticoagulant (+).
Kháng thể anticardiolipin IgG và/hoặc IgM
(+) với nồng độ trung bình hoặc cao (>40 GPL
hoặc MPL hoặc trên bách phân vị thứ 99) bằng
kỹ thuật ELISA chuẩn hóa.
Kháng thể Anti-2-GP1 IgG và/hoặc IgM (+)
với nồng độ trên bách phân vị thứ 99 bằng kỹ
thuật ELISA chuẩn hóa.
Bệnh nhân nữ trong trường hợp lâm sàng
này bị huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát nên
việc truy tìm nguyên nhân rất quan trọng. Trong
lần bị huyết khối tĩnh mạch đầu tiên, bệnh nhân
đã không được chẩn đoán nguyên nhân gây
huyết khối. BN có thêm dữ kiện lâm sàng gợi ý
hội chứng kháng phospholipid là sẩy thai liên
tiếp 2 lần và tuổi thai khi bị sẩy nhỏ dần (lần 1
khi thai #20 tuần, lần 2 khi thai #14 tuần) nên
chúng tôi quyết định làm các xét nghiệm tự miễn
cho hội chứng kháng phospholipid (Bảng 5). Đối
chiếu theo tiêu chuẩn Sydney 2006 thì bệnh nhân
đủ tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng kháng
phospholipid với 1 tiêu chuẩn lâm sàng (huyết
khối tĩnh mạch chi dưới) và có đến 2 tiêu chuẩn
cận lâm sàng đều thỏa: lupus anticoagulant (+),
anticardiolipin IgM và IgG đều (+).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa
217
Hội chứng kháng phospholipid có thể
nguyên phát hoặc thứ phát; và một khi là thứ
phát thì thường nằm trong bệnh cảnh của lupus
ban đỏ hệ thống. Theo nghiên cứu của
McMahon MA. Và cộng sự, tần suất hội chứng
kháng phospholipid trên bệnh nhân được chẩn
đoán lupus ban đỏ hệ thống là 27%. Tỉ lệ này lên
đến 61% theo nghiên cứu của nhóm tác giả
Laisvyde Statkute(8). Chúng tôi sử dụng bảng
tiêu chuẩn chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống của
SLICC 2012 (Systemic Lupus International
Collaborating Clinics classification criteria for
systemic lupus erythematosus)(8), bệnh nhân này
đã thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán lupus khi có đủ 4
tiêu chuẩn: giảm tiểu cầu, ANA (+), giảm bổ thể
C3 + C4, Lupus anticoagulant (+).
Ngay sau khi đã có chẩn đoán xác định,
chúng tôi tiến hành điều trị ngay cho bệnh nhân
bằng thuốc kháng đông và corticoid liều ức chế
miễn dịch vì bệnh nhân có đồng thời ANA (+)
kết hợp với giảm bộ thể nên chúng tôi nghĩ
nhiều khả năng bệnh cảnh lupus đang tiến triển.
Theo khuyến cáo của Trường môn tim mạch
Hoa Kỳ, kháng vitamin K là thuốc kháng đông
được lựa chọn hàng đầu cho bệnh nhân có biến
chứng huyết khối do hội chứng kháng
phospholipid(8). Tuy nhiên, điều trị huyết khối
bằng thuốc kháng vitamin K cần “bắc cầu” với
heparin. Bệnh nhân này lúc nhập viện có giảm
tiểu cầu (PLT = 33 G/L) nên chúng tôi không thể
sử dụng heparin vì có thể làm nặng thêm tình
trạng giảm tiểu cầu (giảm tiểu cầu do heparin).
Do đó, chúng tôi cũng không thể khởi trị bằng
kháng vitamin K đơn độc do hiện tượng tăng
đông nghịch thường xảy ra trong 72 giờ đầu sau
dùng kháng vitamin K (gây giảm protein S,
protein C), có thể làm phát triển kích thước
huyết khối hiện có và tạo lập huyết khối tại cái vị
trí khác. Mặt khác, điều trị với kháng vitamin K
bắt buộc phải theo dõi thường xuyên hiệu lực
kháng đông thông qua xét nghiệm INR và INR
có mức dao động nhiều. Trong trường hợp này,
thuốc kháng đông đường uống không phải
kháng vitamin K (NOAC) làm một lựa chọn
thay thế hợp lý(5). Đã có nhiều nghiên cứu chứng
minh hiệu quả của NOAC trong phòng ngừa đột
quỵ trong rung nhĩ, phòng ngừa huyết khối tĩnh
mạch sâu tái phát trên bệnh nhân có bệnh cảnh
huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch, cũng như
phòng ngừa tiên phát huyết khối tĩnh mạch sâu
trên những bệnh nhân nguy cơ cao(5). Tuy nhiên,
nghiên cứu chứng minh hiệu quả phòng ngừa
huyết khối tái phát trên bệnh nhân có hội chứng
kháng phospholipid vẫn còn một số hạn chế. Dữ
liệu về hiệu quả của rivaroxaban nói riêng và
NOAC nói chung trong bệnh cảnh hội chứng
kháng phospholipid qua các nghiên cứu vẫn còn
cho các kết quả trái ngược nhau(1). Nghiên cứu
của Schafer, Signorelli, Win và Rogers cho thấy
NOAC không hiệu quả(6,11). Tuy nhiên, phần lớn
những bệnh nhân thất bại với điều trị NOAC
trong các nghiên cứu này đều thuộc nhóm nguy
cơ rất cao (huyết khối tái phát, có huyết khối
động mạch, bộ ba kháng thể đều dương tính).
Nghiên cứu của nhóm tác giả Sciascia cho thấy
rivaroxaban hiệu quả và an toàn cho những
bệnh nhân kháng phospholipid có huyết khối
tĩnh mạch sâu và không dung nạp với thuốc
kháng vitamin K(10).
Nghiên cứu RAPS (Rivaroxaban versus
warfarin to treat patients with thrombotic
antiphospholipid syndrome) thực hiện trên 116
bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng
kháng phospholipid, được phân nhóm ngẫu
nhiên dùng warfarin hoặc rivaroxaban 20
mg/ngày nhằm đánh giá hoạt lực thrombin nội
sinh giữa 2 nhóm. Hoạt lực thrombin nội sinh
(Endogenous Thrombin Potential - ETP) là một
chỉ dấu đánh giá sự cân bằng giữa yếu tố tăng
đông và kháng đông của cơ thể. ETP càng cao,
nguy cơ tạo lập huyết khối càng cao(12). Kết quả
của nghiên cứu RAPS cho thấy rivaroxaban có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa
218
hiệu quả tương đương với warfarin trong việc
giảm hình thành huyết khối tái phát, tuy nhóm
sử dụng rivaroxaban có ETP cao hơn có ý nghĩa
so với nhóm sử dụng warfarin(3).
Nghiên cứu của tác giả Hannah Cohen và
cộng sự trên 110 bệnh nhân mắc hội chứng
kháng phospholipid được phân nhóm sử dụng
rivaroxaban và warfarin(10). Kết quả: tỉ lệ huyết
khối tái phát và tỉ lệ biến chứng xuất huyết nặng
sau 6 tháng điều trị giữa hai nhóm khác biệt
không có ý nghĩa thống kê(2,3).
Phân tích gộp của 2 tác giả Houry Leblebjian
và Aric Parnes trên 360 bệnh nhân có huyết khối
động hoặc tĩnh mạch sâu đang được điều trị với
kháng đông được xét nghiệm tìm hội chứng
kháng phospholipid. 41 trường hợp (11,3%) thỏa
tiêu chuẩn chẩn đoán kháng phospholipid theo
Sapporo. Kết quả cho thấy: NOAC có hiệu quả
và biến chứng xuất huyết tương đương với
warfarin. Trong nghiên cứu này, tỉ lệ bệnh nhân
sử dụng rivaroxaban trong nhóm NOAC chiếm
71%(7). Nghiên cứu của tác giả Noel N. trên 26
bệnh nhân có hội chứng kháng phospholipid
bằng thuốc kháng trực tiếp thrombin (thuộc
nhóm NOAC) chỉ ghi nhận duy nhất 1 trường
hợp huyết khối tái phát(9).
Từ kết quả của các nghiên cứu trên, chúng
tôi có cơ sở cho việc điều trị huyết khối trong
bệnh cảnh hội chứng kháng phospholipid bằng
thuống kháng đông NOAC, cụ thể là
rivaroxaban với liều khởi đầu là 15 mg x 2
lần/ngày (tương tự liều sử dụng trong nghiên
cứu EINSTEIN DVT)(5), song song với điều trị
lupus ban đỏ hệ thống. Kết quả cho thấy bệnh
nhân có cải thiện rõ rệt về triệu chứng lâm sàng
(giảm đau và phù chân, đi lại được), đồng thời
không ghi nhận biến chứng xuất huyết xảy ra
trong suốt quá trình điều trị.
KẾT LUẬN
Huyết khối tĩnh mạch sâu là một bệnh lý dễ
tái phát, việc tìm nguyên nhân gây huyết khối có
ý nghĩa trong việc tiên lượng và điều trị nhằm
ngăn ngừa tái phát. Hội chứng kháng
phospholipid nên được nghĩ đến trên bệnh nhân
nữ có huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát kèm sẩy
thai nhiều lần. Hơn 50% hội chứng kháng
phospholipid là thứ phát do lupus ban đỏ hệ
thống. Tiêu chuẩn Sydney có thể được sử dụng
để chẩn đoán hội chứng kháng phospholipid.
Việc điều trị huyết khối bằng warfarin hoặc
thuốc kháng đông đường uống thế hệ mới
rivaroxaban cho hiệu quả tương đương nhau
qua một số công trình nghiên cứu. Cần có những
nghiên cứu sâu hơn về hiệu quả cũng như tính
an toàn của rivaroxaban trong điều trị phòng
ngừa huyết khối tái phát trên bệnh nhân có hội
chứng kháng phospholipid.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Braham S, Bucciarelli P, Moia M (2015). “Treatment of
Thrombosis in Antiphospholipid Syndrome. In: Pier L”.
Antiphospholipid Antibody Syndrome: From Bench to Bedside, pp
185-192. Springer, Switzerland.
2. Cohen H, Hunt BJ, Efthymiou M et al (2017). “Direct Oral
Anticoagulants Use in Antiphospholipid Syndrome: Are These
Drugs an Effective and Safe Alternative to Warfarin? A
Systematic Review of the Literature: Comment”. Curr Rheumatol
Rep, 19(8): 50.
3. Cohen H, Hunt BJ, Efthymiou M, Arachchillage DR et al (2016).
“Rivaroxaban versus warfarin to treat patients with thrombotic
antiphospholipid syndrome, with or without systemic lupus
erythematosus (RAPS): a randomised, controlled, open-label,
phase 2/3, non-inferiority trial”. Lancet Haematol, Sep; 3(9):426–436.
4. Edwin S, Troy S (2019). “Antiphospholipid Antibody
Syndrome.”. The 5-Minute Clinical Consult 27th edition, pp.627-
636. Wolters Kluwer, Philadelphia.
5. EINSTEIN Investigators, Bauersachs R, Berkowitz SD et al
(2010). “Oral Rivaroxaban for Symptomatic Venous
Thromboembolism”. N Engl J Med, 363:2499-2510.
6. Haładyj E, Olesińska M (2016). “Rivaroxaban – A Safe
Therapeutic Option In Patients With Antiphospholipid
Syndrome? Our experience in 23 cases”. Reumatologia,
54(3): 146–149.
7. Houry L, Aric P (2017). “Direct Oral Anticoagulants in Anti-
Phospholipid Syndrome”. Blood, 130:2145.
8. Moutsopoulos HM, Vlachoyiannopoulos PG (2018).
“Antiphospholipid Syndrome. In Jameson, Fausi, Kasper (eds)”.
Harrison’s Principles of Internal Medicine 20th edition, pp 2256-2257.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa
219
The McGraw-Hill, New York.
9. Noel N, Dutasta F, Bienvenu B et al (2015). “Safety and efficacy
of oral direct inhibitors of thrombin and factor Xa in
antiphospholipid syndrome”. Autoimmun Rev, Aug;14(8):680-5.
10. Sciascia S, Breen K, Hunt BJ (2015). “Rivaroxaban use in patients
with antiphospholipid syndrome and previousvenous
thromboembolism”. Blood Coagulation and Fibrinolysis, 26:476–478.
11. Signorelli F, Nogueira F, Domingues V et al (2016). “Thrombotic
events in patients with antiphospholipid syndrome treated with
rivaroxaban: a series of eight cases”. Clin Rheumatol,
Mar,35(3):801-5.
12. Urbanus RT (2016). “Rivaroxaban to treat thrombotic
antiphospholipid syndrome”. www.thelancet.com/haematology,
Vol 3 September 2016.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_truong_hop_huyet_khoi_tinh_mach_sau_tai_phat_do_hoi_chun.pdf