Một số yếu tố liên quan ðến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi tại xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, năm 2014

Tài liệu Một số yếu tố liên quan ðến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi tại xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, năm 2014: TCNCYH 95 (3) - 2015 87 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ðẾN CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TẠI XÃ TRUNG LƯƠNG, HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM, NĂM 2014 Lê Thị Hồn, Trần Thị Thoa, Nguyễn Phương Hoa, Bùi Thị Lụa Trường ðại học Y Hà Nội Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hĩa dân số, tuy nhiên vẫn cịn nhiều thách thức trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Nghiên cứu mơ tả cắt ngang được tiến hành nhằm mơ tả một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống người cao tuổi tại xã Trung Lương huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam năm 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố về giới, sống độc thân, nguồn thu nhập, điều kiện kinh tế gia đình, khả năng vận động và mắc bệnh mạn tính cĩ mối liên quan với chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Người cao tuổi là nữ giới, khơng cĩ nguồn thu nhập chủ động ổn định cĩ chất lượng cuộc sống về tâm lý kém hơn nam giới, người cao tuổi cĩ thu nhập chủ động từ cơng việc hoặc lương hưu, ...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số yếu tố liên quan ðến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi tại xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, năm 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 95 (3) - 2015 87 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ðẾN CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TẠI XÃ TRUNG LƯƠNG, HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM, NĂM 2014 Lê Thị Hồn, Trần Thị Thoa, Nguyễn Phương Hoa, Bùi Thị Lụa Trường ðại học Y Hà Nội Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hĩa dân số, tuy nhiên vẫn cịn nhiều thách thức trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Nghiên cứu mơ tả cắt ngang được tiến hành nhằm mơ tả một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống người cao tuổi tại xã Trung Lương huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam năm 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố về giới, sống độc thân, nguồn thu nhập, điều kiện kinh tế gia đình, khả năng vận động và mắc bệnh mạn tính cĩ mối liên quan với chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Người cao tuổi là nữ giới, khơng cĩ nguồn thu nhập chủ động ổn định cĩ chất lượng cuộc sống về tâm lý kém hơn nam giới, người cao tuổi cĩ thu nhập chủ động từ cơng việc hoặc lương hưu, trợ cấp. Người cao tuổi thuộc hộ nghèo, sống độc thân, b ị hạn chế khả năng vận động, mắc bệnh mạn tính sẽ cĩ chất lượng cuộc sống kém hơn. Các chương trình can thiệp nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cần ưu tiên cho những người cao tuổi là nữ giới, khơng cĩ nguồn thu nhập chủ động, ổn định, cĩ điều kiện kinh tế khĩ khăn. Từ khĩa: người cao tuổi, chất lượng cuộc sống, yếu tố liên quan I. ðẶT VẤN ðỀ Dân số cao tuổi Việt Nam đang tăng lên nhanh chĩng cả về số lượng và tỷ lệ so với tổng dân số do tỷ suất sinh và tỷ suất tử vong giảm cùng với tuổi thọ tăng. Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hĩa dân số với tỷ trọng người trên 65 tuổi đạt 7% tổng dân số, sớm hơn dự báo 6 năm. Mặc dù đời sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi đã được cải thiện cùng với những tiến bộ nhất định của hệ thống y tế trong cơng tác chăm sĩc sức khỏe người cao tuổi, tuy nhiên vẫn cịn nhiều thách thức trong việc cải thiện chất lượng cuộc sống của người cao tuổi tại Việt Nam Theo Tổ chức Y tế Thế giới, chất lượng cuộc sống là “sự hiểu biết của cá nhân về vị trí xã hội của họ trong bối cảnh văn hĩa và hệ thống các giá trị, và trong mối quan hệ với các mục tiêu, kỳ vọng, chuẩn mực và mối quan tâm của họ”. Chất lượng cuộc sống thường được đánh giá về bốn khía cạnh chính là sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm lý, các mối quan hệ xã hội và mơi trường sống [1]. Các tác giả cũng cho rằng chất lượng cuộc sống thường bao gồm những khía cạnh về thể chất, xã hội, tâm lý và yếu tố tinh thần [2]. Nghiên cứu ở Hải Dương cũng cho thấy những khía cạnh quan trọng đối với chất lượng cuộc sống người cao tuổi là thể chất, tâm lý, xã hội, mơi trường, tơn giáo và kinh tế [3]. Các nghiên cứu trên Thế giới cũng đã chỉ ra yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi bao gồm: giới, điều kiện kinh tế, thu nhập, lối sống, tình trạng sức khỏe, mối quan hệ gia đình và xã hội [4; 5; 6]. Tuy nhiên chưa cĩ nhiều nghiên cứu về yếu tố liên quan tới chất lượng cuộc sống của người cao tuổi ở Việt Nam nĩi chung cũng như ở Hà Nam nĩi riêng. Vì vậy chúng tơi ðịa chỉ liên hệ: Lê Thị Hồn, Viện ðào tạo YHDP&YTCC, Trường ðại học Y Hà Nội Email: lethihoan@hmu.edu.vn Ngày nhận: 14/4/2015 Ngày được chấp thuận: 20/7/2015 88 TCNCYH 95 (3) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: Mơ tả một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống người cao tuổi tại xã Trung Lương huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam năm 2014. II. ðỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. ðịa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành tại xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. ðây là một xã nơng thơn, cĩ diện tích 8,41 km2, dân số 9000 người, tỷ lệ người cao tuổi là 11,1 % dân số, với điều kiện kinh tế - xã hội ở mức trung bình. 2. Thời gian thu thập số liệu tại thực địa: tháng 2/2014. 3. ðối tượng Người cao tuổi (tuổi từ 60 - 70 tuổi tính đến năm 2014), với các tiêu chuẩn: người cao tuổi đang sống ở xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam tối thiểu 1 năm; người cao tuổi từ 60 - 70 tuổi, tinh thần minh mẫn và sẵn sàng tham gia nghiên cứu. Theo nhiều nghiên cứu, chất lượng cuộc sống cĩ sự khác nhau theo tuổi, trong phạm vi nghiên cứu này mới chỉ tập trung nghiên cứu ở nhĩm tuổi 60 - 70 tuổi. 4. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mơ tả cắt ngang. Cỡ mẫu: Áp dụng cơng thức tính cỡ mẫu ước tính giá trị trung bình trong quần thể: Trong đĩ: n là số người cao tuổi cần điều tra s: ðộ lệch chuẩn = 14,9 ước tính từ nghiên cứu trước đây [7]. ∆ = 0,02: khoảng sai lệch cho phép giữa điểm trung bình chất lượng cuộc sống thu được từ mẫu nghiên cứu và tham số của quần thể. α: Mức ý nghĩa thống kê lựa chọn = 0,05. Z21-α/2: Giá trị Z thu được từ bảng Z ứng với giá trị a = 0,05 là 1,96. Ước tính được cỡ mẫu tối thiểu của nghiên cứu là 219 + 10 (5% dự trữ cho những trường hợp cĩ thể từ chối tham gia nghiên cứu) bằng 229 người cao tuổi. Ch$n m'u: Chọn xã Trung Lương là xã cĩ điều kiện kinh tế xã hội trung bình của huyện Bình Lục. Lập danh sách số người cao tuổi trong xã và chọn ra danh sách tất cả người cao tuổi từ 60 - 70 tuổi đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu. Chọn ngẫu nhiên 229 người cao tuổi tham gia vào nghiên cứu bằng phần mềm Excel 2010. Thu th,p thơng tin: ðiều tra viên là sinh viên Y học dự phịng năm thứ 6, đã được tập huấn kỹ về bộ câu hỏi với sự giám sát của các tác giả bài báo. Thơng tin được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp người cao tuổi với bộ câu hỏi phát triển sẵn. Bộ câu hỏi gồm 2 phần: Phần 1: Thơng tin chung của người cao tuổi về đặc điểm nhân khẩu học, điều kiện kinh tế hộ gia đình và tình trạng sức khỏe tự đánh giá. Phần 2: Các câu hỏi đánh giá chất lượng cuộc sống (WHOQOL - BREF) là phiên bản rút gọn QoL-100 của Tổ chức Y tế Thế giới xây dựng với 26 câu hỏi, gồm 4 khía cạnh là sức khỏe thể chất (7 câu); sức khỏe tâm lý (6 câu); mối quan hệ xã hội (3 câu); mơi trường (8 câu) và hai điểm chuẩn kiểm tra nhận thức chung của đối tượng về chất lượng cuộc sống và sức khỏe. Phân tích số liệu: Những khía cạnh của chất lượng cuộc sống được phân tích theo bốn khía cạnh: thể chất, tâm lý, xã hội và mơi n = Z21-α/2 s2 ∆2 TCNCYH 95 (3) - 2015 89 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 trường nêu trên. Phần mềm STATA 10.0 được sử dụng để phân tích số liệu. ðiểm về từng khía cạnh của chất lượng cuộc sống được tính theo hướng dẫn cách tính điểm của Tổ chức Y tế Thế giới và chuyển điểm sang thang điểm từ 0 - 100, điểm càng cao mức độ chất lượng cuộc sống càng tốt. Áp dụng mơ hình hồi qui đa biến để phân tích mối liên quan giữa chất lượng cuộc sống và các đặc điểm cá nhân, kinh tế hộ gia đình và tình trạng sức khoẻ của người cao tuổi. Nghiên cứu sử dụng mức ý nghĩa α = 0,05 và khoảng tin cậy 95%. 5. ðạo đức nghiên cứu Các đối tượng tham gia nghiên cứu được giải thích về mục đích, nội dung của nghiên cứu, tự nguyện đồng ý tham gia và cĩ quyền rút lui khỏi nghiên cứu ở bất cứ giai đoạn nào. Các thơng tin thu được sẽ được giữ bí mật và chỉ được sử dụng phục vụ cho mục đích nghiên cứu. III. KẾT QUẢ Trong số 229 người cao tuổi tham gia nghiên cứu, tỷ lệ người cao tuổi nam và nữ giới tương đối bằng nhau. Số người trong độ tuổi từ 60 - 65 cao hơn nhĩm từ 66 - 70 (57,2% so với 42,8%). Phần lớn (84,2%) người cao tuổi đang sống với vợ (hoặc chồng). Người cao tuổi làm nơng nghiệp chiếm đa số (65,5%). Số người cao tuổi cĩ thu nhập ổn định từ lương hưu hoặc trợ cấp chiếm 46,7%, tiếp theo là cĩ thu nhập từ cơng việc đang làm (42,4%). Người cao tuổi cĩ nguồn thu nhập phụ thuộc vào gia đình hoặc người thân chiếm 10,9%. Tỷ lệ hộ gia đình người cao tuổi xếp loại nghèo chiếm 25,3% (bảng 1). Bảng 2. Tình trạng sức khoẻ và hoạt động của người cao tuổi Tình trạng sức khoẻ và hoạt động Số lượng (n = 229) % Kh2 năng v,n đ6ng Vận động kém 17 7,4 Vận động bình thường 212 92,6 M8c b;nh m<n tính Cĩ bệnh 183 79,9 Khơng cĩ bệnh 46 20,1 T,p th> d@c Khơng tập thể dục 59 25,8 Cĩ tập thể dục 170 74,2 Tham gia ho<t đ6ng xã h6i Khơng tham gia 69 30,1 Cĩ tham gia 160 69,9 Trong số người cao tuổi tham gia nghiên cứu cĩ 7,4% khai báo khả năng đi lại kém, 79,9% 90 TCNCYH 95 (3) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ðặc điểm Số lượng (n = 229) % Giới tính Nam 104 45,5 Nữ 125 54,6 Nhĩm tuổi 60 - 65 131 57,2 66 - 70 98 42,8 Trình độ học vấn Từ trung học phổ thơng trở lên 57 24,9 Thấp hơn trung học phổ thơng 172 75,1 Nghề nghiệp Nơng nghiệp và nghề khác 150 65,5 Cán bộ hưu trí 79 34,5 Tình trạng hơn nhân Sống độc thân 36 15,8 ðang sống với vợ/chồng 193 84,2 Nguồn thu nhập chính Từ gia đình, người thân 25 10,9 Cơng việc hiện tại 97 42,4 Lương hưu, trợ cấp 107 46,7 Phân loại kinh tế hộ gia đình Nghèo 58 25,3 Khơng nghèo 171 74,7 Bảng 1. ðặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu khai báo cĩ mắc ít nhất 1 bệnh mạn tính. Số người cao tuổi khai báo cĩ tập thể dục chiếm 74,2% và cĩ tham gia hoạt động xã hội chiếm 69,9%. TCNCYH 95 (3) - 2015 91 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 Bảng 3. ðiểm chất lượng cuộc sống Các khía cạnh của chất lượng cuộc sống SD Thể chất 50,1 10,1 Tâm lý 55,5 11,4 Xã hội 62,1 11,2 Mơi trường 54,5 12,4 Bốn khía cạnh của chất lượng cuộc sống đều cĩ điểm trung bình ở mức trung bình theo thang điểm của Tổ chức Y tế thế giới (từ 0 –100 điểm). Trong đĩ, điểm trung bình về khía cạnh xã hội là cao nhất (62,1 điểm), chất lượng cuộc sống về khía cạnh thể chất cĩ điểm trung bình thấp nhất (50,1 điểm). Bảng 4. Mối liên quan giữa các khía cạnh chất lượng cuộc sống của người cao tuổi với đặc điểm cá nhân, kinh tế hộ gia đình và tình trạng sức khoẻ ðặc điểm Thể chất Tâm lý Xã hội Mơi trường Hệ số (95% độ tin cậy) Hệ số (95% độ tin cậy) Hệ số (95% độ tin cậy) Hệ số (95% độ tin cậy) Giới (nữ) -3,81 (-8,27; 0,65) -3,89 (-7,50; -0,28) -0,22 (-3,28; 2,83) -1,27 (-4,52; 1,98) Nhĩm tuổi (66 - 70) -1,10 (-5,59; 3,38) 1,65 (-1,98; 5,27) 1,22 (-1,85; 4,30) 1,12 (-2,14; 4,39) Học vấn dưới trung học phổ thơng -2,70 (-8,60; 3,19) -0,20 (-4,97; 4,58) 2,37 (-1,66; 6,41) -1,47 (-5,77;2,83) Nghề nơng nghiệp -5,34 (-12,72; 2,05) -3,85 (-9,81; 2,12) -1,78 (-6,87; 3,31) -2,42 (-7,79; 2,95) Sống độc thân 6,23 (-1,20; 13,66) 0,51 (-5,50;6,53) -5,92 (-11,31; -0,52) 3,46 (-1,95;8,88) Nguồn thu nhập từ cơng việc 1,78 (-5,59; 9,150 9,31 (3,37; 15,25) 2,32 (-2,71; 7,35) 3,67 (-1,67; 9,02) Nguồn thu nhập từ lương hưu/trợ cấp 1,78 (-6,64; 10,21) 10,58 (3,76; 17,40) 3,15 (-2,69; 9,00) 4,04 (-2,10; 10,17) Kinh tế nghèo -5,35 (-10,65; -0,05) -8,58 (-12,86; -4,31) -0,80 (-4,43; 2,84) -8,75 (-12,60; -4,90) X 92 TCNCYH 95 (3) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ðặc điểm Thể chất Tâm lý Xã hội Mơi trường Hệ số (95% độ tin cậy) Hệ số (95% độ tin cậy) Hệ số (95% độ tin cậy) Hệ số (95% độ tin cậy) Khơng tham gia hoạt động xã hội -1,30 (-6,12; 3,52) -1,14 (-5,04; 2,76) -2,33 (-5,65; 1,00) -0,91 (-4,43; 2,60) Khơng tập thể dục -1,82 (-6,92; 3,29) -0,62 (-4,75; 3,51) 0,65 (-2,87; 4,18) 1,47 (-2,25; 5,19) Vận động/đi lại kém -20,93 (-29,70; -12,16) -6,10 (-12,98; 0,79) -3,56 (-9,53; 2,41) -4,63 (-10,82; 1,57) Bệnh mạn tính -14,66 (-20,00; -9,32) -5,34 (-9,66; -1,02) 0,22 (-3,43; 3,87) -0,40 (-4,29; 3,49) Hằng số 70,15 (59,31; 80,99) 60,41 (51,63; 69,18) 60,04 (52,49; 67,58) 54,70 (46,80; 62,60) R2 0,32 0,30 0,07 0,20 Bảng 4 trình bày kết quả phân tích đa biến mối liên quan giữa các khía cạnh chất lượng cuộc sống của người cao tuổi với đặc điểm cá nhân, điều kiện kinh tế và tình trạng sức khoẻ của người cao tuổi. Kết quả cho thấy cĩ mối liên quan cĩ ý nghĩa thống kê giữa giới, tình trạng gia đình, nguồn thu nhập, kinh tế hộ gia đình, tình trạng sức khoẻ và chất lượng cuộc sống. Người cao tuổi là nữ giới cĩ điểm trung bình chất lượng cuộc sống về khía cạnh tâm lý thấp hơn cĩ ý nghĩa thống kê so với người cao tuổi là nam với hệ số là -3,89 (95% độ tin cậy: -7,5; -0,28). Người cao tuổi sống độc thân cĩ chất lượng cuộc sống về khía cạnh xã hội kém hơn người cao tuổi sống cùng gia đình với hệ số là -5,92 (95% độ tin cậy: - 11,31;-0,52). Người cao tuổi cĩ thu nhập từ cơng việc hiện đang làm và thu nhập từ lương hưu hoặc trợ cấp cĩ chất lượng cuộc sống về khía cạnh tâm lý tốt hơn người cĩ thu nhập nhờ người thân hoặc gia đình với hệ số lần lượt là 9,31 (95% độ tin cậy: 3,37; 15,25) và 10,58. Người cao tuổi thuộc diện nghèo tại địa phương cĩ chất lượng cuộc sống về 3 khía cạnh thể chất, tâm lý và mơi trường đều kém hơn so với người cao tuổi thuộc diện khơng nghèo với hệ số lần lượt bằng -5,35; -8,58 và -8,75. Người cao tuổi cĩ khả năng vận động hay đi lại kém cĩ chất lượng cuộc sống về khía cạnh thể chất và tâm lý kém hơn so với người cao tuổi cĩ thể đi lại bình thường với hệ số bằng -20,93. Người cao tuổi mắc bệnh mạn tính cĩ chất lượng cuộc sống về khía cạnh thể chất và tâm lý đều thấp hơn so với người cao tuổi khơng mắc bệnh mạn tính với hệ số lần lượt là -14,66 và -5,34. Chưa thấy cĩ mối liên quan cĩ ý nghĩa thống kê giữa nhĩm tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tham gia hoạt động xã hội và tập thể dục với chất lượng cuộc sống ở tất cả các khía cạnh. IV. BÀN LUẬN Chất lượng cuộc sống chung và bốn khía cạnh chất lượng cuộc sống đều cĩ điểm đạt ở mức trung bình so với thang điểm của Tổ TCNCYH 95 (3) - 2015 93 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 chức Y tế Thế giới (từ 0 - 100 điểm). Trong đĩ, điểm trung bình về lĩnh vực xã hội là cao nhất (62,1 ± 11,2 điểm), sức khỏe thể chất cĩ điểm trung bình thấp nhất (50,1 ± 10,1 điểm). Kết quả nghiên cứu của chúng tơi phù hợp với kết quả nghiên cứu khác tại Việt Nam, chất lượng cuộc sống được đánh giá ở mức độ trung bình [7]. Nghiên cứu cho thấy các yếu tố giới, tình trạng gia đình, nguồn thu nhập, điều kiện kinh tế hộ gia đình và tình trạng sức khỏe của người cao tuổi cĩ sự liên quan với chất lượng cuộc sống. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam [8; 9; 5; 10]. Nghiên cứu chưa tìm thấy sự khác biệt về chất lượng cuộc sống giữa nhĩm tuổi 60 - 65 và nhĩm 66 - 70 tuổi. Kết quả này khác với kết quả nghiên cứu của một số tác giả cho thấy cĩ mối liên quan giữa tuổi và chất lượng cuộc sống [11; 5; 9]. Sự khác biệt này cĩ thể do nghiên cứu của chúng tơi chỉ tiến hành ở những người từ 60 - 70 tuổi, trong khi các nghiên cứu khác tiến hành nghiên cứu trong độ tuổi từ 60 - 90 tuổi. Trong nghiên cứu này, người cao tuổi là nữ giới cĩ chất lượng cuộc sống kém hơn so với nhĩm người cao tuổi là nam giới. Người cao tuổi sống độc thân cĩ chất lượng cuộc sống kém hơn người cao tuổi sống cùng gia đình. Kết quả này tượng tự với kết quả các nghiên cứu khác [12; 8]. Kết quả nghiên cứu này cho thấy các can thiệp nâng cao chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi cần ưu tiên nữ giới, nhất là phụ nữ cơ đơn, khơng nơi nương tựa khi tuổi già, khi ốm đau. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy ở nhĩm người cao tuổi cĩ nguồn thu nhập ổn định từ lương hưu hoặc trợ cấp hoặc từ cơng việc cĩ chất lượng cuộc sống về khía cạnh tâm lý cao hơn nhĩm người cao tuổi khác. ðiều này cĩ thể lí giải là do những người cĩ thu nhập ổn định hàng tháng giúp cuộc sống của họ cĩ thể sẽ ổn định hơn nên cĩ điều kiện chăm sĩc sức khỏe thường xuyên và tham gia vào các hoạt động văn hĩa, xã hội nhiều hơn do đĩ chất lượng cuộc sống về tâm lý của họ tốt hơn những người cĩ thu nhập khơng ổn định. Vì vậy, các chương trình can thiệp về chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi cần ưu tiên đối tượng cĩ thu nhập khơng ổn định, điều kiện kinh tế nghèo để tăng cường kiến thức về đời sống xã hội, thái độ sống tích cực và các hành vi cĩ lợi cho sức khỏe để họ chủ động nâng cao chất lượng cuộc sống. Chất lượng cuộc sống của nhĩm người cao tuổi thuộc diện kinh tế nghèo kém hơn nhĩm người cao tuổi thuộc hộ khơng nghèo. Các nghiên cứu khác cũng đã cho thấy tầm quan trọng của điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống [5; 8; 12; 6]. Khi điều kiện kinh tế khĩ khăn, người cao tuổi phải lo lắng nhiều về thu nhập và cuộc sống hàng ngày, nên mặc dù đã hết tuổi lao động họ vẫn tham gia các hoạt động kinh tế ở các mức độ khác nhau nhằm cải thiện điều kiện sống của bản thân và gia đình, do đĩ họ ít cĩ điều kiện chăm sĩc sức khỏe thường xuyên, hạn chế tham gia các hoạt động văn hĩa, xã hội ở địa phương. Kết quả nghiên cứu cho thấy cĩ mối liên quan giữa khả năng vận động và mắc bệnh mạn tính của người cao tuổi với chất lượng cuộc sống. Với những người cao tuổi cĩ khả năng đi lại bình thường, khơng mắc bệnh mạn tính cĩ chất lượng cuộc sống tốt hơn nhĩm người cao tuổi bị hạn chế về vận động, người cao tuổi mắc bệnh mạn tính. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu khác trên thế giới [13; 10]. Khả năng vận động bị hạn chế, mắc bệnh mạn tính sẽ làm cho người cao tuổi trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào người thân trong gia đình, nảy sinh tâm lý 94 TCNCYH 95 (3) - 2015 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC buồn chán, thất vọng và lối sống thiếu tích cực, người cao tuổi giảm cơ hội tham gia các hoạt động xã hội. Nghiên cứu này chưa tìm thấy mối liên quan giữa việc tham gia hoạt động xã hội của người cao tuổi và chất lượng cuộc sống. Trong khi các nghiên cứu đã chỉ ra việc tham gia các hoạt động xã hội cĩ tác động tích cực đến chất lượng cuộc sống của người cao tuổi [10]. Các hoạt động xã hội ở địa phương cĩ thể làm cho đời sống tinh thần của người cao tuổi được thoải mái, vui vẻ, tạo được nhiều mối quan hệ với mọi người xung quanh, được cộng đồng quan tâm, giúp đỡ sẽ cải thiện được chất lượng cuộc sống. Sự khác biệt này cĩ thể do nghiên cứu của chúng tơi chưa lượng hĩa mức độ tham gia họat động xã hội của người cao tuổi vì vậy cần tiến hành nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này. V. KẾT LUẬN Cĩ mối liên quan cĩ ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố về giới, sống độc thân, nguồn thu nhập, điều kiện kinh tế gia đình, khả năng vận động và mắc bệnh mạn tính với chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Người cao tuổi là nữ giới, khơng cĩ nguồn thu nhập chủ động ổn định cĩ chất lượng cuộc sống về tâm lý kém hơn nam giới, người cao tuổi cĩ thu nhập chủ động từ cơng việc hoặc lương hưu, trợ cấp. Người cao tuổi sống độc thân cĩ chất lượng cuộc sống về xã hội kém hơn người cao tuổi sống cùng gia đình. Người cao tuổi cĩ kinh tế nghèo cĩ chất lượng cuộc sống về thể chất, tâm lý, xã hội kém hơn người cao tuổi cĩ kinh tế khơng nghèo. Người cao tuổi khả năng vận động hạn chế cĩ chất lượng cuộc sống về thể chất kém hơn người cao tuổi cĩ khả năng vận động bình thường. Người cao tuổi mắc bệnh mạn tính cĩ chất lượng cuộc sống về thể chất, tâm lý kém hơn người cao tuổi khơng mắc bệnh mạn tính. Khuyến nghị Các chương trình can thiệp nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cần ưu tiên cho những người cao tuổi là nữ giới, sống độc thân, khơng cĩ nguồn thu nhập chủ động, điều kiện kinh tế khĩ khăn. Khuyến khích người cao tuổi tích cực tham gia các hoạt động xã hội tại cộng đồng nơi họ sinh sống. Lời cảm ơn Nhĩm tác giả xin trân trọng cảm ơn người dân, các điều tra viên và các cán bộ y tế của xã Trung Lương đã tham gia trả lời phỏng vấn và giúp đỡ chúng tơi hồn thành nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. The World Health Organization quality of life assessment (WHOQOL) (1995). Possition paper from the World Health Organization. Social Science & Medicine, 41 (10), 1403 - 1409. 2. Tamilyn Bakas, Susan M McLennon, Janet S Carpenter và cs (2012). Systematic review of health-related quality of life models. Health and Quality of Life Outcomes, 10, 134. 3. Nguyen Thanh Huong, Le Thi Hai Ha, Nguyen Thai Quynh Chi et al (2012). Exploring quality of life among the elderly in Hai Duong province, Vietnam: a ruralurban dialogue. Glob Health Action, 5, 8874. 4. Gopalakrishnan Netuveli và David Blane (2008). Quality of life in older ages. British Medical Bulletin, 85, 113 - 126. 5. Maryam Tajvar, Mohammad Arab và Ali Montazeri (2008). Determinants of health- related quality of life in elderly in Tehran, Iran. BMC Public Health, 8(323), 1186/1471 - 2458- 8 - 323. TCNCYH 95 (3) - 2015 95 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2015 6. Melvin Khee-Shing Leow, Konstadina Griva, Robin Choo et al (2013). Determinants of Health-Related Quality of Life (HRQoL) in the Multiethnic Singapore Population – A National Cohort Study. PLoS ONE, 8(6), e67138. 7. Ninh Thi Ha, Hoa Thi Duy, Ninh Hoang Le và cộng sự (2014). Quality of life among people living with hypertention in a rural Vietnam community. BMC Public Health, 14 (833). 8. Hoang Van Minh, Nawi Ng, Peter Byass và cộng sự (2012). Patterns of subjective quality of life among older adults in rural Vietnam and Indonesia. Geriatr Gerontol Int, 12, 397 - 404. 9. Le Van Hoi, Nguyen Thi Kim Chuc và Lars Lindholm (2010). Health-related quality of life, and its determinants, among older people in rural Vietnam BMC Public Health, 10, 549. 10. Oye Gureje, Lola Kola, Ebenezer Afolabi et al (2008). Determinants of quality of life of elderly Nigerians: results from the Ibadan Study of Ageing Afr J Med Med Sci, 37 (3), 239 - 247. 11. Hoang Van Minh, Peter Byass, Nguyen Thi Kim Chuc và cs (2010). Patterns of health status and quality of life among older people in rural Viet Nam Global Health Action, 2(10), 3402/gha.v3i0.2124). 12. Nawi Ng, Mohammad Hakimi, Peter Byass et al (2010). Health and quality of life among older rural people in Purworejo District, Indonesia Global Health Action, 2, 10.3402/gha.v3i0.2125. 13. Siti Setiati, Kuntjoro Harimurti, Esthika Dewiasty et al (2011). Predictors and Scoring System for Health-related Quality of Life in an Indonesian Community - Dwelling Elderly Population. Acta Med Indones-Indones 43(4), 237 - 242. Summary DETERMINANTS OF QUALITY OF LIFE OF ELDERLY PEOPLE IN TRUNG LUONG COMMUNE, BINH LUC DISTRICT, HANAM PROVINCE Vietnam officially entered the stage of aging; however there are still many challenges in improving the quality of life of elderly people. The cross-sectional study was conducted. The study was to describe a number of factors related to the quality of life of elderly people in Trung Luong commune, Binh Luc district, Ha Nam province in 2014. The study results showed that there was an association between factors such as gender, living alone, source of income, family economic conditions, mobility and chronic diseases and the quality of life of the elder. Elderly women and those with no stable income had worse psychological quality of life than men or those with active income from work or pension. Elder living in poverty, living alone, with limited mobility, and chronic diseases had a poorer quality of life. The intervention program to improve the quality of life should be prioritized for the elderly who are women, with no stable income, or living in poor economic conditions. Keywords: elderly, quality of life, related factors

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf170_407_1_sm_4798_2182666.pdf