Tài liệu Một số vấn đề xã hội nan giải trong quá trình đổi mới tam nông Việt Nam: Xã hội học số 4 - 2007 11
Một số vấn đề xã hội nan giải
trong quá trình đổi mới tam nông Việt Nam
Tô Duy Hợp
Dẫn luận
Công cuộc đổi mới nông thôn, nông nghiệp, nông dân, được gọi chung là tam nông đã
đạt được nhiều thành tích to lớn. Thành tựu to lớn nhất là sau 20 năm đổi mới, cùng với cả nước,
tam nông Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trong các thập niên 70 và 80 của thế
kỷ XX vừa qua (ĐCSVN, 2006:67); Ngoài ra, tam nông Việt Nam còn đạt được nhiều thành tích
quan trọng sau đây:
- Mức sống bình quân của dân cư nông thôn sau 10 năm đổi mới (1991 - 2000) đã tăng
lên gấp đôi, có khả năng sau 10 năm tiếp theo (2001 - 2010) cũng sẽ tăng gấp đôi hoặc hơn gấp
đôi.
- Giảm liên tục tỷ lệ số hộ và số người nghèo ở nông thôn
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, với các yếu tố cơ bản như điện, đường, trường học,
trạm y tế, khu nhà ở, khu chợ, khu sinh hoạt văn hóa cộng đồng đã được nâng cấp theo hướng
hiện đại hóa.
- Các dịch vụ xã hội cơ bản như...
16 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 694 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề xã hội nan giải trong quá trình đổi mới tam nông Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 4 - 2007 11
Một số vấn đề xã hội nan giải
trong quá trình đổi mới tam nông Việt Nam
Tô Duy Hợp
Dẫn luận
Công cuộc đổi mới nông thôn, nông nghiệp, nông dân, được gọi chung là tam nông đã
đạt được nhiều thành tích to lớn. Thành tựu to lớn nhất là sau 20 năm đổi mới, cùng với cả nước,
tam nông Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trong các thập niên 70 và 80 của thế
kỷ XX vừa qua (ĐCSVN, 2006:67); Ngoài ra, tam nông Việt Nam còn đạt được nhiều thành tích
quan trọng sau đây:
- Mức sống bình quân của dân cư nông thôn sau 10 năm đổi mới (1991 - 2000) đã tăng
lên gấp đôi, có khả năng sau 10 năm tiếp theo (2001 - 2010) cũng sẽ tăng gấp đôi hoặc hơn gấp
đôi.
- Giảm liên tục tỷ lệ số hộ và số người nghèo ở nông thôn
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, với các yếu tố cơ bản như điện, đường, trường học,
trạm y tế, khu nhà ở, khu chợ, khu sinh hoạt văn hóa cộng đồng đã được nâng cấp theo hướng
hiện đại hóa.
- Các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, y tế cơ sở và CSSK
cộng đồng đã được chăm lo đầu tư phát triển, đạt được nhiều tiến bộ.
- Chất lượng cuộc sống được cải thiện; đời sống văn hóa tinh thần được nâng cao, đặc
biệt là phong trào khôi phục, phát huy văn hóa truyền thống thông qua sinh hoạt dòng họ, lễ hội
làng,...
- Năng lực quản lý của nhà nước địa phương (tỉnh, huyện) và của chính quyền cơ sở (xã,
thôn) đã được đổi mới theo định hướng xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp để chuyển
sang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Khôi phục và phát huy năng lực tự quản cộng đồng làng - xã theo tinh thần mở rộng dân
chủ hóa, lồng ghép việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở do chính phủ ban hành (với các quy định
cụ thể về việc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra) với việc thực hiện hương ước đã được đổi
mới của cộng đồng làng - xã.
Tuy nhiên, trong tiến trình đổi mới, ở khu vực tam nông đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội
bức xúc, nan giải. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ đề cập một số vấn đề xã hội nan giải
trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Trước hết cần làm rõ
tình trạng bức xúc, nan giải của các vấn đề xã hội nảy sinh, sau đó sẽ bàn về quan điểm định
hướng các giải pháp khắc phục các vấn đề đó đối với khu vực tam nông.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Mét sè vÊn ®Ò x· héi nan gi¶i trong qu¸ tr×nh ®æi míi tam n«ng ViÖt Nam 12
I. Thực trạng tình hình một số vấn đề nan giải
1.1 Khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội gia tăng
• Tính bức xúc của vấn đề
Thu nhập và chi tiêu bình quân đầu người gia tăng liên tục, tuy nhiên ở khu vực đô thị
vẫn ở dưới 02 USD/ngày, khu vực nông thôn dưới 01 USD/ngày và chung cả nước chỉ ở mức xấp
xỉ 01 USD/ngày; nghĩa là Việt Nam vẫn thuộc nước nghèo theo chuẩn quốc tế.
Bảng 1. Chênh lệch mức sống giữa đô thị/nông thôn (TCTK, 2006)
1999 2002 2004
Thu nhập bình quân đầu người/tháng
Chung cả nước (1.000đ) 295,0 356,1 484,4
Đô thị (1.000đ) 516,7 622,1 815,4
Nông thôn (1.000đ) 225,0 275,1 378,1
Chênh lệch đô thị/nông thôn (lần) 2,30 2,26 2,16
Chi tiêu bình quân đầu người/tháng
Chung cả nước (1.000đ) 221,1 269,1 359,7
Đô thị (1.000đ) 373,4 460,8 595,4
Nông thôn (1.000đ) 175,0 211,1 283,5
Chênh lệch đô thị/nông thôn (lần) 2,13 2,18 2,10
Chênh lệch mức sống giữa đô thị/nông thôn diễn tiến phức tạp. Nhìn chung mức sống
trung bình của đô thị cao hơn gấp đôi so với khu vực nông thôn. Tuy nhiên, chênh lệch thu nhập
bình quân người/tháng giữa đô thị và nông thôn có xu hướng thu hẹp liên tục từ 2,30 lần (1999)
xuống 2,26 lần (2002) và còn 2,16 lần (2004). Trong khi đó, chênh lệch chi tiêu người/tháng có
xu hướng gia tăng từ 2,13 lần (1999) lên 2,18 lần (2002) và xuống còn 2,10 lần (2004). Nếu so
với năm 1999 thì có xu hướng thu hẹp, nhưng không liên tục.
Tình trạng bất bình đẳng được đo lường qua hệ số Gini theo thu nhập. Tính chung cho cả
nước Việt Nam, giá trị của hệ số Gini gia tăng liên tục: 0,37 (1996), 0,39 (1999), 0,42 (2002),
0,423 (2004). Mức độ bất bình đẳng ở khu vực đô thị bao giờ cũng cao hơn so với khu vực nông
thôn.
Hệ số Gini ở khu vực đô thị giữ nguyên giá trị 0,41 qua các năm 1999, 2002, 2004; trong
khi đó, ở khu vực nông thôn gia tăng liên tục: 0,34 (1999), 0,36 (2002), 0,37 (2004). Điều đó
chứng tỏ mức độ bất bình đẳng gia tăng liên tục trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
Chênh lệch giàu - nghèo chia theo 5 nhóm (20%) tính chung cả nước gia tăng liên tục từ
7,6 lần (1999) lên 8,1 lần (2002) và 8,3 lần (2004). Nếu chia theo 10 nhóm (10%) thì: 12 lần
(1999), 13,7 lần (2002), 14,4 lần (2004).
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
T« Duy Hîp 13
Bảng 2. Chênh lệch giàu - nghèo chia theo các nhóm xã hội và theo khu vực xã hội (TCTK, 2006)
Khu vực xã hội Chia theo các nhóm xã hội 2002 (lần) 2004 (lần)
Chia theo 5 nhóm (20%) 8,0 8,1 Đô thị
Chia theo 10 nhóm (10%) 13,9 14,1
Chia theo 5 nhóm (20%) 6,0 6,4 Nông thôn
Chia theo 10 nhóm (10%) 9,4 10,4
Số liệu bảng 2 cho thấy rõ mức độ gia tăng chênh lệch giàu - nghèo tại khu vực nông thôn
cao hơn so với tại khu vực đô thị. Nếu chia theo 5 nhóm (20%) thì mức chênh lệch giàu - nghèo
tại nông thôn năm 2004 tăng hơn 0,4 lần so với năm 2002; trong khi đó tại đô thị chỉ tăng 1,0 lần.
Nếu chia theo 10 nhóm (10%) thì mức chênh lệch giàu - nghèo tại nông thôn năm 2004 tăng hơn
1 lần so với năm 2002; trong khi đó tại khu vực đô thị chỉ tăng hơn 0,2 lần.
Mức độ giảm nghèo chung của Việt Nam diễn tiến liên tục, tỷ lệ nghèo chung theo chuẩn
của World Bank và TCTK Việt Nam (2006) từ 58,1% (1993) xuống còn 37,4% (1998), 28,9%
(2002) và còn 19,5% (2004). Tuy nhiên do khu vực đô thị giảm nghèo nhanh hơn so với khu vực
nông thôn; cho nên chênh lệch về tỷ lệ nghèo giữa đô thị và nông thôn có chiều hướng gia
tăng liên tục.
Bảng 3. Tỷ lệ nghèo chung và chênh lệch tỷ lệ nghèo nông thôn/đô thị (TCTK, 2006)
1993 1998 2002 2004
Đô thị (%) 25,1 9,2 6,6 3,6
Nông thôn (%) 66,4 45,5 35,6 25,0
Chênh lệch tỷ lệ nghèo nông thôn/đô thị (lần) 2,65 4,95 5,40 6,94
• Tính nan giải của vấn đề
Xu hướng phân hóa giàu - nghèo gia tăng trong nội bộ khu vực nông thôn và đặc biệt là
giữa nông thôn với đô thị là một vấn đề rất nan giải do tình trạng lẩn quẩn của sự đói nghèo.
Người nghèo thì sức khỏe yếu kém, học vấn thấp, trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp kém, dễ bị
tổn thương, không có năng lực tham gia, bị cô lập, bị loại trừ. Văn hóa nghèo tái tạo xã hội
nghèo.
Bất bình đẳng, đặc biệt là bất bình đẳng cơ hội giữa nam giới và nữ giới, giữa dân tộc đa
số với dân tộc thiểu số, giữa các khu vực và vùng, miền đang gia tăng cũng là vấn đề nan giải do
khu vực tam nông rơi vào tình trạng “lực bất tòng tâm”: tình trạng thiếu các nguồn lực giảm
nghèo và thiếu năng lực thoát nghèo làm cho công cuộc xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu ở khu vực
tam nông bị hạn chế và thua thiệt rất nhiều so với khu vực đô thị. Tình trạng đa số người vừa
thoát nghèo vẫn ở xung quanh cận nghèo tạo ra tính thiếu bền vững của công cuộc xoá đói, giảm
nghèo.
1.2 Tình trạng thiếu việc làm gia tăng
• Tính bức xúc của tình hình
Lao động thiếu việc làm ở khu vực nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 86% (Lưu Đạt Thuyết,
2004). Thời gian làm việc được sử dụng ở nông thôn chỉ đạt 86,65% (TCTK, 2005). Tình trạng
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Mét sè vÊn ®Ò x· héi nan gi¶i trong qu¸ tr×nh ®æi míi tam n«ng ViÖt Nam 14
thiếu việc làm trầm trọng nhất ở các cộng đồng làng - xã và các vùng nông thôn nông nghiệp tự
cung tự cấp hoặc thiếu năng lực thị trường. Thực ra thì người dân nông thôn không hoàn toàn
thiếu việc làm (theo nghĩa thất nghiệp hoàn toàn), tính bức xúc của vấn đề thiếu việc làm ở khu
vực tam nông chính là ở chỗ tại chỗ không có việc làm thu nhập cao đủ đảm bảo nhu cầu nâng
cao chất lượng cuộc sống chứ không chỉ là nhu cầu mưu sinh, xóa đói và giảm nghèo.
Tại những vùng, khu vực đang có những dự án chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp để phục vụ cho việc phát triển những khu công nghiệp hoặc khu đô thị mới, nông dân
vùng này rơi vào tình trạng thiếu việc làm hoặc thất nghiệp do họ chưa kịp chuyển đổi nghề
nghiệp. Tính bức xúc của tình trạng này đang gia tăng, do công cuộc ĐTH, CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn đang được đẩy mạnh trên quy mô cả nước, nhất là ở các vùng ven đô thị.
Tình trạng nông dân mất đất canh tác cùng với tình trạng thiếu việc làm có thu nhập cao tại
khu vực nông thôn nông nghiệp đã làm trầm trọng thêm sự chênh lệch giàu - nghèo giữa các nhóm xã
hội và đặc biệt là giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn.
• Tính nan giải của vấn đề
Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động - nghề nghiệp diễn tiến chậm chạp, chưa thấy dấu
hiệu đột biến. Tỷ trọng lao động nông - lâm - ngư nghiệp vẫn còn cao: 56,8% (TCTK, 2005).
Chất lượng nguồn nhân lực thấp kém. Tính chung cả nước mới chỉ có 24,8% lao động được đào
tạo chuyên môn kỹ thuật (TCTK, 2005), trong đó phần lớn lại là chuyên môn, kỹ thuật sơ cấp.
ở khu vực nông thôn, tình trạng còn dưới mức trung bình quốc gia về đào tạo chuyên môn, kỹ
thuật. Nguồn lao động không được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật thường thiếu việc làm, thậm chí thất
nghiệp. Họ buộc phải chấp nhận việc làm có thu nhập thấp và không ổn định. Và không thoát ra khỏi cái
vòng lẩn quẩn này: thiếu việc làm và thất nghiệp gia tăng → tỷ lệ nghèo gia tăng → thiếu việc làm và
thất nghiệp gia tăng....
1.3 Tình trạng di dân tự phát tăng mạnh
• Tính bức xúc của tình hình
Dòng di dân nông thôn - nông thôn, nhất là từ nông thôn miền núi phía Bắc, đồng
bằng sông Hồng, duyên hải miền Trung đến nông thôn Tây Nguyên và di dân nông thôn - đô
thị, đặc biệt là từ các vùng nông thôn khắp cả nước đến thành phố Hồ Chí Minh và thành phố
Hà Nội ngày càng gia tăng vượt ra ngoài tầm kiểm soát của nhà nước. Phương thức di dân
chủ yếu là tạm thời với mục tiêu chủ yếu là tìm việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo
và tích lũy làm giàu cho gia đình ở quê hương.
Dòng di dân tự phát nông thôn - đô thị đã làm nảy sinh nhiều vấn đề nan giải tại nơi ra đi
cũng như tại nơi đến. Tại nơi ra đi, tức là tại khu vực nông thôn, các hộ gia đình không còn năng
lực tinh nhuệ của lao động trẻ, khỏe vì họ đã vào đô thị kiếm sống, cộng đồng làng - xã thiếu
nguồn nhân lực để xây dựng nông thôn mới. Còn tại nơi đến, tức là tại các đô thị, dòng di dân gia
tăng đã tạo ra sự quá tải của đô thị, ngoài ra, còn góp phần gia tăng tệ nạn xã hội như mãi dâm,
ma túy, mất trật tự và tai nạn giao thông trên đường phố,v..v...
• Tính nan giải của vấn đề
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
T« Duy Hîp 15
Sức hút rất mạnh của khu vực đô thị - công nghiệp cộng với lực đẩy của khu vực nông
nghiệp - nông thôn khiến cho cả nhà nước và xã hội dân sự đều không thể kiềm chế dòng di dân
tự phát đang gia tăng mạnh.
Tính nan giải của vấn đề còn thể hiện ở tình trạng lợi bất cập hại. Đối với người dân nông
thôn lựa chọn di cư tự phát, trong trường hợp vào đô thị kiếm việc làm, tăng thu nhập lúc nông nhàn
rõ ràng là có lợi trước mắt, bởi vì tối thiểu thu nhập tại đô thị cũng gấp đôi thu nhập tại nông thôn.
Tuy nhiên phải chấp nhận một số thiệt hại đối với gia đình (không chăm sóc thường xuyên gia đình
trừ việc gửi tiền về hỗ trợ gia đình) và cả đối với cộng đồng (không đóng góp thường xuyên cho công
cuộc xây dựng quê hương và phát triển nông thôn - nông nghiệp). Đối với khu vực đô thị, người dân
đô thị cũng có lợi. Bởi vì những công việc họ không thích làm hoặc ngại làm đã có người nông thôn di
cư ra đô thị làm thay cho họ (nội trợ, lao động chân tay nặng nhọc, các loại dịch vụ xã hội giản đơn,
các công việc có chất gây độc hại,...). Nhưng khu vực đô thị cũng phải gánh chịu một số hậu quả
không mong muốn, như những rắc rối trong quản lý đô thị, những tệ nạn xã hội hoặc tội phạm nảy
sinh do người dân di cư vào đô thị làm gia tăng thêm, sự quá tải của dịch vụ đô thị (giao thông đường
phố, y tế, v.v...).
1.4 Tình trạng dân trí thấp
• Tính bức xúc của tình hình
Tỷ lệ mù chữ đã giảm mạnh trong thời kỳ đổi mới. Tính chung cả nước, từ 10 tuổi trở
lên, tỷ lệ mù chữ từ 7,9% (2002) đã giảm xuống còn 7% (2004). Khoảng cách chênh lệch về tỷ lệ
mù chữ giữa đô thị và nông thôn, giữa nam và nữ có xu hướng thu hẹp dần lại, tuy nhiên tỷ lệ mù
chữ ở khu vực nông thôn vẫn cao hơn so với ở khu vực đô thị, đặc biệt là đối với giới nữ.
Tình trạng “nút cổ chai giáo dục phổ thông” chứng tỏ khả năng tiếp cận giáo dục bậc cao
bị hạn chế hơn nhiều so với bậc học thấp và đối với dân nông thôn, dân nghèo và dân tộc thiểu số
thì tình trạng đó trầm trọng hơn rất nhiều so với dân đô thị, dân giàu và dân tộc Kinh.
Bảng 4. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên mù chữ chia theo đô thị/nông thôn (TCTK, 2006)
%
2002 2004 Chung cả nước
Nam Nữ
Chung cả nước
Nam Nữ
Đô thị 4,0 2,3 5,7 3,7 1,9 4,0
Nông thôn 9,1 5,7 12,3 8,1 4,8 9,1
Chung cả nước 7,9 4,9 10,7 7,0 4,1 9,8
Tỷ lệ dân số 15 tuổi biết chữ được xem xét theo bằng cấp cao nhất ở khu vực đô thị cao
gấp nhiều lần so với khu vực nông thôn. 88% dân số trên 14 tuổi ở khu vực nông thôn có trình độ
dưới trung học phổ thông. Trong 10.000 dân cư chỉ có 1 người có trình độ đại học ở nông thôn,
trong khi đó ở đô thị là 31 người.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Mét sè vÊn ®Ò x· héi nan gi¶i trong qu¸ tr×nh ®æi míi tam n«ng ViÖt Nam 16
Bảng 5. Tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên biết chữ chia theo bằng cấp cao nhất năm 2002 (TCTK, 2006)
%
Bằng cấp cao nhất Chung
Chưa
bao giờ
đến
trường
Không
có bằng
cấp
Tốt
nghiệp
tiểu học
Tốt
nghiệp
THCS
Tốt
nghiệp
THPT
Công
nhân kỹ
thuật
THCN CĐ, ĐH Trên ĐH
Đô thị 100,0 4,12 12,28 21,49 25,03 18,40 3,35 5,54 9,49 0,31
Nông
thôn
100,0 9,05 22,14 28,05 28,47 8,08 0,85 1,95 1,40 0,01
Chung cả
nước
100,0 7,81 19,67 26,40 27,61 10,67 1,47 2,85 3,42 0,09
Chênh lệch
ĐT/NT (lần)
0,46 0,55 0,77 0,88 2,28 3,9 2,8 6,8 31,0
Trình độ của cán bộ ở nông thôn cũng còn thấp. Trình độ học vấn chung của cán bộ cơ
sở xã/thôn không vượt quá trung học phổ thông, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chủ yếu là sơ
cấp, trừ một số chức danh chủ chốt (Chủ tịch UBND xã, Bí thư đảng ủy xã) được đào tạo trung
cấp hoặc đại học tại chức.
Thiếu hụt nhất là tri thức và thông tin khoa học hiện đại được chuyển giao một cách có hệ
thống, ngoại trừ một số tri thức và thông tin khoa học được tiếp nhận qua các kênh thông tin đại
chúng (truyền hình, truyền thanh, báo chí,...) một cách đơn giản hóa, rời rạc hoặc chắp vá.
• Tính nan giải của vấn đề
Thiết chế và dịch vụ giáo dục, đào tạo có nhiều thành tích về số lượng, song chất lượng thấp,
hiệu quả kém. “Chất lượng giáo dục còn nhiều yếu kém;... phát triển giáo dục nghề nghiệp và giáo dục
đại học chưa cân đối với giáo dục trung học phổ thông. Đào tạo nghề còn thiếu về số lượng và yếu về
chất lượng. Việc xã hội hóa giáo dục được thực hiện chậm, thiếu đồng bộ. Công tác giáo dục và đào tạo
ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, chất lượng thấp; chưa quan tâm đúng mức phát triển giáo dục
và đào tạo ở ĐBSCL, để giáo dục và đào tạo của vùng này tụt hậu kéo dài so với các vùng khác trong cả
nước. Công tác quản lý giáo dục, đào tạo chậm đổi mới và còn nhiều bất cập. Thanh tra giáo dục còn
nhiều yếu kém; những hiện tượng tiêu cực như bệnh thành tích, thiếu trung thực trong đánh giá kết quả
giáo dục, trong học tập, tuyển sinh, thi cử, cấp bằng và tình trạng học thêm, dạy thêm tràn lan kéo dài,
chậm được khắc phục” (ĐCSVN, 2006:170-171).
Sự bất cập giữa thành tích gia tăng số lượng với sự thấp kém về chất lượng và hiệu quả
giáo dục, đào tạo chính thức, chính quy là nguồn gốc của tình trạng nghịch lý giữa bằng cấp và
năng lực nâng cao mức sống trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo và làm giàu trên phạm vi cả
nước nói chung, tại khu vực nông thôn nói riêng.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
T« Duy Hîp 17
Bảng 6. Tỷ lệ % dân số 15 tuổi trở lên biết chữ chia theo bằng cấp cao nhất và theo nhóm mức sống (TCTK, 2002)
%
Bằng cấp cao nhất Chung
Chưa
bao giờ
đến
trường
Không
có bằng
cấp
Tốt
nghiệp
tiểu học
Tốt
nghiệp
THCS
Tốt
nghiệp
THPT
Công
nhân kỹ
thuật
THCN CĐ, ĐH Trên
ĐH
Nhóm 1 100,0 11,77 21,74 27,42 27,01 7,38 1,02 1,88 1,71 0,06
Nhóm 2 100,0 9,33 20,83 26,70 28,42 8,64 1,29 2,42 2,32 0,06
Nhóm 3 100,0 7,78 20,25 26,68 28,26 10,00 1,40 2,87 2,79 0,07
Nhóm 4 100,0 6,22 19,26 26,28 27,92 11,65 1,56 3,24 3,80 0,07
Nhóm 5 100,0 5,00 16,96 25,24 26,63 14,58 1,97 3,58 5,90 0,16
Bảng 6 cho thấy một tỷ lệ đáng kể của nhóm giàu nhất có trình độ học vấn tiểu học
(25,24%), thậm chí không có bằng cấp (16,96%) hoặc chưa bao giờ đến trường (5%). Trong khi
đó, trong nhóm nghèo nhất cũng có tới 7,38% tốt nghiệp THPT, 1,71% có trình độ CĐ, ĐH và
0,06% trình độ trên ĐH! ở khu vực nông thôn, tại các làng nghề có rất nhiều chủ hộ gia đình hoặc
chủ doanh nghiệp nông thôn tuy không học phổ thông, hoặc bỏ học phổ thông trung học, nhưng
làm giàu rất nhanh; trong khi đó có người trình độ cao đẳng, đại học nhưng thu nhập thấp, thậm
chí thất nghiệp nếu không tích cực tìm kiếm việc làm tại chỗ hoặc ở chỗ khác.
Có một sự bất cập giữa giá trị biểu trưng rất được nhà nước đề cao: trình độ học vấn với
bằng cấp cao và giá trị thực dụng được cộng đồng làng - xã coi trọng: trình độ tay nghề được tích
lũy qua kinh nghiệm bản thân và tri thức bản địa được chuyển giao qua cơ chế vừa làm vừa học
của người lao động.
Một trong những thách thức to lớn đối với khu vực nông thôn là sức ép trong chi tiêu cho giáo
dục: các khoản chi cho trường lớp, quần áo đồng phục, sách giáo khoa, dụng cụ học tập đều có tỷ lệ
cao hơn so với ở đô thị: các con số so sánh tương ứng giữa nông thôn/đô thị là: 12,5% so với 9,0%;
9,0% so với 6,0%; 13,3% so với 8,9%; 10,8% so với 5,8%. Tỷ lệ chi cho học phí và học thêm ở khu
vực nông thôn thấp hơn so với ở đô thị: 40% so với 60% (TCTK, 2004). Tuy nhiên, nếu so với năm
2002 thì khu vực nông thôn chi tăng hơn cho học phí là 55,8%, trong khi đó ở đô thị chi tăng hơn
35,5%. Tình trạng chi cho học thêm cũng vậy, khu vực nông thôn chi tăng hơn 24,8% so với đô thị
giảm đi 10,1% (do chính sách cấm dạy thêm, học thêm của Bộ Giáo dục - Đào tạo được triển khai
mạnh ở khu vực đô thị). Thực ra ở khu vực đô thị đã xuất hiện tình trạng các hộ gia đình thuê gia sư
dạy thêm tại nhà, khoản này có thể đã không được khai báo.
1.5 Tình trạng dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ (CSSK) yếu kém
• Tính bức xúc của tình hình
“Công tác bảo vệ và CSSK nhân dân còn nhiều bất cập. Hệ thống y tế chậm đổi mới, chất
lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân; điều kiện chăm sóc y
tế cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế. Bệnh dịch
HIV/AIDS tiếp tục gia tăng. Đầu tư nhà nước và huy động nguồn lực xã hội cho phát triển y tế
chưa đáp ứng yêu cầu và hiệu quả chưa cao. Quản lý hoạt động khám, chữa bệnh và hành nghề y,
dược tư nhân kém hiệu quả. Năng lực sản xuất và cung ứng thuốc còn yếu; quản lý thị trường
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Mét sè vÊn ®Ò x· héi nan gi¶i trong qu¸ tr×nh ®æi míi tam n«ng ViÖt Nam 18
thuốc chữa bệnh có nhiều thiếu sót. Vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát
chặt chẽ. Chính sách đào tạo và sử dụng cán bộ y tế còn nhiều bất cập; đội ngũ cán bộ y tế thiếu
và yếu, cơ cấu bất hợp lý; những việc làm vi phạm đạo đức nghề nghiệp chậm được khắc phục”
(ĐCSVN, 2006:173-174).
So với khu vực đô thị, khu vực nông thôn vẫn thua thiệt rất nhiều trong tiếp cận dịch vụ y tế
và chăm sóc sức khỏe. Sự quá tải của các bệnh viện, trung tâm y tế tuyến trung ương (công suất sử
dụng giường bệnh 130%) và cả tuyến tỉnh (công suất sử dụng giường bệnh 114%) theo Báo cáo Y tế
Việt Nam của Bộ Y tế (2006) chứng tỏ rằng chất lượng và hiệu quả dịch vụ y tế tuyến xã và huyện
không đáp ứng nhu cầu CSSK người dân nông thôn, đặc biệt là người dân thuộc nhóm mức sống giàu
nhất và cận giàu nhất.
Mặt khác, sự thua thiệt lớn nhất thuộc về người dân nông thôn thuộc nhóm nghèo (họ
chiếm 90% người nghèo của cả nước). Do không có năng lực mua dịch vụ CSSK giá cao ở các
tuyến tỉnh và trung ương; họ phải nương nhờ vào y tế cơ sở. Trong khi đó y tế cơ sở, trước hết là
trạm y tế xã chỉ có năng lực CSSK ban đầu, mà “việc đầu tư cho công tác CSSK ban đầu nói chung
vẫn còn thấp so với nhu cầu” (Bộ Y tế, 2006:324). Về khám chữa bệnh “hiện nay y tế tư nhân phát
triển (cả đông và tây y) nên số lượng bệnh nhân đến trạm y tế có thể giảm ở vùng đồng bằng và
thành phố. Nhưng ở miền núi, vùng xa, vùng sâu người bệnh vẫn đến chữa bệnh ở trạm y tế xã là
chủ yếu. Phần lớn người hành nghề y tế tư nhân ở xã, phường là những người hành nghề cá thể, cơ
sở vật chất không đầy đủ, chất lượng điều trị còn hạn chế... Sự tham gia của y tế tư nhân vào công
tác phòng bệnh tại cộng đồng vẫn còn yếu, chưa có sự liên kết chặt chẽ với trạm y tế xã như quy
định của nhà nước” (Bộ Y tế, 2006:320).
Sự khác biệt về tình trạng sức khỏe giữa các nhóm thu nhập và giữa các vùng, miền vẫn
còn là vấn đề lớn: “Năm 2001, suy dinh dưỡng ở trẻ em từ 5 tuổi trở xuống của nhóm nghèo còn
cao gấp 4 lần so với nhóm giàu (khoảng 40% của nhóm nghèo so với khoảng 10% của nhóm
giàu), tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi của nhóm nghèo cao gần 2 lần nhóm giàu, và gần như ít
thay đổi qua các năm. Năm 2004, tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi ở vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Tây
Nguyên cao hơn khoảng 3 lần so với vùng Đông Nam bộ; ở nông thôn cao hơn thành thị 2 lần,
dân tộc H’Mông và Gia Rai cao hơn khoảng 3 lần.
Tuổi thọ trung bình ở các vùng, các dân tộc cũng khác nhau, dân tộc Kinh, Hoa có tuổi
thọ cao hơn so với các dân tộc thiểu số, dân ở vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ có
tuổi thọ cao hơn so với các vùng khác (chênh nhau 4 tuổi)” (Bộ Y tế, 2006:316).
• Tính nan giải của vấn đề
Người dân nông thôn, đặc biệt là thuộc nhóm nghèo và cận nghèo thường ở vào tình
trạng “lực bất tòng tâm”, thiếu hụt hoặc thậm chí không có nguồn lực tài chính để chi trả dịch vụ
y tế chất lượng cao, không đủ tiền mua bảo hiểm y tế. Cái vòng lẩn quẩn của sự nghèo đói bao
hàm cả tình trạng sức khỏe yếu kém và không đủ nguồn lực chi trả dịch vụ CSSK.
Các cơ sở y tế tuyến xã và cả tuyến huyện vừa thiếu trang thiết bị hiện đại, vừa thiếu cán
bộ y tế có trình độ chuyên môn cao, do đó, không đáp ứng được nhu cầu khám, chữa bệnh của
người dân địa phương và họ buộc phải vượt tuyến, nhưng khi vượt lên tuyến tỉnh và trung ương
thì người dân nông thôn lại rơi vào tình trạng “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”, có nhiều khi tiền mất,
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
T« Duy Hîp 19
tật mang vì đầu tư chưa đủ độ hoặc đầu tư sai, nhầm đối tượng. Tình trạng xuống cấp về đạo đức
của thầy thuốc (y khoa, dược khoa) trong cơ chế thị trường làm tăng thêm tính bức xúc và nan
giải của vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả dịch vụ y tế nông thôn. “Trong cơ chế thị trường,
vì lợi nhuận các hiệu thuốc, các cơ sở y tế, thầy thuốc có xu hướng sử dụng nhiều thuốc không
hợp lý cho bệnh nhân... Hiện nay tình trạng tự mua thuốc điều trị khá phổ biến, ở trạm y tế xã chỉ
có 58,3% số thuốc được kê là nằm trong danh mục thuốc thiết yếu, tình trạng lạm dụng thuốc
kháng sinh, corticoid”, mặc dù đã có nhiều hướng dẫn về sử dụng thuốc cho cơ sở vẫn là vấn đề
cần quan tâm giải quyết với những giải pháp cụ thể trong thời gian tới (Bộ Y tế, 2006:325).
1.6 Đời sống văn hóa có nhiều biểu hiện tiêu cực, xuống cấp
• Tính bức xúc của vấn đề
“Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội
phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hóa còn nhiều sơ hở, yếu kém.
Đấu tranh ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại chưa được chú ý đầy đủ, còn nhiều khuyết điểm, bất
cập” (ĐCSVN, 2006:172-173).
“Một số địa phương đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở còn thiếu gương mẫu về đạo đức,
còn gây phiền hà, nhũng nhiễu dân, còn thiếu minh bạch công khai trong việc sử dụng công quỹ,
trong sử dụng đất đai, gây bất bình khiếu kiện trong dân... không ít nơi còn tình trạng cờ bạc, số
đề, trộm cắp, ma túy, mại dâm.
Một số nơi khi kinh tế phát triển, đời sống vật chất được cải thiện, dân xây nhà lầu, tậu xe
máy,... nhưng chất lượng đời sống văn hóa không được nâng lên tương xứng, thậm chí có lúc còn
sa sút trong quan hệ gia đình, họ tộc, tình làng nghĩa xóm không được như xưa..., nhiều sản phẩm
văn hóa thấp kém, đặc biệt đã len lỏi vào nhiều ngõ ngách nông thôn.
ở một số vùng nông thôn xa các trục đường giao thông, có khó khăn về kinh tế thì mức
độ hưởng thụ văn hóa cũng rất thấp, đời sống tinh thần còn nghèo nàn, trẻ em bỏ học nhiều, tình
trạng tái mù chữ khá phổ biến” (Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước KX
05-02 về Đời sống văn hóa và xu hướng phát triển văn hóa ở nông thôn ĐBSH và ĐBSCL trong
bối cảnh CNH, HĐH, 2005:170).
Theo nhận định của Bộ Y tế trong “Báo cáo Y tế Việt Nam 2006 công bằng, hiệu quả,
phát triển trong tình hình mới” thì lối sống ở Việt Nam đang thay đổi nhanh chóng với nhiều yếu
tố có hại cho sức khỏe, như tỷ lệ hút thuốc lá đã giảm đi, song còn ở mức cao; tình trạng lạm
dụng và tác hại của việc lạm dụng rượu bia về các mặt sức khỏe và xã hội đang là một vấn đề bức
xúc, là nguyên nhân của tai nạn thương tích, bạo lực gia đình và xã hội, rối loại tâm thần và các
bệnh gan, tim mạch; sử dụng ma túy gắn liền với những vấn đề sức khỏe như tâm thần,
HIV/AIDS, các bệnh lây lan qua đường tình dục, bạo lực gia đình và xã hội. Số người sử dụng ma
túy ở Việt Nam tăng nhanh, đặc biệt là ở nhóm tuổi trẻ1; quan hệ tình dục có hại cho sức khỏe đã
và đang thay đổi theo chiều hướng gia tăng... tình trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân, quan hệ
tình dục ngoài giá thú... thường là quan hệ tình dục không an toàn như không dùng bao cao su, là
1 Từ 1993 đến 2000, tội phạm ma túy ở Việt Nam tăng bình quân hàng năm là 30% số vụ và 40% số đối
tượng (Nguyễn Xuân Yêm, 2003).
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Mét sè vÊn ®Ò x· héi nan gi¶i trong qu¸ tr×nh ®æi míi tam n«ng ViÖt Nam 20
yếu tố nguy cơ cao phát triển HIV/AIDS, các bệnh lây qua đường tình dục và nạo phá thai (Bộ Y
tế, 2006:319).
ở khu vực nông thôn, tình trạng xa rời thuần phong mỹ tục bộc lộ qua trào lưu thương
mại hóa lễ hội truyền thống là biểu hiện lệch lạc văn hóa trong tiến trình đổi mới kinh tế, từ cơ
chế tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. Tham ô2, lãng
phí gia tăng trong cán bộ nhà nước địa phương, cơ sở gây bất bình và bức xúc trong nhân dân địa
phương không chỉ là lệch lạc văn hóa mà hơn thế nữa, là đến mức tội phạm tham nhũng, tức là
phản văn hóa.
• Tính nan giải của vấn đề
Rối loạn định hướng giá trị là nét đặc trưng của thời kỳ chuyển đổi khung mẫu văn hóa từ
truyền thống đến hiện đại, từ mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ sang mô hình chủ nghĩa xã hội
kiểu mới. Cái cũ không mất đi hoàn toàn, cái mới chưa định hình rõ nét, tạo ra tình trạng tranh tối
tranh sáng rất khó lựa chọn, đặc biệt đối với người dân nông thôn dân trí thấp, quá quen với văn
hóa truyền thống nông thôn, nông nghiệp, nông dân. Người dân nông thôn rơi vào tình trạng “sốc
văn hóa” khi đối mặt với sự du nhập ồ ạt, nhanh chóng các trào lưu văn hóa phương Tây, hiện đại
vào mọi lĩnh vực đời sống: kinh tế, chính trị, giáo dục, y tế, tôn giáo, vui chơi giải trí,v.v...
Phương Tây hóa hay hiện đại hóa? Đó là vấn đề trăn trở của cả nước nói chung, của nông dân nói
riêng. Làm thế nào để duy trì, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc? Đối với các dân tộc thiểu số, vấn
đề đặt ra rất nan giải, đó là: Kinh hóa hay hiện đại hóa?
Cạm bẫy của văn hóa nghèo, mà thực chất của văn hóa nông thôn truyền thống là văn hóa
nghèo, đó là vòng lẩn quẩn của sự nghèo nàn, lạc hậu. Một khu vực tam nông đóng kín sẽ không
có nội lực bứt phá trong quá trình chuyển đổi khung mẫu văn hóa từ truyền thống đến hiện đại.
Một khu vực tam nông mở cửa, hội nhập quốc tế sẽ có cơ hội tạo ra cách mạng văn hóa, song
thách thức rất to lớn do nguy cơ đánh mất bản sắc.
1.7 Tình trạng xung đột xã hội có chiều hướng gia tăng
• Tính bức xúc của tình hình
Xung đột xã hội về lợi ích kinh tế và cả về giá trị văn hóa giữa người dân và chính quyền
địa phương, giữa người dân và doanh nghiệp địa phương hoặc doanh nghiệp hoạt động tại địa
phương gia tăng cùng với quá trình đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, mở
cửa và hội nhập quốc tế. Theo Bộ Công an, giai đoạn 1988 - 2005 đã có 198.632 vụ xung đột, tranh
chấp liên quan đến an ninh trật tự xã hội. Số vụ xung đột liên quan đến đất đai chiếm 62,7%; các
xung đột có tính chất dân tộc, tôn giáo chiếm 0,9% và 2,3% xung đột vì vi phạm chính sách, tham
nhũng chiếm 6,1%. Ngoài ra còn các xung đột liên quan đến các bản án hình sự, dân sự, các xung
đột vì tư thù cá nhân, xung đột giá trị văn hóa, lối sống,v..v... chiếm 23,7%.
Tình trạng giải tỏa, đền bù và cả quy hoạch treo ở các khu công nghiệp mới tại địa bàn nông
thôn cũng đang gây ra nhiều bức xúc trong nhân dân. Sự bất bình gia tăng đang có nguy cơ xảy ra xung
đột xã hội - kinh tế với sức lan tỏa nhanh và khó hòa giải. Sự kiện xung đột giữa dân địa phương với các
doanh nghiệp thuê đất tại khu công nghiệp mới Láng - Hòa Lạc (tỉnh Hà Tây) là một dẫn chứng điển
2 Tham ô chiếm 33,3% số vụ án trong lĩnh vực xây dựng cơ bản (Lưu Đạt Thuyết, 2004).
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
T« Duy Hîp 21
hình của tình trạng này.
Khả năng xung đột môi trường giữa các làng nghề, khu công nghiệp mới với các làng - xã
nông nghiệp và dân nông thôn đang gia tăng do làng nghề và khu công nghiệp mới gây ô nhiềm
và suy thoái môi trường sống. Tình trạng này sẽ ngày càng bức xúc do cả nước đang đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
• Tính nan giải của vấn đề
Mâu thuẫn về lợi ích và cả về giá trị giữa nhà nước và nhân dân, giữa người dân và doanh
nghiệp không thể giải quyết bằng các biện pháp cực đoan, cứng rắn; bởi vì nhà nước Việt Nam có
bản chất là nhà nước của dân, do dân, vì dân; nền kinh tế Việt Nam được xây dựng là nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần phải tìm kiếm những
biện pháp hòa giải. Nhưng cái giá phải trả là kéo dài thời gian giải quyết xung đột. Tính nan giải
của vấn đề xung đột xã hội là tìm ra giải pháp cả hai cùng thắng chứ không phải người này thắng
lợi, kẻ kia thua thiệt.
1.8 Năng lực quản lý xã hội thấp kém
• Tính bức xúc của vấn đề
“Bộ máy Nhà nước chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế
- xã hội.
Những yếu kém của bộ máy quản lý nhà nước và công tác cán bộ chậm được khắc phục.
Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu, chưa gắn với xây dựng và chỉnh đốn Đảng, với đổi mới
phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, chưa phối hợp chặt chẽ với cải cách
và hoạt động tư pháp. Cải cách tư pháp chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Năng lực và phẩm chất
của nhiều cán bộ, công chức còn yếu, một bộ phận không nhỏ thoái hóa, biến chất. Dân chủ ở
nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn
nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm của bộ phận không
nhỏ cán bộ, công chức, nhất là ở các cơ quan giải quyết công việc cho dân và doanh nghiệp. Bộ
máy chính quyền cơ sở nhiều nơi yếu kém” (ĐCSVN, 2006:174-175).
Kết quả điều tra, khảo sát của đề tài cấp Nhà nước KX 05-02 cho thấy rõ năng lực quản
lý của chính quyền cơ sở xã/thôn rất yếu kém: “ở Việt Nam, quan trí chưa được đặt ra như một
vấn đề xã hội mang tính cấp bách. ở cơ sở vấn đề này càng nan giải hơn:
- Số cán bộ cơ sở có trình độ đại học (chính quy) một ngành khoa học nào đó là rất hiếm hoi,
đại đa số là những người theo chủ nghĩa bằng cấp (có nghĩa là bằng con đường chuyên tu hay tại chức,
thậm chí văn bằng giả họ “kiếm” được một tấm bằng nào đó.
- Trình độ chính trị thấp và không vững. Sở dĩ như vậy là chính hệ thống trường Đảng
của ta đã tạo điều kiện để họ lấy bằng trung cấp chính trị (một tiêu chuẩn vừa đủ cho việc đề bạt
hay tồn tại của một cán bộ cơ sở) bằng cách họ học một khóa “cấp tốc”, mang nặng tính hình
thức.
- Trình độ quản lý của cán bộ cơ sở thì đang ở trong tình trạng thiếu tính khoa học. Biểu
hiện cụ thể nhất là gần đây, nhà nước có những chương trình tin học hóa trong quản lý ở cơ sở,
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Mét sè vÊn ®Ò x· héi nan gi¶i trong qu¸ tr×nh ®æi míi tam n«ng ViÖt Nam 22
nhưng sau khi đã đầu tư máy vi tính và tập huấn cho cán bộ sử dụng thì đại bộ phận cán bộ cơ sở
của chúng ta không biết dùng để truy cập những tin cập nhật có lợi cho sản xuất và quản lý, các
máy tính đó hoặc trở thành chiếc máy chữ đắt tiền, dùng để trang trí là chính hoặc là bị “đắp
chiếu”...” (Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước KX 05-02, 2005:172).
Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở theo nghị định của chính phủ (1989) mang nhiều
tính hình thức và kém hiệu quả. Tình trạng “thừa dân chủ thiếu kỷ cương” hoặc ngược lại, “thừa
kỷ cương thiếu dân chủ” vẫn phổ biến ở cơ sở xã/thôn.
Năng lực tự quản cộng đồng vẫn còn yếu kém, đặc biệt là ở những cơ sở thiếu sự tham
gia tích cực, chủ động của người dân địa phương.
• Tính nan giải của vấn đề
Nhu cầu nâng cao năng lực quản lý xã hội ở khu vực tam nông, nhất là ở cơ sở xã/thôn rất khó
đáp ứng, do chính quyền địa phương thiếu nguồn lực và kém năng lực nghiêm trọng, do sự thiếu đồng
bộ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp của bộ máy quản lý nhà nước và do rất khó tăng cường sự tham
gia trực tiếp của người dân nông thôn.
Việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở còn nhiều tính hình thức và kém hiệu quả là do cả
2 bên: cán bộ cơ sở xã/thôn thiếu và kém năng lực quản lý xã hội; người dân tại cơ sở xã/thôn chủ
yếu là người già, phụ nữ và trẻ em, những lực lượng tráng niên (thanh niên, trung niên) đi vào
thành phố hoặc nông thôn khác kiếm sống, tại nơi đến họ không tham gia vào việc thực hiện Quy
chế dân chủ cơ sở vì không được công nhận là dân sở tại.
1.9 Kết cấu hạ tầng thấp kém
• Tính bức xúc của vấn đề
Kết cấu hạ tầng ở nông thôn với các yếu tố chủ yếu như điện, đường, trường học, trạm y
tế, hệ thống nước sạch, khu dân cư, khu chợ, khu sinh hoạt văn hóa cộng đồng có chất lượng thấp
kém, đặc biệt là ở những làng - xã chủ yếu làm nông nghiệp, mức sống thấp.
ở những cộng đồng nông thôn vùng cao, vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn
không đủ số lượng các yếu tố cơ bản của kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là thiếu điện và
thiếu đường giao thông đến trung tâm xã, chưa nói gì đến cộng đồng thôn/xóm. Các xã thuộc
Chương trình 135 của Chính phủ (Chương trình xóa xã nghèo về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội)
trong giai đoạn 1 mới giải quyết được nhu cầu có đường giao thông đến trung tâm xã, trong giai
đoạn 2 sẽ giải quyết mạng lưới giao thông liên thôn, liên xã và cả nhu cầu điện sản xuất và điện dân
dụng.
• Tính nan giải của vấn đề
Tình trạng lực bất tòng tâm phổ biến chung cho cả khu vực tam nông do thiếu nguồn lực và
kém năng lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại hóa. Tình trạng này trầm trọng ở các cộng
đồng nông thôn làm nông nghiệp và đặc biệt trầm trọng ở các cộng đồng nông thôn vùng cao, vùng
dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
Một làng nghề do hạn chế về nhận thức, có thể đầu tư rất muộn vào việc nâng cấp kết cấu
hạ tầng theo hướng hiện đại hóa, song khi đã giải phóng được tư tưởng, làng nghề đó đủ sức huy
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
T« Duy Hîp 23
động nội lực để hiện đại hóa nhanh, hiệu quả kết cấu hạ tầng của cộng đồng làng nghề. Trái lại,
một làng nông nghiệp thì ngay cả khi được giải phóng tư tưởng rất sớm, kết cấu hạ tầng được
nâng cấp; song chất lượng các công trình rất thấp kém, buộc phải phá đi, xây lại nhiều lần, tuy
mỗi lần kinh phí nhỏ, nhưng cộng dồn nhiều lần kinh phí cũng to lớn, mà hiệu quả không cao.
Trật tự ưu tiên trong xây dựng hoặc sửa chữa, nâng cấp công trình cũng là một vấn đề gây
nhiều rắc rối: điện trước hay là đường giao thông trước? Trường học trước hay là trạm y tế trước?
v.v... Chung cuộc thì tất cả các yếu tố cơ bản của kết cấu hạ tầng đều phải được nâng cấp, hoặc
xây mới theo tiêu chuẩn hiện đại hóa. Nhưng trong quá trình kéo dài có thể hàng chục năm, tại cơ
sở xã/thôn nông nghiệp, nghèo mà ít được sự hỗ trợ của nhà nước hoặc tài trợ nước ngoài phải
chấp nhận tình trạng xôi đỗ, da báo không có cách nào khác!
1.10 Môi trường bị ô nhiễm và suy thoái đến mức báo động
• Tính bức xúc của vấn đề
Khu vực tam nông chịu áp lực của tình trạng gia tăng ô nhiễm và suy thoái môi trường
đến mức báo động là do hai nguồn tác động: một là làng nghề và các khu công nghiệp nông thôn
và hai là khu vực đô thị - công nghiệp. Làng nghề và các khu công nghiệp nông thôn gây ô nhiễm
đất, nước và không khí rất nặng; làm suy thoái tài nguyên môi trường do khai thác tự phát, không
theo quan điểm phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Khu vực đô thị - công nghiệp là nguồn gây ô nhiễm và suy thoái môi trường còn nặng nề
hơn so với làng nghề và các khu công nghiệp nhỏ lẻ ở nông thôn. Cư dân ven đô là những người
chịu đựng trực tiếp. Thậm chí ở khoảng cách xa, tầm 50 - 60km, cư dân nông thôn vẫn gánh chịu
hậu quả ô nhiễm và suy thoái môi trường do khu vực đô thị - công nghiệp gây ra. Chẳng hạn,
nước thải độc hại của nhà máy pin Văn Điển ở Hà Nội đã làm ô nhiễm nước và đồng ruộng của
nhiều xã, huyện thuộc tỉnh Hà Nam, đặc biệt là huyện Kim Bảng. Đã mấy chục năm trôi qua mà
nhà nước và doanh nghiệp đều không đền bù cho người dân, không có giải pháp kỹ thuật khắc
phục tình trạng ô nhiễm và suy thoái đất, để mặc cho cộng đồng xã/thôn tự xoay xở.
• Tính nan giải của vấn đề
Hậu quả nặng nề của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội không theo quan điểm, chiến
lược và lý thuyết phát triển bền vững. Thiếu nguồn lực và năng lực khắc phục tình trạng ô nhiễm
và suy thoái tài nguyên môi trường.
Ngay cả khi đã tiếp nhận quan điểm lý thuyết phát triển bền vững, bảo đảm hài hòa tăng
trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường thì trong chiến lược và đặc biệt là dự án phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, không thể không lựa chọn ưu tiên.
Đặc biệt, đối với khu vực tam nông vốn nghèo nàn, lạc hậu, lại ở trong một đất nước chủ
yếu dựa vào tam nông nghèo nàn, lạc hậu thì ưu tiên tăng trưởng kinh tế là lẽ đương nhiên. Hơn
thế nữa, không tăng trưởng kinh tế nhanh thì cũng không có nguồn lực tài chính mạnh để giải
quyết các vấn đề xã hội và các vấn đề môi trường nảy sinh, bức xúc.
Do đó, phải chấp nhận tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường trong một giới hạn và
mức độ cho phép. Mức độ cho phép đó bao nhiêu là hợp lý, hợp tình? Đấy mới thực sự là vấn đề
nan giải, vì nó còn bỏ ngỏ đối với địa phương và cả đối với trung ương...
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Mét sè vÊn ®Ò x· héi nan gi¶i trong qu¸ tr×nh ®æi míi tam n«ng ViÖt Nam 24
II. Bàn về quan điểm định hướng các giải pháp khắc phục các vấn đề xã hội nảy
sinh, bức xúc
Có 2 cách tiếp cận bàn về các giải pháp khắc phục các vấn đề xã hội nảy sinh, bức xúc. Một
là lựa chọn các giải pháp cụ thể cho mỗi vấn đề cụ thể và hai là xây dựng hệ quan điểm định hướng
các giải pháp chung và riêng. Hai cách tiếp cận này bổ sung cho nhau. Bài viết này sẽ đề cập các
quan điểm định hướng giải pháp chung và riêng.
2.1. Quan điểm thứ nhất
Cần đảm bảo sự đồng bộ của các giải pháp. Trước hết là sự đồng bộ giải pháp thích hợp
cho mỗi vấn đề xã hội. Theo quan điểm lý thuyết xã hội học về các vấn đề xã hội3 thì mỗi vấn đề
xã hội đều phải được nghiên cứu và giải quyết theo trật tự lôgích sau: 1/ Xác định rõ thực chất
của vấn đề, 2/ làm rõ nguyên nhân và các điều kiện nảy sinh vấn đề, làm cho vấn đề trở nên bức
xúc, 3/ làm rõ hậu quả do vấn đề đó gây ra và 4/ trên cơ sở đó mới làm rõ các giải pháp thích hợp
để khắc phục vấn đề đó.
Chẳng hạn, công cuộc khắc phục tình trạng dân trí thấp thì cần đồng bộ các giải pháp
giáo dục và đào tạo chính quy và không chính quy, trong nhà trường và ngoài nhà trường, đào tạo
trong nước và đào tạo ở nước ngoài,.v..v
Ngoài ra, cần bảo đảm sự đồng bộ của các giải pháp cho tất cả các vấn đề xã hội do
chúng đều có sự liên quan với nhau. Thí dụ muốn khắc phục tình trạng nghèo đói và giảm khoảng
cách giàu - nghèo ở nông thôn cũng như giữa nông thôn và đô thị thì phải tiến hành đồng bộ
nhiều giải pháp về dân số và kế hoạch hóa gia đình, về lao động và việc làm, về nâng cao dân trí
và quan trí, về chăm sóc sức khỏe nhân dân, về tăng trưởng kinh tế nâng cao mức sống của nhân
dân, về phòng chống tệ nạn xã hội và tội phạm,v.v...
Trong đồng bộ giải pháp cần phân biệt giải pháp chủ yếu và các giải pháp bổ sung, giải pháp
trước mắt và giải pháp lâu dài, giải pháp chiến lược và giải pháp chính sách,.v..v... Chẳng hạn trong
đồng bộ giải pháp xóa đói, giảm nghèo thì 20 năm đổi mới vừa qua nhà nước và nhân dân đã tập trung
trước hết vào việc xóa đói (tức là xóa nghèo lương thực, nghèo tuyệt đối), sau đó mới chuyển sang xóa
nghèo chung, nghèo tương đối. Giải pháp trực tiếp xóa đói là cứu trợ, song giải pháp cơ bản để xóa
đói một cách bền vững là bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đồng thời hỗ trợ người nghèo vay vốn
ưu đãi, tạo việc, tăng thu nhập. Theo triết lý, không cho con cá mà cho cần câu, giúp người nghèo để
người nghèo tự giúp mình để thoát dần ra khỏi cảnh đói, nghèo.
2.2. Quan điểm thứ hai
Khu vực tam nông vốn nghèo nàn, lạc hậu, dễ bị tổn thương và dễ bị loại trừ ra khỏi dòng
chủ lưu của phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn
cầu hoá. Bằng nội lực người dân nông thôn chỉ đủ đảm bảo mưu sinh bền vững. Muốn phát triển
bền vững người dân nông thôn cần rất nhiều sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Do đó, cần hỗ trợ cho khu vực tam nông: 1/ Khung khổ pháp lý của nhà nước và những
cam kết quốc tế đối với tam nông, 2/ đào tạo, nâng cao năng lực toàn diện cho tam nông, 3/ quy
3 Xem, chẳng hạn: Earl Rubington, Martin S.Weinberg chủ biên, 2003. Nghiên cứu các vấn đề xã hội (7
quan điểm). Tái bản lần thứ 5. Nxb Oxford.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
T« Duy Hîp 25
hoạch và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án phát triển tam nông; chú trọng nâng cao năng
lực đánh giá, điều chỉnh hoặc thay đổi các dự án và chương trình phát triển tam nông.
Quan điểm hỗ trợ tam nông cần được hiểu và thao tác theo lý thuyết tương tác, tương hỗ.
Nghĩa là phát triển mô hình hợp tác giữa tam nông với các khu vực khác của xã hội. Lý thuyết 4
nhà của vùng ĐBSCL: 1/ Nhà nông, 2/ nhà nước, 3/ nhà doanh nghiệp và 4/ nhà khoa học thực
chất là lý thuyết hợp tác giữa tam nông với ngoài tam nông, theo nguyên tắc các bên liên quan
đều cùng có lợi. Có thể và cần phải bổ sung thêm 1 nhà thứ năm nữa, đó là nhà công tác xã hội để
trở thành lý thuyết 5 nhà cho chiến lược phát triển bền vững tam nông.
2.3. Quan điểm thứ ba
Cần chiến lược phát triển bền vững tam nông.
- Bảo đảm sự cân đối, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi
trường tam nông và phi tam nông.
- Bảo đảm cân đối, hài hòa giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp.
- Bảo đảm cân đối, hài hòa giữa nông dân và phi nông dân
- Bảo đảm cân đối, hài hòa giữa nông thôn và phi nông thôn.
2.4. Quan điểm thứ tư
Cần hoàn thiện lý thuyết tam nông (tam nông luận)
Lý thuyết tam nông (tam nông luận) không quy giản về lý thuyết phát triển tam nông, bởi
lẽ phát triển không phải là đặc trưng cơ bản duy nhất của tam nông. Lý thuyết tam nông phải hóa
giải các song đề xã hội tam nông theo quan điểm lý thuyết khinh - trọng.
- Song đề bản chất của tam nông: thuần nông hoặc/và không thuần nông
- Song đề quy luật tồn tại của tam nông: khép kín hoặc/và mở cửa, hướng nội hoặc/và
hướng ngoại.
- Song đề quy luật biến đổi của tam nông: biến dạng hoặc/và biến chất, mưu sinh hoặc/và
phát triển, tiến hóa hoặc/và chuyển hóa.
- Lý thuyết tam nông (tam nông luận) là cơ sở lý thuyết để nghiên cứu, giải quyết các vấn
đề xã hội tam nông. Tiếp tục hóa giải các vấn đề xã hội theo quan điểm lý thuyết khinh - trọng.
- Song đề mô hình xã hội trọng nông hoặc/và mô hình xã hội trọng phi nông trong kiến
tạo xã hội tam nông mới .
- Song đề quyết định luận hệ thống xã hội hoặc/và quyết định luận nhân tố con người
trong giải thích và giải quyết các vấn đề xã hội tam nông.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Mét sè vÊn ®Ò x· héi nan gi¶i trong qu¸ tr×nh ®æi míi tam n«ng ViÖt Nam 26
Tài liệu trích dẫn
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Hà Nội.
2. Tổng cục Thống kê. Niên giám thống kê 1993, 1998, 1999, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006 .
Nxb Thống kê. Hà Nội.
3. Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Thống kê, 2003.
4. Bộ Y tế, 2006. Báo cáo Y tế Việt Nam 2006.
5. Phan Hồng Giang, 2005. Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước KX 05-
02 về Đời sống văn hóa và xu hướng phát triển văn hóa ở nông thôn ĐBSH và ĐBSCL trong
bối cảnh CNH, HĐH.
6. Lưu Đạt Thuyết, 2004. Một số vấn đề xã hội trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nxb Lý luận Chính trị. Hà Nội.
7. Nguyễn Xuân Yêm, Phan Đình Khánh, Nguyễn Thị Kim Liên, 2003. Mại dâm, ma tuý, cờ
bạc, tội phạm thời hiện đại. Nxb Công an nhân dân. Hà Nội.
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so4_2007_toduyhop_197.pdf