Một số vấn đề về lỗi ngữ dụng và việc dạy học ngoại ngữ - Cẩm Tú Tài

Tài liệu Một số vấn đề về lỗi ngữ dụng và việc dạy học ngoại ngữ - Cẩm Tú Tài: 23KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiệu quả giao tiếp ngôn ngữ không đạt tới ngưỡng chuẩn do một phần nguyên nhân xuất phát từ lỗi ngữ dụng. Về bản chất, lỗi ngữ dụng không phải là lỗi sai của cấu trúc ngữ pháp gây ra, chủ yếu là do sự thiếu hụt về tính chuẩn mực, không phù hợp với ngữ cảnh, phong cách và thói quen diễn đạt trong giao tiếp giữa các cộng đồng ngôn ngữ gây ra. Nội dung bài viết bàn thảo sơ bộ về một số lỗi ngữ dụng và việc dạy học ngoại ngữ, nhằm góp phần giúp người sử dụng ngoại ngữ có thêm sự cảm nhận về tính chuẩn mực và tính hiệu quả của việc vận dụng ngôn từ trong giao tiếp. 2. BIỂU HIỆN CỦA LỖI NGỮ DỤNG TRONG GIAO TIẾP Lỗi ngữ dụng thường xảy ra trong giao tiếp xã hội và sử dụng ngôn ngữ, liên quan đến tính chuẩn mực trong sự khác biệt và sự ảnh hưởng tương tác ngôn ngữ, cùng các yếu tố văn hóa dân tộc và thói quen giao tiếp trong các ngôn ngữ khác MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LỖI NGỮ ...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 597 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về lỗi ngữ dụng và việc dạy học ngoại ngữ - Cẩm Tú Tài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
23KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiệu quả giao tiếp ngôn ngữ không đạt tới ngưỡng chuẩn do một phần nguyên nhân xuất phát từ lỗi ngữ dụng. Về bản chất, lỗi ngữ dụng không phải là lỗi sai của cấu trúc ngữ pháp gây ra, chủ yếu là do sự thiếu hụt về tính chuẩn mực, không phù hợp với ngữ cảnh, phong cách và thói quen diễn đạt trong giao tiếp giữa các cộng đồng ngôn ngữ gây ra. Nội dung bài viết bàn thảo sơ bộ về một số lỗi ngữ dụng và việc dạy học ngoại ngữ, nhằm góp phần giúp người sử dụng ngoại ngữ có thêm sự cảm nhận về tính chuẩn mực và tính hiệu quả của việc vận dụng ngôn từ trong giao tiếp. 2. BIỂU HIỆN CỦA LỖI NGỮ DỤNG TRONG GIAO TIẾP Lỗi ngữ dụng thường xảy ra trong giao tiếp xã hội và sử dụng ngôn ngữ, liên quan đến tính chuẩn mực trong sự khác biệt và sự ảnh hưởng tương tác ngôn ngữ, cùng các yếu tố văn hóa dân tộc và thói quen giao tiếp trong các ngôn ngữ khác MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LỖI NGỮ DỤNG VÀ VIỆC DẠY HỌC NGOẠI NGỮ CẨM TÚ TÀI Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN TÓM TẮT Nội dung bài viết luận bàn về lỗi ngữ dụng trong giao tiếp liên văn hóa. Trong một số tình huống cụ thể cho thấy, hiểu nhầm dụng ý của người phát ngôn, sự chuyển di gây ra ảnh hưởng tiêu cực từ tiếng mẹ đẻ, khái quát hóa, suy luận dập khuôn một cách máy móc trong ngữ đích, không hiểu rõ đặc trưng văn hóa tâm lý dân tộc là những nguyên nhân gây ra các lỗi sai về mặt ngữ dụng. Trên cơ sở này, chúng tôi nêu ra những gợi ý liên quan đến dạy học ngoại ngữ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện tại. Từ khóa: dạy học ngoại ngữ, giao tiếp liên văn hóa, lỗi ngữ dụng nhau [4]. Ngữ dụng học giao tiếp liên văn hóa phân tích chi tiết qua các nội dung sau đây: 2.1. Lỗi ngữ dụng trong sự khác biệt tương tác ngôn ngữ Trong giao tiếp ngôn ngữ, người phát ngôn thường căn cứ theo ngữ cảnh, tình huống để lựa chọn ngôn từ nhằm diễn đạt chuẩn xác dụng ý của mình. Nếu người phát ngôn sử dụng từ ngữ thiếu chính xác, hoặc sử dụng từ ngữ gây ra những cách hiểu khác nhau, sẽ khiến cho người nghe có thể hiểu nhầm ý nghĩa của phát ngôn. Cũng có những trường hợp do người nghe hiểu nhầm dụng ý, ý tại ngôn ngoại của người phát ngôn, dẫn đến lỗi ngữ dụng trong giao tiếp. Ví dụ: (1) Sorry, I haven’t finished it yet. *Could you wait for a while? (Xin lỗi thày em vẫn chưa làm xong. *Thày có thể đợi thêm một lát được không ạ?) Trong phát ngôn trên, người nói dường như muốn thỉnh cầu đối phương chờ thêm một lát để hoàn 24 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY thành nốt công việc sắp sửa kết thúc. Tuy nhiên, trong tình huống người nói là học sinh chưa hoàn thành bài tập, mong muốn xin giáo viên gia hạn cho một vài ngày nữa làm xong để nộp, đã diễn đạt nhầm ý “extend the deadline a few days” (gia hạn thêm một vài ngày nữa) thành “*wait for a while” (*đợi thêm một lát), gây ra lỗi ngữ dụng về mặt từ ngữ. Trong tình huống của giờ dạy, giáo viên đưa ra yêu cầu sau: (2) Giáo viên: Who would like to answer the question? - Thuc? (Ai sẵn sàng trả lời câu hỏi này? - Thục trả lời được chứ?) Thục: No, I wouldn’t. (Không ạ, em chưa sẵn sàng) Dụng ý ngữ vi của giáo viên là đề nghị đích danh Thục, chứ không phải là người khác trả lời câu hỏi, nhưng Thục lại hiểu nhầm, cho rằng giáo viên chỉ đơn thuần hỏi có thích hay không thích trả lời câu hỏi. Chúng ta tiếp tục quan sát đối thoại trong tình huống lái xe taxi đang chở khách trên đường đến Hà Nội. Theo yêu cầu của hành khách thứ nhất, hành khách thứ hai đã truyền đạt tới lái xe như sau: (3) Hành khách 1: Ask the drive what time we get to Hanoi. (Hỏi tài xế xem mấy giờ chúng ta sẽ đến Hà Nội) Hành khách 2: Could you tell me when we get to Hanoi, please? (Khi nào đến Hà Nội xin hãy nói cho chúng tôi được biết) Lái xe: Don’t worry, it’s a big and crowded city, I’ll tell you. (Các ông đừng lo, Hà Nội là thành phố lớn và đông đúc. Khi tới nơi tôi sẽ bảo các ông) Trong giao tiếp trên, hành khách thứ nhất muốn được biết vào lúc mấy giờ (what time) sẽ đến Hà Nội, nhưng lái xe lại hiểu yêu cầu của hành khách thứ hai là “lúc nào đến Hà Nội hãy nói với họ một tiếng để được biết”. Trong phát ngôn của hành khách thứ hai, “when” đã gây ra cách hiểu khác nghĩa, khiến lái xe hiểu nhầm dụng ý. Nếu hành khách thứ hai dùng cách nói “what time” (mấy giờ), sẽ tránh gây ra cách hiểu nhầm này. Trong ví dụ (1), (2) và (3) đều xảy ra lỗi ngữ dụng sử dụng từ ngữ trong những tình huống giao tiếp cụ thể. Nguyên nhân phát sinh lỗi sai là do người phát ngôn nhận định chủ quan cho rằng người thụ ngôn có thể hiểu được lời nói của mình, hoặc bản thân người thụ ngôn hiểu nhầm dụng ý của người phát ngôn. 2.2. Lỗi ngữ dụng trong giao tiếp xã hội Lỗi ngữ dụng trong giao tiếp xã hội chủ yếu xuất phát từ sự thiên lệch về những khác biệt trong qui ước, chuẩn mực nghi thức, phong tục tập quán khi tiến hành giao tiếp liên văn hóa giữa hai cộng đồng ngôn ngữ. Ví dụ, trong tình huống một người phương Tây khen cô gái là người Á Đông mặc bộ trang phục đẹp: (4) Người khen: That’s a lovely dress you have on! (Trang phục bạn đang mặc rất đẹp) Cô gái: No, no. It’s just a very ordinary dress. (Ồ không. Chỉ thường thôi mà) Câu nói phù hợp với tình huống giao tiếp này của cô gái phải là “Thank you” (xin cảm ơn bạn). Rõ ràng lời đáp của cô gái chịu sự chi phối của tính cách khiêm nhường, hay có thói quen hạ thấp bản thân theo phong cách giao tiếp người Á Đông, dẫn đến lỗi ngữ dụng. Điều này có thể khiến cho người phương Tây hiểu thành hàm ý ám chỉ, diễu cợt họ thiếu kiến thức về thẩm mỹ, không phân biệt được thế nào là trang phục đẹp. Sự khác biệt về bối cảnh văn hóa, đặc trưng văn hóa, tâm lý dân tộc có lúc cũng gây ra lỗi ngữ dụng trong giao tiếp. Ví dụ nếu người bán hàng theo thói quen hỏi khách hàng là người phương Tây đến mua hàng bằng câu hỏi: (5) What do you want? (Anh/ chị cần mua thứ gì?) Người phương Tây cho rằng câu hỏi như vậy không được lịch sự. Thông thường người phương 25KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Tây sẽ hỏi: “Can I help you?” (Tôi có thể giúp được gì cho ông/ bà?) hoặc “What can I do for you?” (Tôi có thể hỗ trợ gì cho ông/ bà?) Hoặc khi gặp người bạn phương Tây mua về khá nhiều đồ, theo thói quen chúng ta thường nói: (6a) Oh, you’ve bought so much! (Ồ, bạn mua được nhiều đồ nhỉ!) (6b) What a lot you have bought! (Bạn mua được khá nhiều đồ đấy nhỉ!) Tuy nhiên người bạn phương Tây sẽ không cho rằng đây là những câu nói mang hàm ý ngưỡng mộ. Do vậy, câu nói (6a) và (6b) đều không phù hợp với tâm lý tiếp nhận của người bạn phương Tây này. Người Á Đông thường có lối nói vòng vo, rào đón, đưa đẩy, tránh ngay lập tức đi thẳng vào vấn đề chính, và coi đây cũng là một trong những nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp. Ví dụ trong tình huống đối đáp lời mời của người phương Tây, xuất phát từ phép lịch sự, theo thói quen, chúng ta thường đưa ra những câu trả lời mang hàm ý mơ hồ, không rõ ràng. Ví dụ: (7) A: Will you have a cup of coffee? (Bạn sẽ dùng một tách cà phê chứ?) B: Thank you! (Cảm ơn!) Với tình huống này, A sẽ cảm thấy rất khó nắm bắt được ý muốn của bạn để tiếp tục xử lý, quyết định chuẩn bị, hoặc gọi cà phê cho bạn. Câu trả lời rõ ràng cho A thông thường phải là “Yes, please” (Vâng, xin sẵn lòng), hoặc là “No, thanhk you” (Tôi không dùng đâu, cảm ơn bạn!). Có tình huống học sinh muốn nhờ thày giáo người phương Tây chữa giúp bài viết, đã diễn đạt: (8) I wonder if you are free or not. I’ve never written such an essay before, so I’ve probable made lots of mistakes. (Em không rõ là thày có thời gian hay không? Từ trước tới giờ em chưa từng viết bài luận nào như vậy, chắc là sẽ có rất nhiều lỗi sai) Người phương Tây thường cho rằng, phương thức giao tiếp (7) và (8) trên đây không phù hợp với chuẩn mực giao tiếp, nhưng để đảm bảo nguyên tắc hợp tác về lượng trong giao tiếp, họ thường yêu cầu người phát ngôn giải thích tường tận hơn: “So what?” (Sao vậy?) hoặc “Then do you want me to do something for you?”(Sau đây em cần tôi làm gì cho em?) Lỗi ngữ dụng trong giao tiếp còn xảy ra trong tình huống người phát ngôn không lưu ý đến thân phận và địa vị của người thụ ngôn, như chú trọng quá mức tới nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp, ngay cả đối tượng giao tiếp là người thân quen. Ví dụ, khi mượn sách của bạn thân, không cần thiết phải diễn đạt quá mức trịnh trọng, khiến cho đối phương cảm thấy giao tiếp bị gò bó, khuôn sáo: (9) Would you be kind enough to lend it to me? (Bạn sẽ không cảm thấy phiền toái gì khi cho tôi mượn chứ?) Hoặc khi đề nghị người lái xe tắc xi đưa ra sân bay, chỉ cần nói: “Airport, please” (Hãy chở tôi đến sân bay) thay cho lối diễn đạt dập khuôn, dài dòng dưới đây: (10) Excuse me, would you mind taking me to the airport? (Xin lỗi, anh không cảm thấy phiền hà khi chở tôi ra sân bay chứ?) Trong giao tiếp thường nhật có sự khác biệt trong văn hóa phương Đông và phương Tây. Với người lạ hay mới quen biết, người phương Tây không có thói quen đưa ra những câu hỏi liên quan tới vấn đề riêng tư của đối phương, như về thu nhập, tuổi tác, tôn giáo, quan điểm chính trị, tình trạng hôn nhân. Ở Việt Nam và một số nước Á Đông khác lại cho rằng, những câu hỏi như vậy thuộc về các chủ điểm giao tiếp thông thường, thể hiện sự thân thiện, quan tâm tới đối phương [2]. Do vậy, những lời chào hỏi theo thói quen giao tiếp Á Đông trong ví dụ (11) và (12) dưới đây với người phương Tây có thể gây ra những phiền muộn, khó chịu, dường như tự do cá nhân đang bị xâm phạm: (11) Where are you going? (Bạn đi đâu đấy?) (12) Have you had your meal? (Bạn ăn cơm chưa?) 26 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Phân tích các ví dụ trong những tình huống cụ thể trên cho thấy, hiểu nhầm dụng ý của người phát ngôn, sự chuyển di gây ra ảnh hưởng tiêu cực từ tiếng mẹ đẻ, việc khái quát hóa, suy luận dập khuôn một cách máy móc trong ngữ đích, nắm không vững đặc trưng văn hóa tâm lý dân tộc là những nguyên nhân gây ra các lỗi sai về mặt ngữ dụng trong giao tiếp. 3. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ LỖI NGỮ DỤNG TRONG DẠY HỌC NGOẠI NGỮ Mục đích của việc dạy học ngoại ngữ là sử dụng được ngữ đích một cách thành thạo và đúng chuẩn trong giao tiếp. Bên cạnh kiến thức ngôn ngữ nói chung, người học càng cần nắm vững kiến thức ngữ dụng. Trong quá trình sử dụng ngoại ngữ, lỗi sai về kiến thức ngôn ngữ thuộc về bề nổi, dễ nhận diện và chỉnh sửa. Người học có thể mắc lỗi sai về ngữ pháp, dùng sai từ, phát âm và ngữ điệu chưa chuẩn xác. Người thụ ngôn dễ dàng nhận ra và thường có thái độ đối xử bao dung, tha thứ. Vì đa phần người thụ ngôn hiểu được, với người học, đây chỉ là ngoại ngữ, ngôn ngữ thứ hai. Lí do phát sinh lỗi có thể là do người học chưa nắm vững, đầy đủ và thành thạo ngoại ngữ. Kiến thức này có thể bổ khuyết và thông qua thực hành, rèn luyện để đạt chuẩn. Tuy nhiên, với lỗi sai về mặt ngữ dụng, sẽ gây ra hiệu ứng tiêu cực khó đoán định hậu quả trong giao tiếp. Nếu không chú ý đến ngữ cảnh giao tiếp, sử dụng ngôn từ không phù hợp, thiếu chuẩn mực, dễ gây ra hiện tượng đường đột, thất thố, mạo phạm đến đối phương, gây ra sự phản cảm, khó chấp nhận từ đối phương. Thậm chí đối phương còn có thể nhận định người phát ngôn có những ý đồ không lành mạnh, thiếu tư chất. Hậu quả dẫn đến giao tiếp khó diễn ra một cách thuận lợi, hơn nữa còn có thể thất bại. 3.1. Nhận định sơ bộ về lỗi sai ngữ dụng của người học Quan sát và phân tích lỗi ngữ dụng của người học, chúng tôi nhận thấy lỗi sai của người học ngoại ngữ có liên quan tới vấn đề tăng cường bồi dưỡng kiến thức ngữ dụng và nâng cao năng lực giao tiếp liên văn hóa trong dạy học. Trong một khoảng thời gian khá dài, việc dạy học ngoại ngữ chủ yếu chỉ chú trọng tới khâu truyền đạt, tiếp thu kiến thức ngôn ngữ, đặt biệt là từ vựng và ngữ pháp. Người học tiếp thu từ vựng, sau đó dập khuôn, lắp ghép vào các cấu trúc ngữ pháp và luyện tập mẫu cấu trúc. “Trong dạy học ngoại ngữ thường tồn tại khuynh hướng đánh đồng giữa hình thức ngôn ngữ và chức năng giao tiếp khiến cho người học suy luận nhầm là, muốn ra lệnh thì nhất định phải sử dụng câu cầu khiến; muốn hỏi thì nhất nhất phải dùng câu nghi vấn” [1]. (In foreign language teaching the tendency is to assume an equation between linguistic form and communicative function learners are commonly misled into thinking that commands are general associated with imperative sentences and questions with interrogative sentences). Thực tế giao tiếp có những tình huống cần xử lý linh hoạt, sử dụng phương thức diễn đạt rút gọn là đã đảm bảo về lượng thông tin trong giao tiếp. Nếu quá máy móc vận dụng cấu trúc đầy đủ đã học sẽ phát sinh ra lỗi ngữ dụng như ví dụ (9) và (10) nêu trên, hoặc gây ra những cách hiểu khác nhau về dụng ý của người phát ngôn. Ví dụ: (13) Have you seen Binh lately? (Gần đây anh có gặp Bình đấy chứ?) (14) Seen Binh lately? (Gần đây anh có gặp Bình chứ?) Trong câu (13) người thụ ngôn có thể hiểu theo nhiều ý khác nhau như hỏi, thỉnh cầu, phản vấn tu từ hoặc cảm thán. Tuy nhiên, trong câu rút gọn (14) người thụ ngôn sẽ chỉ hiểu theo hàm ý thỉnh cầu: “người phát ngôn thỉnh cầu đối phương cung cấp tình hình gần đây về Bình”. Phương pháp dạy học ngoại ngữ truyền thống thường ít chú ý tới giá trị giao tiếp của ngôn ngữ, chưa nhấn mạnh cho người học nắm bắt được phương pháp phát ngôn như thế nào? Nói lúc nào là phù hợp? Nói với đối tượng nào? Nói về nội dung gì? Lựa chọn những ngôn từ nào? Ví dụ có những tình huống do không nắm bắt được đặc trưng tâm lý độ tuổi, khen ngợi đối phương là phụ nữ chưa đến tuổi 40 ăn mặc trông trẻ và đẹp, nhưng kết quả lại gây ra hiệu ứng ngược: (15) You look nice and younger wearing this dress. (Bạn trông trẻ hơn và rất xinh khi mặc bộ đồ này) 27KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Đương nhiên khen người có độ tuổi 50 trở lên là trẻ sẽ khiến cho đối phương có tâm lý thích thú và hứng khởi. Tuy nhiên, với phụ nữ chưa đến 40 tuổi lại đưa ra lời khen như vậy sẽ khiến họ nghĩ nếu bình thường không ăn vận như vậy sẽ trông già và xấu, hoặc đây chỉ là câu khen chiếu lệ, không thực chất. Trong một số tình huống, xuất phát từ nguyên tắc lịch sự, sử dụng lối nói gián tiếp nhiều khi có hiệu quả hơn là dùng lối nói trực tiếp: (16a) Why don’t you come over? (Tại sao bạn lại không đến đó?) (16b) Come over! (Đến đó đi!) (17a) The door is open. (Cửa đang mở đấy) (17b) Close the door! (Đóng cửa lại!) Cách diễn đạt ở ví dụ (16a) và (17a) có hàm ý uyển chuyển, lịch sự hơn trong biểu thức ngữ vi thể hiện sự cầu khiến và ra lệnh so với cách diễn đạt ở ví dụ (16b) và (17b). 3.2. Một số vấn đề liên quan trong dạy học ngoại ngữ hiện nay Tăng cường bồi dưỡng kiến thức ngữ dụng cho người học Thực tế giao tiếp và hiện trạng dạy học ngoại ngữ cho thấy, cùng với dạy học kiến thức ngôn ngữ, cần tăng cường dạy học kiến thức, bồi dưỡng nâng cao kiến thức ngữ dụng cho người học. Trong thực trạng dạy học ngoại ngữ trong nước hiện nay, chúng ta đều có thể nhận thấy sự thiếu hụt ngữ cảnh, tình huống giao tiếp ngôn ngữ thực tiễn. Chính vì vậy, trong thực tiễn dạy học, giáo viên có thể căn cứ theo yêu cầu về nội dung môn học, trình độ, giai đoạn học tập của người học để lựa chọn, kết hợp thêm các phương pháp và cách thức bổ sung kiến thức ngữ dụng qua dạy học các nội dung về văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán, đặc điểm giao tiếp, tâm lí dân tộc... của đất nước ngữ đích. Ví dụ, khi dạy học từ vựng, giáo viên có thể kết hợp phương thức cấu tạo từ với việc truyền đạt kiến thức văn hóa: từ tiếng Anh “Holiday” (ngày nghỉ, kỳ nghỉ), có nguồn gốc từ Kinh thánh “holy+day” (ngày của Chúa), trong ngày này mọi người được nghỉ ngơi và đến nhà thờ cầu nguyện. Như vậy, người học sẽ nắm bắt được cấu tạo từ và tín ngưỡng tôn giáo ở nước Anh. Nâng cao năng lực giao tiếp liên văn hóa cho người học Trong dạy học ngoại ngữ, cần có những phân tích thấu đáo về lỗi ngữ dụng, giải thích rõ về các nguyên tắc ngữ dụng nên lưu ý trong giao tiếp liên văn hóa, phân tích những nhân tố văn hóa, tâm lý gây ảnh hưởng đến ngữ cảnh sử dụng ngôn ngữ, đối chiếu, so sánh sự tương đồng và khác biệt dụng học giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ để giúp người học tránh được những lỗi sai như các trường hợp đã nêu ở trên. Ví dụ, qua đối chiếu, ta có thể thấy được sự tương đồng và những khác biệt về mặt giá trị của câu hỏi và lời chào trong tiếng Việt và tiếng Anh. (18) Bạn đi học à ? (thay cho lời chào) (19) Are you going to school ? (Bạn đi học đấy à?) (là câu hỏi) Cơ chế chào hỏi như trong ví dụ (18) của người Việt là một yếu tố mang đậm tính văn hóa. Người Việt chào bằng cách hỏi hay nói một cách khác là đặt một câu hỏi thay cho lời chào. Chính cơ chế này đã làm cho câu hỏi trong tiếng Việt trở thành một trong những phương tiện phổ biến để thực hiện hành vi chào: các câu hỏi trong tiếng Việt, chỉ với một điều kiện duy nhất là phù hợp với tình huống giao tiếp đều có thể trở thành biểu thức chào hỏi [3]. Giá trị này không có trong câu hỏi tiếng Anh, như ở ví dụ (19). Kết quả của công việc đối chiếu này có thể tạo điều kiện giúp người học biết cách chào hỏi và đặt câu hỏi một cách phù hợp trong giao tiếp với người bản ngữ tiếng Anh. Năng lực và kỹ năng giao tiếp, ứng xử liên văn hóa thường được cụ thể hóa qua việc giao tiếp ngoại ngữ bằng lời nói và ngôn ngữ cử chỉ. Trong dạy học ngoại ngữ, giáo viên cần phân tích thấu đáo cho người học nắm được những nhân tố liên quan đến giao tiếp liên văn hóa. Ví dụ, trong quan hệ công việc, việc áp dụng từ ngữ xưng hô thân 28 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY tộc của người Việt rõ ràng sẽ không phù hợp với đối tượng người phương Tây. Với các đối tượng giao tiếp khác nhau, cần lựa chọn các chủ điểm, chuẩn mực ngôn từ, cử chỉ, thái độ giao tiếp phù hợp để đảm bảo nguyên tắc hợp tác, lịch sự, tránh xảy ra xung đột văn hóa có liên quan đến sự riêng tư, tôn giáo, chính trị, pháp luật, kiêng kỵ, tuổi tác, giới tính (xem ví dụ 15) [2] Việc bồi dưỡng nâng cao năng lực giao tiếp liên văn hóa cho người học có thể được tiến hành qua nhiều hoạt động khác nhau, như thiết kế, tạo dựng các ngữ cảnh mô phỏng thực tại; hướng dẫn người học đọc thêm các tài liệu, tác phẩm văn học, xem các bộ phim tiêu biểu của quốc gia ngữ đích; bố trí giảng viên người nước ngoài tham gia dạy học ngoại ngữ, tổ chức các buổi tọa đàm chuyên đề về kiến thức ngữ dụng và kỹ năng giao tiếp liên văn hóa; tổ chức các hoạt động ngoại khóa, dạ hội, trại hè, câu lạc bộ ngoại ngữ, tổ chức giao lưu với sinh viên nước ngoài, Trong từng hoạt động, giáo viên sẽ đặt ra mục tiêu, thiết kế nội dung, chọn lựa phương thức tiến hành phù hợp với các đối tượng người học ngoại ngữ. 4. KẾT LUẬN Trong một số tình huống giao tiếp liên văn hóa cụ thể, lỗi ngữ dụng phát sinh do người thụ ngôn hiểu nhầm dụng ý của người phát ngôn. Có những lỗi xảy ra do sự chuyển di tiêu cực từ tiếng mẹ đẻ, hoặc do người sử dụng ngôn ngữ khái quát hóa, suy luận dập khuôn một cách máy móc trong ngữ đích, hoặc do sự lệch pha từ đặc trưng văn hóa tâm lý dân tộc giữa các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau gây ra. Ngoài những vấn đề được đề cập đến trong nội dung bài viết, trong thực tiễn giao tiếp ngôn ngữ có thể còn xuất hiện nhiều lỗi ngữ dụng khác. Chúng tôi hy vọng ở một mức độ nhất định, bài viết có thể cung cấp thêm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ và dạy học ngoại ngữ ở Việt Nam./. Tài liệu tham khảo: 1. Criper, C & Winddowson, H (1975), Sociolinguistic and Language Teaching, In Allen, J & Corder, S (eds.), Papers in Applied Linguistics 2. London: Oxford University Press. 2. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng Học Việt Ngữ, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội. 3. Nguyễn Việt Tiến (2010), “Ngữ dụng học với việc dạy và học ngoại ngữ (trên cứ liệu tiếng Pháp)”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ, 26, tr 157. 4. Thomas, J (1983), “Cross-cultural Pragmatic Failure”, Applied Linguistic, vol 4 (2), tr 91-112. PRAGMATIC FAILURES AND FOREIGN LANGUEGE TEACHING Abstract: This paper reports on the pragmatic failures in cross-cultural communication. In some specific situations, the pragmatic failures may result from misunderstanding of speaker’s intention, negative transfer from native language, generalizations, mechanical deduction into target language, the cultural characteristics and national psychology. This paper is concluded by recommending some solutions for foreign language teaching in Vietnam. Keywords: foreign language teaching, cross- cultural communication, pragmatic failure Ngày nhận: 08/7/2016 Ngày phản biện: 18/7/2016 Ngày duyệt đăng: 22/7/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5_9939_2137190.pdf
Tài liệu liên quan