Tài liệu Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực tây bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La) - Nguyễn Trung Kiên: TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 11 (12/2017) tr. 1 - 9
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC NGÔN NGỮ MẸ ĐẺ
VÀ NGÔN NGỮ QUỐC GIA ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
CÓ CHỮ VIẾT Ở KHU VỰC TÂY BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY
(Trƣờng hợp tỉnh Sơn La)
“Nếu bạn nói với một người bằng ngôn ngữ người đó hiểu, điều bạn nói sẽ tới được đầu anh ta. Nếu bạn
nói với người đó bằng ngôn ngữ của họ, điều bạn nói sẽ tới trái tim anh ta.”
(Nelson Madena)
Nguyễn Trung Kiên1
Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Việt Nam là một quốc gia có dân số tương đối đông và đa dạng về thành phần dân tộc. Trong
quá trình phát triển của các dân tộc có rất nhiều vấn đề được đặt ra và cần được giải quyết. Trong đó, nổi bật là
vấn đề giáo dục ngôn ngữ quốc gia (tiếng Việt) và giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ (tiếng mẹ đẻ) đối với người dân tộc
thiểu số để đảm bảo được tính bình đẳng giữa các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam và góp phần quan trọng
vào việc gìn giữ bản sắc văn hóa của các dân tộc. Nghiên cứu này tập trung...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 539 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực tây bắc Việt Nam hiện nay (trường hợp tỉnh Sơn La) - Nguyễn Trung Kiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 11 (12/2017) tr. 1 - 9
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁO DỤC NGÔN NGỮ MẸ ĐẺ
VÀ NGÔN NGỮ QUỐC GIA ĐỐI VỚI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
CÓ CHỮ VIẾT Ở KHU VỰC TÂY BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY
(Trƣờng hợp tỉnh Sơn La)
“Nếu bạn nói với một người bằng ngôn ngữ người đó hiểu, điều bạn nói sẽ tới được đầu anh ta. Nếu bạn
nói với người đó bằng ngôn ngữ của họ, điều bạn nói sẽ tới trái tim anh ta.”
(Nelson Madena)
Nguyễn Trung Kiên1
Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Việt Nam là một quốc gia có dân số tương đối đông và đa dạng về thành phần dân tộc. Trong
quá trình phát triển của các dân tộc có rất nhiều vấn đề được đặt ra và cần được giải quyết. Trong đó, nổi bật là
vấn đề giáo dục ngôn ngữ quốc gia (tiếng Việt) và giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ (tiếng mẹ đẻ) đối với người dân tộc
thiểu số để đảm bảo được tính bình đẳng giữa các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam và góp phần quan trọng
vào việc gìn giữ bản sắc văn hóa của các dân tộc. Nghiên cứu này tập trung vào một số vấn đề giáo dục ngôn
ngữ đối với các dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc với mong muốn từ thực tiễn nghiên cứu một khu
vực, một địa phương cụ thể góp phần thúc đấy sự phát triển bền vững của khu vực.
Từ khóa: Ngôn ngữ quốc gia, ngôn ngữ mẹ đẻ, dân tộc, phát triển.
1. Mở đầu
Ngôn ngữ là công cụ chủ yếu để tƣ duy và là phƣơng tiện chủ yếu để giao tiếp, luận
điểm nổi tiếng này đã trở nên quen thuộc và đƣợc thừa nhận một cách rộng rãi khi nghiên cứu
ngôn ngữ. Nhiều học giả cho rằng ngôn ngữ là thứ tài sản vô giá của mỗi cá nhân, mỗi tộc
ngƣời và mỗi quốc gia. Coi ngôn ngữ là tài sản bởi nếu thiếu ngôn ngữ, con ngƣời sẽ mất đi
một phƣơng tiện quan trọng nhất để giao tiếp, không có khả năng để tƣ duy và cùng với đó là
sự mất đi của nhiều giá trị văn hóa tinh thần. Đối với sự phát triển của xã hội, ở thời kì nào, xã
hội cũng đều khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của ngôn ngữ. Ngày nay, trong bối cảnh
hội nhập và phát triển mang tính toàn cầu hóa thì vai trò đó càng trở nên quan trọng hơn.
Việt Nam là một quốc gia có dân số tƣơng đối đông và đa dạng về thành phần dân tộc.
Trong quá trình phát triển của các dân tộc có rất nhiều vấn đề đƣợc đặt ra và cần đƣợc giải
quyết. Trong đó nổi bật là vấn đề giáo dục ngôn ngữ quốc gia (tiếng Việt) và giáo dục ngôn
ngữ mẹ đẻ đối với ngƣời dân tộc thiểu số để đảm bảo đƣợc tính bình đẳng giữa các dân tộc
sống trên lãnh thổ Việt Nam và góp phần quan trọng vào việc gìn giữ bản sắc văn hóa của các
dân tộc. Nghiên cứu này chỉ đề cập đến vấn đề giáo dục ngôn ngữ quốc gia và giáo dục ngôn
ngữ mẹ đẻ đối với một số dân tộc thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc (tỉnh Sơn La) với hi
vọng qua thực tiễn nghiên cứu từ một khu vực, một địa phƣơng cụ thể, có thể góp phần xây
dựng cơ sở lí luận chung trong việc giáo dục ngôn ngữ đối với các dân tộc thiểu số tại các địa
bàn khác của Việt Nam.
1Ngày nhận bài: 31/8/2017. Ngày nhận đăng: 12/10/2017
Liên lạc: Nguyễn Trung Kiên, e - mail: kienvansl@gmail.com
2
2. Nội dung
2.1. Về khái niệm khu vực Tây Bắc
Khu vực Tây Bắc là một thuật ngữ địa lí dùng để chỉ vùng núi phía Tây của miền Bắc
Việt Nam. Khu vực này còn có tên gọi khác là Khu vực Tây Bắc Bắc bộ. Sở dĩ có tên gọi nhƣ
vậy vì Tây Bắc là một trong ba tiểu vùng địa lí tự nhiên của khu vực Bắc bộ gồm Tây Bắc,
Đông Bắc và đồng bằng sông Hồng. Về không gian địa lí, theo ý kiến của nhà địa lí học Lê
Bá Thảo thì khu vực Tây Bắc đƣợc giới hạn ở phía Đông bởi dãy núi Hoàng Liên Sơn và ở
phía Tây bởi dãy núi Sông Mã. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng khu vực Tây Bắc chỉ có
không gian địa lí đơn thuần là vùng phía Nam (hữu ngạn) của sông Hồng hoặc vùng phía
Nam của dãy núi Hoàng Liên Sơn. Nhƣ vậy có thể nói cho đến nay không gian địa lí khu vực
Tây Bắc chƣa có một sự thống nhất về quan điểm. Và điều đó đã dẫn đến việc có nhiều cách
phân chia khác nhau về các đơn vị hành chính của khu vực Tây Bắc. Có ý kiến cho rằng khu
vực Tây Bắc có địa giới hành chính bao gồm sáu tỉnh là Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai
Châu, Yên Bái, Lào Cai. Tuy nhiên, hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai vẫn đƣợc xếp vào những
đơn vị hành chính của khu vực Đông Bắc. Ngoài ra, còn còn một thuật ngữ về khu vực Tây
Bắc mở rộng là khu vực địa giới bao gồm sáu tỉnh kể trên và một số huyện phía tây của các
tỉnh Phú Thọ, Nghệ An và Thanh Hóa.
2.2. Về khái niệm ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia
Ngôn ngữ mẹ đẻ là ngôn ngữ đƣợc thừa hƣởng trong thời thơ ấu, và có thể không đƣợc
giảng dạy chính thức trong trƣờng học. Đặc trƣng của ngƣời nói tiếng mẹ đẻ của một ngôn ngữ
là có trực giác về những gì họ có trong ngôn ngữ đó mà những ngƣời khác không có đƣợc [6].
Tiếng mẹ đẻ không đồng nhất với ngôn ngữ của cộng đồng sắc tộc mà ngƣời nói hay
cha mẹ họ thuộc vào mà là ngôn ngữ đƣợc hình thành ở ngƣời nói từ nhỏ theo con đƣờng học
hỏi ở những ngƣời xung quanh một cách tự nhiên [1].
Ở Việt Nam, hầu hết các dân tộc đều có tiếng mẹ đẻ của mình (cho đến nay mới chỉ ghi
nhận trƣờng hợp dân tộc Ơ Đu là đã đánh mất tiếng mẹ đẻ). Điều này đã tạo nên một đặc
trƣng của Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ. Và nhƣ một tất yếu Việt Nam
cũng là một quốc gia đa dạng về bản sắc văn hóa các dân tộc.
Ngôn ngữ quốc gia là ngôn ngữ đƣợc một văn bản pháp lí có giá trị cao xác định là ngôn
ngữ chính thức đƣợc dùng trong các văn bản hành chính nhà nƣớc, sử dụng rộng rãi trong giao
tiếp công cộng và giáo dục [1]. Thông thƣờng ngôn ngữ quốc gia là ngôn ngữ của cộng đồng sắc
tộc chiếm đa số. Nhƣng cũng không hiếm trƣờng hợp ngôn ngữ quốc gia là tiếng nƣớc ngoài.
Với tiếng Việt, tại Điều 5, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng
Việt”. Việc định Hiến ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt có một ý nghĩa rất quan trọng. Điều
này không chỉ tạo sự thuận lợi cho việc quản lí xã hội về mặt hành chính nhà nƣớc mà còn
góp phần tạo sự thống nhất trong hoạt động giao tiếp của xã hội. Tạo một cơ sở để giúp các
dân tộc cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam có cơ hội đƣợc gần gũi nhau hơn, giúp đỡ nhau
cùng phát triển khi họ cùng sử dụng một ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Về tính quốc tế,
định Hiến tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia còn góp phần nâng cao vị thế của tiếng Việt trong
các ngôn ngữ của thế giới.
3
2.3. Các dân tộc ở khu vực Tây Bắc theo họ ngôn ngữ
Sự chƣa thống nhất về không gian địa lí, địa giới hành chính của khu vực Tây Bắc đã
dẫn tới một khó khăn khi xác định về số lƣợng dân cƣ và thành phần các dân tộc của khu vực
này. Để đảm bảo tính phổ rộng, tác giả đã lựa chọn một cái nhìn bao quát. Nghiên cứu tiến
hành xác định các dân tộc của khu vực Tây Bắc theo họ ngôn ngữ. Theo ý kiến của tác giả
Trần Trí Dõi, hiện nay, khu vực Tây Bắc có sự hiện diện của bốn trên tổng số năm họ ngôn
ngữ hiện có mặt tại Việt Nam. Bốn họ ngôn ngữ có mặt ở khu vực Tây Bắc gồm: Thứ nhất là
họ ngôn ngữ Tai - Ka dai bao gồm các dân tộc: Thái, Tày, Nùng, Cao Lan, Thổ, Lự, Lào,
Giáy, Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng,...Thứ hai là họ ngôn ngữ Mông - Dao (Mông - Miền) bao
gồm các dân tộc: Mông, Dao,...Thứ ba là họ ngôn ngữ Môn - Khơ Me bao gồm các dân tộc là
Việt (Kinh), Mƣờng, Mảng, Cống, La Ha,... Thứ tƣ là họ ngôn ngữ Hán - Tạng (Tạng - Miến)
bao gồm các dân tộc Hoa, Si La,...
Nhƣ vậy có thể thấy, khu vực Tây Bắc là nơi tụ cƣ của nhiều dân tộc thuộc nhiều họ
ngôn ngữ khác nhau. Mặc dù các dân tộc ở khu vực Tây Bắc có số lƣợng dân số khác nhau
nhƣng dân tộc nào cũng có ngôn ngữ của riêng mình. Một số dân tộc thiểu số trong quá trình
phát triển không chỉ có tiếng nói mà còn có cả chữ viết điển hình nhƣ các dân tộc: Thái,
Mông, Dao, Hoa. Chữ viết của các dân tộc này đã sử dụng nhiều kiểu mẫu tự để ghi lại tiếng
nói của mình. Có thể phân chia chữ viết của các dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Bắc thành ba
nhóm mẫu tự sau đây:
Mẫu tự Ấn Độ Trung Hoa La tinh
Dân tộc Thái Dao, Hoa Mông
2.4. Vấn đề giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và giáo dục ngôn ngữ quốc gia đối với một số dân tộc
thiểu số có chữ viết ở khu vực Tây Bắc
Nghiên cứu sử dụng khái niệm dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Bắc hoàn toàn trùng với
khái niệm dân tộc thiểu số trong bảng danh sách các dân tộc Việt Nam. Sở dĩ phải giải thích nhƣ
vậy vì nếu xét riêng ở khu vực Tây Bắc thì dân tộc Kinh (Việt) lại có số lƣợng ít hơn so với dân
tộc Thái. Tuy nhiên xuất phát từ vấn đề của đề tài mà tác giả muốn trình bày là vấn đề giáo dục
tiếng Việt (ngôn ngữ quốc gia) và giáo dục tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ mẹ đẻ) cho nên nghiên cứu
sẽ giữ nguyên nội hàm của khái niệm dân tộc thiểu số (những dân tộc sinh sống tại Việt Nam,
có tên trong bảng danh sách các dân tộc Việt Nam theo số dân, trừ dân tộc Kinh).
Vấn đề giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ đối với các dân tộc thiểu số đã đƣợc đề cập đến trong
nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nƣớc. Các công trình nghiên cứu
đó, dù xuất phát từ các quan điểm không giống nhau nhƣng đều thừa nhận tầm quan trọng của
ngôn ngữ mẹ đẻ đối với mỗi cá nhân cũng nhƣ mỗi tộc ngƣời và rộng hơn là toàn xã hội. Về
vấn đề này, cho đến nay có thể kể ra ba mô hình điển hình trong việc giáo dục ngôn ngữ mẹ
đẻ đối với các dân tộc thiểu số ở Việt Nam: Thứ nhất, mô hình giáo dục song ngữ (ngôn ngữ
mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia); thứ hai, mô hình chú trọng giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ (chủ yếu)
còn ngôn ngữ quốc gia là thứ yếu và thứ ba, mô hình chú trọng giáo dục ngôn ngữ quốc gia
(chủ yếu) còn giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ là thứ yếu. Cùng với thời gian, có khá nhiều phƣơng
4
án giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ đã và đang đƣợc thử nghiệm. Kết quả đạt đƣợc ở các địa phƣơng
cũng có sự khác nhau. Tuy nhiên, có thể nói cho đến hiện nay, giới nghiên cứu vẫn đang loay
hoay trong việc lựa chọn một phƣơng thức giáo dục tiếng mẹ đẻ ƣu việt để có thể đạt đƣợc
hiệu quả nhƣ mong muốn.
Để có đƣợc các mô hình giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ, phải bắt đầu từ quan điểm của Đảng
và Nhà nƣớc về chính sách ngôn ngữ đối với vùng dân tộc thiếu số. Có thể khẳng định, chính
sách về ngôn ngữ là đúng đắn và thể hiện rõ quan điểm nhân văn của Đảng và Nhà nƣớc trong
định hƣớng phát triển xã hội. Một số văn bản pháp lí nhƣ Quyết định số 53/CP ngày
22/2/1980 của Thủ tƣớng Chính phủ xác định: “Tiếng nói và chữ viết hiện có của các dân tộc
thiểu số đƣợc Nhà nƣớc tôn trọng, duy trì và giúp đỡ phát triển” (...) “Ở các vùng dân tộc
thiểu số, tiếng nói và chữ dân tộc đƣợc dùng đồng thời với tiếng và chữ phổ thông” (...) “Ở
những nơi ngƣời dân ít biết hoặc không biết tiếng phổ thông, cần dạy chữ dân tộc xen kẽ với
tiếng và chữ phổ thông”. Hiến pháp năm 1992, điều 5 quy định: “Các dân tộc có quyền dùng
tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền
thống và văn hóa tốt đẹp của mình”. Nhƣ vậy về đƣờng lối chính sách đã có, về đối tƣợng của
chính sách cũng đã đƣợc xác định rõ ràng. Vấn đề còn lại là các giải pháp và cách thức tổ
chức thực hiện để biến những chủ trƣơng đúng đắn của chính sách trở thành kết quả trong
thực tiễn. Song đây có lẽ lại là vấn đề nan giải nhất mà nhƣ nhiều nhà nghiên cứu đã nói một
cách hàm ý là từ chính sách đến thực tiễn của đời sống là một chặng đƣờng dài.
Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Trần Trí Dõi ở Nghệ An, Sơn La và Tuyên Quang
năm 2004 cho thấy ngƣời dân tộc thiểu số có nhu cầu thiết tha trong việc học tiếng dân tộc
mình (tiếng mẹ đẻ). Điều đó đƣợc cụ thể qua các số liệu thống kê về nhu cầu học tiếng mẹ đẻ:
Tỉ lệ thấp nhất là 88,1% và tỉ lệ cao nhất là 100% [3]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Khang và
những cộng sự của ông năm 2009 đối với ngƣời Chăm ở An Giang cũng cho kết quả tƣơng tự
khi nhu cầu học tiếng mẹ đẻ của ngƣời Chăm chiếm đến 99% [4]. Gần đây, nghiên cứu có tiến
hành một khảo sát đối với học sinh dân tộc Mông tại 04 trƣờng nội trú của bốn huyện ở tỉnh
Sơn La cho kết quả nhƣ sau:
Đơn vị
Số học sinh
đƣợc phỏng vấn
Có nhu cầu học
chữ Mông Việt Nam
Không có nhu cầu học
chữ Mông Việt Nam
Số lƣợng Tỉ lệ Số lƣợng Tỉ lệ
Trƣờng DTNT Mộc Châu 92 90 97,82% 2 2,18%
Trƣờng DTNT Bắc Yên 89 88 98,87% 1 1,13%
Trƣờng DTNT Phù Yên 75 73 97,33% 2 2,67%
Trƣờng DTNT Mƣờng La 46 42 91,30% 4 8,7%
Ghi chú: DTNT: Dân tộc nội trú
Nhƣ vậy rõ ràng ngƣời dân tộc thiểu số có nhu cầu học ngôn ngữ mẹ đẻ của mình và
nhu cầu đó là rất lớn. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần là có nhu cầu thì cũng chƣa có đủ cơ sở để
giúp cho việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ thành công. Tuy vậy vẫn phải khẳng định rằng nhu
5
cầu là một yếu tố rất quan trọng ảnh hƣởng đến kết quả của việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ.
Bởi không thể tiến hành các cách thức giáo dục ngôn ngữ đối với ngƣời không có nhu cầu.
Nhu cầu sẽ quyết định thái độ trong việc học tập ngôn ngữ mẹ đẻ. Trƣờng hợp của ngƣời Dao
và ngƣời Thái ở Tây Bắc là một ví dụ. Có thể nói, từ xƣa đến nay, ngƣời Dao giáo dục ngôn
ngữ mẹ đẻ của mình (tiếng nói và chữ viết) chủ yếu thông qua cơ chế truyền thừa và giáo dục
từ môi trƣờng gia đình mà hầu nhƣ không có sự tác động của môi trƣờng giáo dục nhà trƣờng.
Những ngƣời thông thái ngôn ngữ Dao nhất nằm ở bộ phận các thầy mo. Hầu hết các thầy mo
ngƣời Dao đều có thể đọc và viết thành thạo chữ Nôm Dao. Họ ghi chép và đọc chữ Nôm Dao
với mục đích là biết đƣợc các bài văn khấn và xa hơn nữa là các ghi chép về truyền thống văn
hóa của dân tộc mình. Vậy cơ sở nào giúp họ có thể có khả năng đó? Câu trả lời xuất phát từ
chính nhu cầu cần học ngôn ngữ mẹ đẻ để có thể kế tục đƣợc các thế hệ ông cha trong dòng
chảy liên tục của phong tục, tín ngƣỡng và văn hóa. Hiện nay, tục Cấp sắc của ngƣời Dao vẫn
đƣợc duy trì và ngƣời giữ linh hồn cho tục Cấp sắc không ai khác chính là những thầy mo
thông thạo ngôn ngữ và văn hóa Dao. Với ngƣời Thái, những trí thức ngƣời Thái sở dĩ có thể
đọc thông viết thạo chữ Thái cổ, đa phần là vì họ đƣợc giáo dục từ môi trƣờng gia đình và
chắc chắn động cơ của việc học thành công chữ Thái cổ cũng xuất phát từ nhu cầu cần học
ngôn ngữ mẹ đẻ để lƣu giữ các giá trị văn hóa của dân tộc mình.
Hiện nay, đối với các dân tộc thiểu số nói chung cũng nhƣ các dân tộc thiểu số ở khu
vực Tây Bắc nói riêng, ngôn ngữ mẹ đẻ đƣợc họ tiếp thu từ hai môi trƣờng chủ yếu là môi
trƣờng gia đình và môi trƣờng xã hội hẹp (giao tiếp trong cộng đồng dân tộc). Môi trƣờng
giáo dục nhà trƣờng trong việc dạy ngôn ngữ mẹ đẻ hiện nay ở khu vực Tây Bắc vẫn còn
nhiều tồn tại và bất cập. Trong các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc, Điện Biên là tỉnh đã và đang
chú trọng công tác dạy tiếng mẹ đẻ trong nhà trƣờng với “Đề án dạy tiếng Thái, Mông cho
học sinh tiểu học và trung học cơ sở giai đoạn 2011 - 2015, định hƣớng đến năm 2020”. Sau 2
năm triển khai, Sở Giáo dục - Đào tạo đã triển khai dạy tiếng Mông cho học sinh lớp 3 tại 3
huyện: Mƣờng Chà, Tuần Giáo và Tủa Chùa ở 7 trƣờng tiểu học với tổng số 12 lớp; dạy tiếng
Thái cho học sinh lớp 3 tại 2 huyện: Điện Biên, Tuần Giáo ở 8 trƣờng tiểu học với 15 lớp.
Năm học 2012 - 2013 triển khai dạy tiếng Mông cho học sinh lớp 3 và lớp 4 tại 5 huyện:
Mƣờng Chà, Tuần Giáo, Tủa Chùa, Điện Biên Đông, Mƣờng Nhé ở 18 trƣờng tiểu học với
tổng số 41 lớp; dạy tiếng Thái cho học sinh lớp 3 và lớp 4 tại 8 huyện, thị xã với tổng số 22
trƣờng. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã mở 16 lớp với gần 400 học viên học tại Trung tâm Ngoại
ngữ - Tin học tỉnh và Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên cấp huyện với thời gian học tập 3
tháng cho các cán bộ làm công tác dân tộc. Tại các tỉnh Sơn La, Lai Châu cũng tổ chức những
lớp học ngắn hạn hoặc trung hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức tuy nhiên hiệu quả của
đào tạo còn là vấn đề cần tiếp tục thảo luận. Nhƣ vậy có thể thấy, trong ba môi trƣờng quan
trọng giúp cho ngôn ngữ có thể phát triển là gia đình, nhà trƣờng và xã hội thì việc giáo dục
ngôn ngữ mẹ đẻ của ngƣời dân tộc thiểu số đang thiếu một môi trƣờng quan trọng là trƣờng
học (nhà trƣờng). Tuy nhiên, nếu một cá nhân đƣợc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ tốt bởi hai môi
trƣờng là gia đình và xã hội thì việc tiếp thu ngôn ngữ mẹ đẻ vẫn có thể nằm trong vùng an
toàn. Tức là vẫn duy trì đƣợc tính truyền thừa của ngôn ngữ mẹ đẻ và vẫn có thể dùng ngôn
ngữ mẹ đẻ trong hoạt động hành chức (trong giao tiếp). Hiện nay, có một thực tiễn là ngôn
ngữ mẹ đẻ đang bị thui chột ngay trong chính môi trƣờng gia đình của ngƣời dân tộc thiểu số.
6
Đối với một bộ phận không nhỏ cƣ dân ngƣời dân tộc thiểu số sống ở các vùng trung tâm của
miền núi nhƣ thị trấn, thị xã, thành phố thì việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ trong sinh hoạt gia
đình đã hạn chế đi rất nhiều. Trong sinh hoạt, mọi ngƣời giao tiếp với nhau bằng tiếng Việt là
chủ yếu. Khảo sát của tác giả tại 04 thị trấn của tỉnh Sơn La là Ít Oong (Mƣờng La), Mộc
Châu, Phù Yên và Bắc Yên, tỉ lệ trung bình sử dụng tiếng mẹ đẻ trong đời sống sinh hoạt
hàng ngày là 42,36%. Tác giả cũng tiến hành một khảo sát tƣơng tự ở 03 phƣờng của thành
phố Sơn La là Chiềng Lề, Quyết Tâm và Chiềng Sinh thì tỉ lệ trung bình ngƣời dân tộc thiểu
số sử dụng tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt còn thấp hơn với kết quả là 33,21%. Trong giao tiếp
thƣờng ngày (giao tiếp khi mua bán, gặp gỡ, chào hỏi xã giao) do đặc điểm đan xen trong
cộng cƣ giữa các dân tộc trên cùng một địa bàn cƣ trú cho nên hầu nhƣ ngƣời dân tộc thiểu số
lại chọn tiếng Việt khi trao đổi thông tin với nhau và với ngƣời thuộc dân tộc khác.
Về vấn đề chữ viết, ngƣời dân tộc thiểu số luôn có một nguyện vọng tha thiết với chữ
viết của dân tộc mình. Tại Sơn La, những ngƣời có thể đọc và hiểu đƣợc chữ Thái cổ, chữ
Nôm Dao, chữ Hoa, chữ Mông đều nhận đƣợc sự tôn trọng, ngƣỡng mộ của những ngƣời
trong cùng cộng đồng dân tộc và thậm chí cả những ngƣời của dân tộc khác. Đại bộ phận
ngƣời Thái, Dao, Mông, Hoa đều mong muốn đƣợc biết và sử dụng đƣợc chữ viết của dân tộc
mình. Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau mà số lƣợng ngƣời hiện nay có thể sử dụng chữ
viết của dân tộc mình không những không tăng lên mà lại có xu hƣớng ngày càng ít đi so với
khoảng 50 năm về trƣớc. Theo tác giả, đây thực sự đang là một hiện tƣợng đáng báo động.
Bởi, khi số lƣợng ngƣời biết chữ ngày càng ít thì cũng có nghĩa là các giá trị văn hóa đƣợc lƣu
giữ bằng văn bản sẽ bị mai một cùng với thời gian. Đến một lúc nào đó, nếu nhƣ không còn ai
có thể đọc và hiểu đƣợc các văn bản đó thì cũng có nghĩa là một vùng văn hóa rất có thể rơi
vào quên lãng hoặc muốn gìn giữ nó thì cũng phải mất rất nhiều thời gian, công sức và tiển
của mà chƣa chắc đã đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn.
Quả thực, vấn đề giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ cho các dân tộc thiểu số là một vấn đề nan
giải. Những thử nghiệm đã áp dụng có thể nói vẫn đang là một quá trình “dò đƣờng”. Theo
tác giả, để đạt đƣợc hiệu quả của việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ cho một dân tộc là một công
việc đòi hỏi tính thực tiễn rất cao. Nghĩa là rất không nên định hình một hệ lí thuyết giáo dục
chung chung rồi đem áp dụng đại trà nhƣ chúng ta đã từng áp dụng cho chƣơng trình dạy chữ
Thái và chữ Mông. Việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ phải bắt đầu từ giáo dục ý thức tộc ngƣời
đối với từng cá nhân của dân tộc đó. Chỉ khi nào một ngƣời Thái thấy rằng tiếng Thái rất có ý
nghĩa với họ, với dân tộc của họ thì họ mới có ý thức để học tập, trao truyền, và phổ biến
trong cộng đồng mà họ sống. Giáo dục ý thức và tình yêu ngôn ngữ mẹ đẻ thì có thể làm đƣợc
từ gia đình, nhà trƣờng. Đối với nhà trƣờng, ở các cấp học, có lẽ nên dành một phần chƣơng
trình dành cho việc giáo dục văn hóa truyền thống các dân tộc. Rộng hơn nhà trƣờng là tại các
bản, xã, và các cụm dân cƣ, cũng hoàn toàn có thể tổ chức đƣợc những hoạt động sinh hoạt
văn hóa văn nghệ, các trò chơi dân gian và thậm chí cả các hội thi sử dụng tiếng dân tộc thiểu
số. Cùng với đó là công tác đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ giáo viên dạy tiếng dân tộc cho các
nhà trƣờng, tại các vùng có ngƣời dân tộc sinh sống. Cần xây dựng chƣơng trình giúp cho
ngƣời dân tộc thiểu số từ khi bƣớc vào lớp một đến khi kết thúc chƣơng trình phổ thông có
thể đọc, viết và hiểu đƣợc ngôn ngữ của dân tộc mình sẽ là một thành công lớn trong việc dạy
tiếng mẹ đẻ. Thêm vào đó, nên coi ngôn ngữ dân tộc nhƣ một môn học tự chọn trong sự đối
7
sánh với môn ngoại ngữ. Bởi vì thực tế lợi ích của việc học ngoại ngữ là để biết nhiều hơn về
bên ngoài nhƣng thực tiễn có một bộ phận không nhỏ ngƣời học lại rất coi trọng việc biết
nhiều hơn về bên trong (văn hóa của chính dân tộc mình). Tạo cho ngƣời học hai sự lựa chọn
sẽ đƣa đến hai kết quả là có một bộ phận ngƣời dân tộc thiểu số chuyên sâu với việc học
ngoại ngữ để phục vụ cho nhu cầu công việc của mình nhƣng cũng có một bộ phận trí thức
ngƣời dân tộc thiểu số thông thạo ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) của chính dân tộc mình để
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, công tác và làm việc ngay trên chính địa phƣơng họ sinh ra.
Tiếng Việt với vai trò của một ngôn ngữ quốc gia đã và đang thể hiện đƣợc tầm quan
trọng đối với đời sống của các dân tộc trên đất nƣớc Việt Nam. Chính ý nghĩa quan trọng này
nên trong hệ thống giáo dục quốc dân đã xác định việc giáo dục tiếng Việt chính là một cách để
đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Bằng những chính sách cụ thể, nƣớc ta đang rất nỗ
lực để giúp cho các dân tộc đều đƣợc thụ hƣởng quyền bình đẳng trong việc giáo dục ngôn ngữ
quốc gia (tiếng Việt). Ngày 04/5/2013, tại Quyết định số 692/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án
xóa mù chữ đến năm 2020 đã cho thấy quyết tâm của Chính phủ trong việc tiếp tục xóa mù chữ,
tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp cho mọi ngƣời dân đều có thể đƣợc học tiếng Việt.
Thực tiễn ở khu vực Tây Bắc cho thấy, không chỉ những dân tộc có chữ viết nhƣ Thái,
Dao, Mông, Hoa mà tất các các dân tộc khác đều có nhu cầu đƣợc học tiếng Việt. Nghiên cứu
của các tác giả Trần Trí Dõi (2004) và Nguyễn Văn Khang (2009) đã cho thấy tỉ lệ ngƣời dân
tộc thiểu số ở Sơn La, Nghệ An, Tuyên Quang và An Giang đều cao, dao động ở mức 98%
đến 100%. Nhu cầu này xuất phát từ chính chức năng của tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông,
thạo tiếng Việt sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho họ khi tham gia các hoạt động của đời sống
nhƣ trao đổi mua bán, giao tiếp với ngƣời của dân tộc khác bằng tiếng Việt và sâu hơn là sự
giao lƣu về văn hóa.
Nhƣ đã phân tích ở trên, nhu cầu học và sử dụng tiếng Việt của ngƣời dân tộc thiểu số
lớn và mạnh đến mức nhiều khi họ đã hạn chế sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình trong những
hoàn cảnh giao tiếp hoàn toàn có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ (môi trƣờng gia đình). Vậy định vị
vai trò của tiếng Việt nhƣ thế nào cho đúng tại vùng dân tộc thiểu số là một vấn đề rất quan
trọng. Xác định đúng vấn đề này sẽ giúp cho ngôn ngữ quốc gia có tính phổ cập trên cả nƣớc,
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển về kinh tế, xã hội và văn hóa.
Về vấn đề giáo dục ngôn ngữ quốc gia (tiếng Việt) ở vùng dân tộc thiểu số, trƣớc hết
cần giúp cho ngƣời dân tộc thiểu số nhận thức đƣợc việc học tiếng Việt là quyền và nghĩa vụ
của mỗi ngƣời. Xác định là quyền vì mọi hành vi ngăn cản việc học tiếng Việt đều bị coi là vi
phạm vào quyền công dân. Học tiếng Việt cũng là nghĩa vụ vì thông qua học tiếng Việt sẽ
giúp nhận thức đƣợc nhiều hơn tri thức của khoa học kĩ thuật để áp dụng vào sản xuất và có
thể hiểu rộng hơn về văn hóa, phong tục của các dân tộc khác cùng sinh sống trên đất nƣớc
Việt Nam. Ngoài việc giúp ngƣời dân tộc thiểu số nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của học
tiếng Việt thì thực hiện việc giáo dục tiếng Việt với vai trò là ngôn ngữ thứ hai cũng rất quan
trọng. Chính vì tầm quan trọng mà trong một nghiên cứu của mình, tác giả Trần Trí Dõi đã
đƣa ra khái niệm “ngôn ngữ mẹ đẻ thứ hai” với ngƣời dân tộc thiểu số là tiếng Việt [3]. Hiện
nay, khung chƣơng trình giáo dục tiếng Việt đang đƣợc thực hiện ở các cấp học tại các vùng
trong cả nƣớc là giống nhau. Theo tác giả, điểm này cần đƣợc điều chỉnh. Bởi vì, nếu nhƣ đối
8
với học sinh ngƣời Kinh, việc học tiếng Việt chính là học tiếng mẹ đẻ của mình thì với học
sinh ngƣời dân tộc thiểu số, tiếng Việt dù hiểu thế nào đi chăng nữa vẫn là ngôn ngữ thứ hai
của họ. Do đó, cần phải tăng thời lƣợng cho môn Ngữ văn nói chung và tiếng Việt nói riêng.
Thời lƣợng này vẫn chấp nhận chọn giải pháp: Ngoài chƣơng trình chính khóa cần đƣa thêm
vào chƣơng trình phần tự chọn để có thêm nhiều thời gian hơn cho việc học tiếng Việt đối với
học sinh là ngƣời dân tộc thiểu số. Thực tiễn giảng dạy môn Ngữ văn tại các trƣờng phổ thông
ở khu vực miền núi cho thấy học sinh ngƣời dân tộc thiểu số thƣờng mắc nhiều lỗi trong phát
âm, chính tả và đặc biệt là gặp khó khăn trong việc hiểu ý nghĩa của lớp từ Hán Việt trong
vốn từ tiếng Việt. Đƣa thêm phần tự chọn trong chƣơng trình giáo dục phổ thông chính là đầu
tƣ thêm thời gian để nhằm khắc phục những hạn chế đó.
2.5. Từ việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia hướng đến sự phát triển bền vững
Giáo dục ngôn ngữ là trang bị cho con ngƣời công cụ để tƣ duy và phƣơng tiện để giao
tiếp. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà khoảng cách giữa các khu vực trong cả nƣớc đang ngày
càng đƣợc thu hẹp nhờ những tiến bộ của khoa học kĩ thuật và công nghệ thì việc giáo dục
ngôn ngữ tại các khu vực đặc thù nhƣ Tây Bắc càng trở nên quan trọng.
Trƣớc hết có thể khẳng định nếu làm tốt việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ
quốc gia sẽ tạo nên một sự phát triển bền vững tại khu vực Tây Bắc. Phát triển là rất cần thiết
nhƣng phát triển bền vững còn cần thiết hơn nhiều vì nó đảm bảo cho sự phát triển trong cả
hai chiều là thời gian và không gian. Xác định phát triển bền vững là hƣớng đi chủ đạo sẽ
định hƣớng cho công tác phát triển nguồn nhân lực (ngƣời lao động). Khi chủ thể của khu vực
Tây Bắc là yếu tố con ngƣời đƣợc quan tâm phát triển một cách toàn diện cả về khoa học kĩ
thuật hiện đại lẫn văn hóa truyền thống của dân tộc mình thì diện mạo của khu vực Tây Bắc
sẽ đổi thay theo hƣớng hiện đại mà vẫn giữ đƣợc những đặc trƣng truyền thống. Ngôn ngữ
quốc gia và ngôn ngữ mẹ đẻ giúp phát triển bền vững vì ngôn ngữ quốc gia, giúp cho sự giao
lƣu, trao đổi, hợp tác, học hỏi giữa ngƣời dân tộc thiểu số với các dân tộc khác và thậm chí là
với thế giới đƣợc thuận lợi hơn. Trong khi đó, ngôn ngữ mẹ đẻ lại giúp bảo tồn các giá trị văn
hóa tinh thần của dân tộc. Hiểu đƣợc ý nghĩa và mối quan hệ tƣơng hỗ của ngôn ngữ quốc gia
và ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ giúp cho việc giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đạt hiệu
quả và tránh đƣợc mâu thuẫn của hai khái niệm phát triển và bảo tồn.
Vấn đề giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia đối với các dân tộc có chữ viết ở
khu vực Tây Bắc có ý nghĩa bao quát. Thực tế cho thấy khu vực Tây Bắc mặc dù đa dân tộc,
đa ngôn ngữ nhƣng ngôn ngữ của những dân tộc có chữ viết lại có ý nghĩa của những “ngôn
ngữ phổ thông vùng”. Nghĩa là những ngôn ngữ này đƣợc nhiều dân tộc khác dùng để sử
dụng trong giao tiếp. Trong điều kiện của một quốc gia đang phát triển nhƣ nƣớc ta, khi ngân
sách đầu tƣ cho giáo dục nói chung và giáo dục đối với ngƣời dân tộc thiểu số nói riêng còn
gặp nhiều khó khăn thì hƣớng đi chọn những ngôn ngữ có tính phổ thông vùng để đầu tƣ phát
triển trƣớc là một cách làm đúng đắn (điều này đƣợc thể hiện thông qua các chƣơng trình dạy
tiếng và dạy chữ). Cách làm này không những giúp ích thiết thực cho chính những ngôn ngữ
đã có chữ viết mà còn phần nào giảm bớt những khó khăn trong giao tiếp đối với các dân tộc
thiểu số khác trong vùng.
9
3. Kết luận
Phát triển là một quy luật của tự nhiên và xã hội. Vấn đề giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và
ngôn ngữ quốc gia để thúc đẩy sự phát triển cũng không nằm ngoài quy luật đó. Muốn phát
triển kinh tế, xã hội và văn hóa của một quốc gia hay một khu vực thì nhất thiết phải quan tâm
đến nhân tố con ngƣời. Khu vực Tây Bắc của Việt Nam có thể coi là một khu vực có nhiều
nét đặc trƣng về ngôn ngữ và văn hóa. Vì thế cần có một quan điểm toàn diện, chú trọng đến
thực tiễn trong công tác giáo dục ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ quốc gia. Phát triển ngôn ngữ
quốc gia sẽ tạo sự bình đẳng cho tất cả các dân tộc còn phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ bảo tồn
và lƣu giữ đƣợc sự đa dạng về văn hóa các dân tộc nhƣ câu nói của Irina Bokova - Tổng Giám
đốc UNESCO: “Việc bảo vệ và thúc đẩy ngôn ngữ mẹ đẻ là chìa khóa của công dân toàn cầu
và của sự hiểu biết lẫn nhau một cách thực sự. Hiểu và nói nhiều hơn một ngôn ngữ sẽ giúp
hiểu hơn về sự phong phú trong tƣơng tác văn hóa trên thế giới. Việc công nhận ngôn ngữ địa
phƣơng cho phép nhiều ngƣời thể hiện tiếng nói của mình hơn và trở nên tích cực trong sứ
mệnh tập thể của họ”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hoàng Thị Hòa Bình (2006). Nghiên cứu chƣơng trình dạy ngôn ngữ quốc gia cho học
sinh phổ thông một số nƣớc. Đề tài NCKH cấp Bộ, Viện Chiến lƣợc và Chƣơng trình
Giáo dục.
[2] Trần Trí Dõi (2004). Chính sách ngôn ngữ văn hóa dân tộc ở Việt Nam. Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[3] Trần Trí Dõi (2011). Những vấn đề chính sách ngôn ngữ và giáo dục ngôn ngữ vùng
dân tộc thiểu số Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
[4] Nguyễn Văn Khang (2009). Khảo sát nghiên cứu vai trò của tiếng nói và chữ viết Chăm
trong đời sống xã hội của ngƣời Chăm hiện nay: Thực trạng và kiến nghị đề xuất. Đề tài
NCKH cấp Bộ, Viện Ngôn ngữ học.
[5] Vƣơng Toàn (chủ biên) (2002). Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
từ những năm 90. Viện Thông tin Khoa học Xã hội.
SOME EDUCATIONAL ISSUES IN TEACHING MOTHER TONGUE LANGUAGES
AND THE NATIONAL LANGUAGE FOR ETHNIC MINORITIES
IN THE NORTHWEST OF VIETNAM (A case study in Son La)
Nguyen Trung Kien
Tay Bac University
Abstract: Vietnam is a country with a quite big population and diverse in ethnic groups. In the process of
development, there are many issues that need to be sorted out and solved. Among them, the problems of
balancing the national language (Vietnamese) and the native language (mother tongue) for ethnic minorities to
ensure the equality of the peoples living in Vietnam's territory is of great concern. It significantly contributes to
the preservation of the cultural identity of ethnic peoples. The report focuses on language education for ethnic
minorities who have their own writing systems. It is hoped that a regional study in a specific participant
informants can contribute a small part to promote the sustainable development of the region.
Keywords: National language, native language, ethnicity and development.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8_6556_2135950.pdf