Tài liệu Một số vấn đề về bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho lao động di cư vùng biên - Nguyễn Hồng Nhung: 38
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH CHÍNH ĐÁNG
CHO LAO ĐỘNG DI CƯ VÙNG BIÊN
Nguyễn Hồng Nhung*
TÓM TẮT
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, xuất phát từ nhu cầu tìm kiếm cơ hội
việc làm và cải thiện cuộc sống đã tạo nên sự gia tăng nhanh chóng của tình trạng di cư lao động
quốc tế. Bên cạnh sự đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của cả nước xuất khẩu và nước nhập
khẩu lao động, vấn đề này cũng tạo ra nhiều khó khăn, thách thức với việc thực thi pháp luật và bản
thân người lao động di trú. Từ thực tiễn cho thấy, tính chất đặc thù về vị thế và quyền lợi của người
lao động di cư tại vùng biên giới chưa được ghi nhận, quan tâm đúng mức dẫn đến tình trạng họ bị
phân biệt đối xử, bóc lột, bị xâm phạm các quyền và lợi ích cơ bản. Bài viết tập trung phân tích thực
trạng vấn đề lao động di cư quốc tế tại vùng biên nước ta hiện nay, qua đó đề xuất một số khuyến
nghị trong quản lý, bảo vệ, hỗ trợ lao động Việt Nam ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 712 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho lao động di cư vùng biên - Nguyễn Hồng Nhung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH CHÍNH ĐÁNG
CHO LAO ĐỘNG DI CƯ VÙNG BIÊN
Nguyễn Hồng Nhung*
TÓM TẮT
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, xuất phát từ nhu cầu tìm kiếm cơ hội
việc làm và cải thiện cuộc sống đã tạo nên sự gia tăng nhanh chóng của tình trạng di cư lao động
quốc tế. Bên cạnh sự đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của cả nước xuất khẩu và nước nhập
khẩu lao động, vấn đề này cũng tạo ra nhiều khó khăn, thách thức với việc thực thi pháp luật và bản
thân người lao động di trú. Từ thực tiễn cho thấy, tính chất đặc thù về vị thế và quyền lợi của người
lao động di cư tại vùng biên giới chưa được ghi nhận, quan tâm đúng mức dẫn đến tình trạng họ bị
phân biệt đối xử, bóc lột, bị xâm phạm các quyền và lợi ích cơ bản. Bài viết tập trung phân tích thực
trạng vấn đề lao động di cư quốc tế tại vùng biên nước ta hiện nay, qua đó đề xuất một số khuyến
nghị trong quản lý, bảo vệ, hỗ trợ lao động Việt Nam di trú tại vùng tiếp giáp với đường biên giới
trên đất liền của Việt Nam.
Từ khóa: lao động di cư, pháp luật, tính chất đặc thù, văn kiện, vùng biên
SOME ISSUES ON PROTECTING LEGITIMATE RIGHTS AND INTERESTS
FOR BORDER MIGRANT WORKERS
ABSTRACT
In the trend of globalization and international economic integration, the need to seek
employment opportunities and improve lives has created a rapid increase in international labor
migration. Besides the positive contribution to the economic development of both the exporting
country and the labor-importing country, this issue also creates many difficulties and challenges
with law enforcement and migrant workers themselves. From reality shows, the specificity of the
position and interests of migrant workers in the border areas has not been recognized, paid due
attention. Resulting in discrimination, exploitation and infringement of basic rights and interests. The
paper focuses on analyzing the current situation of international migration labor in the border areas
of our country today. thereby proposing recommendations in anaging, protecting and supporting
Vietnamese workers to migrate in areas adjacent to roads land border of Vietnam.
Keywords: migrant workers, law, specific characteristics, documents, border areas
* Phân hiệu Học viện phụ nữ Việt Nam. Email: nhungbinhduong277@gmail.com
Điện thoại: 0908.013.550
39
1. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG DI
CƯ QUỐC TẾ TẠI VÙNG BIÊN NƯỚC
TA HIỆN NAY
Quyền của người lao động được coi là
một trong những quyền cơ bản nhất trong phạm
trù quyền con người đã được các quốc gia ghi
nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế và trong
hệ thống pháp luật của từng nước. Việt Nam đã
từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung, cũng như các chính sách liên quan đến
việc ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền làm việc,
tự do lựa chọn việc làm và các quyền cơ bản
khác của người lao động Việt Nam cả trong nước
và ở nước ngoài. Theo Bộ Lao động – Thương
binh và xã hội (2015) có trên 500 ngàn lao động
Việt Nam đang làm việc tại hơn 40 quốc gia và
số lượng này có xu hướng tăng dần qua các
năm. Giai đoạn 2016-2020, nước ta tiếp tục hội
nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, tạo điều kiện
thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao động theo định
hướng thị trường, mang lại nhiều cơ hội thay
đổi công việc và tăng thu nhập cho một bộ phận
lớn lao động nông nghiệp.
Lao động di cư có hai hình thức, lao động
di cư nội địa và di cư quốc tế. Trong bài viết,
khái niệm “lao động di cư” hay “lao động di
trú” được sử dụng để chỉ những người ra nước
ngoài làm việc. Bên cạnh đó, khái niệm “vùng
biên” dùng để chỉ vùng tiếp giáp với đường
biên giới trên đất liền của Việt Nam với các
nước láng giềng.
Việt Nam có vùng biên giới đất liền dài
khoảng 4.610 km tiếp giáp ba nước Trung Quốc,
Lào, Campuchia, nằm trên địa bàn 98 huyện
thuộc 25 tỉnh; trên cả ba tuyến biên giới đều có
các cửa khẩu thông thương với các nước láng
giềng (trong đó, biên giới Việt-Trung có 4 cửa
khẩu quốc tế, biên giới Việt –Lào có 7 cửa khẩu
quốc tế, biên giới Việt Nam-Campuchia có 10
cửa khẩu quốc tế) và tại một số khu vực đã hình
thành khu kinh tế cửa khẩu (theo Bùi Xuân Đính
và Nguyễn Ngọc Thanh, 2013). Các cửa khẩu
quốc tế và các khu kinh tế cửa khẩu đã tạo điều
kiện cho các địa phương và nhân dân phát huy
tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế với
nhiều hình thức khác nhau. Biên giới giữa Việt
Nam và các nước láng giềng được thông thương,
việc xuất nhập cảnh qua lại biên giới dễ dàng,
thuận lợi, đường biên giới dài, nhiều đường, lối
mở, sông suối, địa hình phức tạp, hiểm trở cùng
với nhiều cơ hội việc làm đã thu hút lao động
Việt Nam di chuyển qua biên giới làm việc, trao
đổi, buôn bán. Theo Hoàng Mạnh (2018) khoảng
139.000 lao động Việt Nam thường xuyên qua
lại biên giới trên bộ để tìm việc làm. Trong đó,
địa bàn giáp Trung Quốc khoảng 100.000 người,
Thái Lan khoảng 20.000 và Lào khoảng 13.000
người...Hoạt động di trú quốc tế của lao động tại
vùng biên với những tính chất đặc thù, đa dạng
hơn so với các khu vực khác.
Số liệu thu được từ mô hình hồi quy của
Đặng Thị Hoa (2016) cho thấy ngoại trừ yếu tố
yếu tố “Gia đình gặp khó khăn trong sản xuất do
thiếu đất sản xuất/đất xấu” ít có ảnh hưởng đến
khả năng lao động xuyên biên giới. Khả năng
lao động xuyên biên giới tỉ lệ nghịch với độ tuổi,
trình độ học vấn. Khi một cá nhân tăng thêm
một tuổi, khả năng đi làm việc ở bên kia biên
giới chỉ bằng 0,9 lần so với nhóm ít hơn 1 tuổi.
Số liệu phân tích cũng khẳng định tình trạng lao
động xuyên biên giới phổ biến ở các tỉnh phía
Bắc so với các tỉnh khu vực miền Trung Việt
Nam. Có nghĩa là tình trạng này phổ biến hơn ở
các khu vực thuộc biên giới Việt Nam – Trung
Quốc so với các khu vực biên giới khác.
Về lĩnh vực lao động: tại vùng biên người
lao động Việt Nam di cư sang nước ngoài làm
việc trên các lĩnh vực như: lao động phổ thông,
làm thuê tại các khu kinh tế cửa khẩu cho cá
doanh nghiệp hoặc cá nhân trong các lĩnh vực
như xây dựng, khai thác; lao động nông nghiệp
có tính chất giản đơn, thủ công (như trồng, khai
thác rừng, trồng-thu hoạch nông sản và các công
việc liên quan đến sản xuất nông nghiệp,);
công việc giúp việc gia đình; hộ lý cho người
lớn tuổi, mất sức lao động Theo kết quả khảo
Một số vấn đề về bảo vệ...
40
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
sát và phân tích của Đặng Thị Hoa (2016), phạm
vi hoạt động kinh tế của các hộ gia đình vùng
biên giới thường diễn ra trong phạm vi nội địa,
xu hướng di cư nội địa và di cư xuyên biên giới
của các gia đình như làm thuê 43,8%, công nhân
26,6% và các lĩnh vực khác sản xuất nông lâm
nghiệp, kinh doanh-dịch vụ. Thực tế này đã
phản ánh tình trạng người dân ở vùng biên có
nhu cầu tìm việc ở bên kia biên giới và đang dần
trở thành xu hướng việc làm khá phổ biến tại
vùng biên.
Tiếp cận góc độ giới:
Từ kết quả khảo sát và phân tích của Đặng
Thị Hoa (2016) cho thấy khả năng đi làm việc ở
vùng biên giới của nhóm nam giới cao hơn 2,2
lần so với nhóm nữ giới. Đối với người đi làm
thuê ở bên kia biên giới, đặc biệt là lao động nữ
trong các công việc như giúp việc gia đình, hộ lý
cho người lớn tuổi, mất sức lao độngtiềm ẩn
nhiều rủi ro, nguy cơ cao với những tác động tiêu
cực, mang lại hậu quả nghiêm trọng: bị quấy rối,
làm dụng tình dục; bị lừa đảo, lợi dụng bán vào
các ổ mại dâm, bán làm vợ, một số người mất
tích; tình trạng ép buộc mang thai; lựa chọn giới
tính thai nhi, nạo phá thai nhiều lần. Bên cạnh
đó, trẻ em được sinh ra có nguyên nhân từ việc
lừa đảo, buôn người, nô lệ tình dụcphải sống
trong điều kiện thiếu thốn, không được đảm bảo
những yêu cầu thiết yếu về chăm sóc y tế, giáo
dục, không được khai sinh, những vấn đề liên
quan các quyền của người mẹ Việt Nam đối với
con. Bên cạnh đó, vấn đề buôn bán phụ nữ, trẻ
em từ Việt Nam sang Trung Quốc, Campuchia
và đến các quốc gia khác có xu hướng ngày càng
gia tăng, diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến đời
sống và việc đảm bảo an ninh trật tự trên địa
bàn. Hành lang kinh tế Đông Tây nối liền ba
nước Việt Nam, Lào, Việt Nam đã góp phần làm
gia tăng cả việc di cư và nạn buôn bán người.
Theo Chấm dứt buôn bán người (2015), phụ nữ
bị buôn bán sang Trung Quốc chiếm 70% tổng
số phụ nữ bị buôn bán ra nước ngoài. Về nguyên
nhân, tình hình buôn bán phụ nữ, trẻ em gái từ
Việt Nam sang Trung Quốc xuất phát từ chính
sách hạn chế dân số, cùng tư tưởng trọng nam
khinh nữ, lựa chọn giới tính khi sinh dẫn đến
tình trạng thiếu hụt trầm trọng phụ nữ, một bộ
phận lớn nam giới không lấy được vợ. Bên cạnh
đó, theo Đặng Thị Hoa (2016), 15-23% lao động
tình dục ở Campuchia có nguồn gốc từ Việt Nam
với các cá nhân tham gia hoạt động mại dâm là
tự nguyện hoặc bị bắt buộc, tuy nhiên nguyên
nhân nợ nần là phổ biến nhất.
Về hình thức đi làm việc, lao động: Theo
Bùi Xuân Đính và Nguyễn Ngọc Thanh (2013),
thông thường các lao động Việt Nam đi thành
từng tốp 5-10 người, người dẫn đường là chủ
thuê lao động, người môi giới hoặc tự đi. Đối
với phương thức “tự đi”, do người lao động sau
quá trình đi làm việc ở bên kia biên giới hay dựa
vào các quan hệ (hôn nhân, huyết thống, bạn
bè) đã thông thuộc địa bàn, chủ động đến chủ
thuê lao động tìm, nhận việc không cần qua vai
trò của người môi giới.
Về thời gian làm việc, một bộ phận lao
động có thời gian làm việc ổn định, lâu dài.
Bên cạnh đó, do đặc thù về vị trí địa lý, tại vùng
biên phổ biến tình trạng lao động di cư làm việc
ngắn ngày theo mùa vụ, thường xuyên trở về
nước hàng ngày, hàng tuần hoặc tháng. Theo
Bùi Xuân Đính và Nguyễn Ngọc Thanh (2013),
thời gian làm thuê một đợt từ 1-2 tuần rồi về vì
một số công việc như chặt mía, trồng rừng là các
công việc nặng nhọc, rất tốn sức phải về để có
thời gian dưỡng sức.
Về vị thế pháp lý, một bộ phận người
lao động lao động ra nước ngoài làm việc theo
cách thức hợp pháp, thông qua các đơn vị dịch
vụ việc làm; một số khác theo con đường bất
hợp pháp, vi phạm các quy định về xuất, nhập
cảnh và hầu hết không có giấy phép làm việc,
hành nghề, không có hợp đồng lao động Năm
2017, tỉnh Điện Biên phát hiện 1.737 trường
hợp xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc, tăng
400 trường hợp so với năm 2016; Công an tỉnh
tổ chức 25 đợt tiếp nhận 99 trường hợp xuất
41
cảnh trái phép bị bắt trả về địa phương (dẫn theo
Lam Hạnh, 2017). Cũng trong năm 2017, trên
địa bàn tỉnh Nghệ An có 12.408 người lao động
đang làm việc ở vùng biên giới không có hợp
đồng theo quy định của Luật Người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài như: Lào -
5.693 người; Trung Quốc - 5.488 người; Thái
Lan - 564 người; Campuchia - 663 người (dẫn
theo nhóm P.V, 2017). Vị thế pháp lý bất hợp
pháp đã tạo cho họ nhiều khó khăn, rủi ro như
không được trả tiền công, bị trục xuất về nước
do không đủ giấy tờ hợp pháp; bị lực lượng chức
năng nước sở tại bắt, giam giữ, phạt tiền. Đặc
biệt là dễ bị các đối tượng xấu lợi dụng lừa đảo,
tiềm ẩn nhiều hệ lụy khác khi tính mạng, tài sản
khi không được pháp luật bảo hộ. Tình trạng
người lao động vượt biên trái phép có nhiều diễn
biến phức tạp đã ảnh hưởng an ninh trật tự và
đời sống của nhân dân trên địa bàn.
Từ một số phân tích từ thực trạng lao động
di cư quốc tế tại vùng biên nước ta cho thấy,
những vấn đề phát sinh từ thực tiễn phản ánh
tính chất đặc thù, sự đa dạng về vị thế và những
vấn đề bảo vệ lao động di cư quốc tế tại vùng
biên đang có xu hướng gia tăng nhưng chưa có
hành lang pháp lý chặt chẽ dẫn đến tình trạng
người lao động (nhất là lao động nữ, trẻ em) bị
xâm phạm các quyền, lợi ích cơ bản.
2. ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG HẠN CHẾ
CỦA LAO ĐỘNG DI CƯ QUỐC TẾ TẠI
VÙNG BIÊN NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Hạn chế
Quản lý quá trình di cư lao động và bảo vệ
lao động di cư, nhất là tại vùng biên là yêu cầu
tất yếu và rất cần thiết, tuy nhiên vấn đề này yêu
cầu sự hợp tác chặt chẽ của nhiều quốc gia liên
quan, nhất là các quốc gia nhận và gửi lao động.
Trên thực tế, một số quốc gia nhận lao động
không hưởng ứng sự kêu gọi hợp tác trong cải
thiện khuôn khổ pháp luật, cụ thể như trong cải
thiện điều kiện sống và làm việc cho người lao
động, xử lý vi phạm pháp luật (tệ buôn người,
lừa đảo,). Mặc dù một số văn kiện quốc tế,
trong đó có Khuyến nghị Diễn đàn ASEAN lần
thứ 7 năm 2014 triển khai Tuyên bố của ASEAN
về Bảo vệ và Thúc đẩy Quyền của lao động di
cư đã đề cập nhiều giải pháp cụ thể, thiết thực
góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
trong quản lý, bảo vệ quyền, lợi ích cho người
lao động di cư nhưng đến nay chưa được triển
khai thực hiện hiệu quả.
Xuất phát từ nhu cầu của thị trường lao
động các nước đã hình thành xu hướng nữ giới
hóa lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc,
nhưng hiện vẫn chưa có những chính sách, quy
định dựa trên cơ sở giới hay gắn kết với bình
đẳng giới nhằm bảo vệ quyền lợi và phúc lợi cho
lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài.
Công tác quản lý dân cư của chính quyền
cơ sở còn hạn chế; lực lượng chức năng làm
công tác quản lý, tuần tra biên giới còn thiếu
nên chưa ngăn chặn hiệu quả việc xuất cảnh trái
phép sang các quốc gia khác lao động làm thuê.
Đời sống kinh tế -xã hội tại vùng biên còn nhiều
khó khăn, hạn chế về cơ hội việc làm, hoạt động
lao động sản xuất thu nhập chưa ổn định, chưa
đảm bảo đời sống. Hệ thống y tế, giáo dục, bảo
trợ xã hội và các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ người
lao động nói chung và người lao động di cư nói
riêng chưa phát triển.
Trong pháp luật Việt Nam, theo Luật
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài (2006) đối với các hình thức theo người
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ, tổ
chức sự nghiệp; doanh nghiệp trúng thầu, nhận
thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài;
Hợp đồng theo hình thức thực tập nâng cao tay
nghề với doanh nghiệp: được quy định cụ thể về
quyền, nghĩa vụ của các chủ thể là doanh nghiệp,
tổ chức cá nhân làm cơ sở để giám sát, thực hiện
các chế tài đảm bảo cho quá trình thực hiện như
tổ chức bồi dưỡng kiến thức cho người lao động
trước khi đi làm việc; tổ chức quản lý, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động đi
làm việc ở nước ngoài; bảo đảm các điều kiện
Một số vấn đề về bảo vệ...
42
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
lao động, sinh hoạt, bảo hiểm xã hội; phối hợp
bên nước ngoài giải quyết những vấn đề phát
sinh khi người lao động chết, bị tai nạn lao động,
tai nạn rủi ro, bị bệnh nghề nghiệp, bị xâm hại
sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài
sản Tuy nhiên, đối với hình thức người Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá
nhân, vấn đề quyền và nghĩa vụ của người lao
động chỉ gắn với các cơ quan chức năng như:
Sở Lao động -Thương binh và xã hội, cơ quan
đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước
ngoài để được bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp; được tư vấn, hỗ trợ thực hiện các quyền,
lợi ích trong hợp đồng cá nhân. Với những hạn
chế, khó khăn đặc thù của khu vực vùng biên,
các quy định vừa nêu chưa thực sự khả thi trong
hỗ trợ, bảo vệ người lao động khi đi làm việc
theo hình thức hợp đồng cá nhân.
Thủ tục xuất khẩu lao động cồng kềnh,
nhiều chi phí trung gian và các khoản đóng góp
cho đơn vị tuyển dụng, mạng lưới môi giới như:
tiền môi giới, tiền ký quỹ, tiền dịch vụ (theo Bộ
Lao động-Thương binh và xã hội-Bộ Tài chính,
2007); ngoài ra còn tiềm ẩn nguy cơ không an
toàn khi người lao động có trình độ hiểu biết
thấp, ít có cơ hội tiếp cận một cách đầy đủ, cập
nhật với những thông tin chính sách, pháp luật.
Bộ Lao động Thương binh & xã hội Việt
Nam đã hỗ trợ, hướng dẫn cho 7 tỉnh giáp biên
phía Bắc ký biên bản ghi nhớ với các tỉnh của
Trung Quốc để đảm bảo quản lý và tạo điều kiện
cho lao động qua lại làm việc và cũng nhằm
tránh những rủi ro không đáng có (theo Hoàng
Mạnh, 2018). Sự hợp tác giữa các tỉnh đã tạo
điều kiện cho người lao động vùng giáp biên có
giấy tờ thông hành hợp pháp, việc đi hay ở đều
được hai bên kiểm tra, giám sát, lương bổng của
người lao động được trả đúng hợp đồng. Tuy
nhiên, đây mới chỉ là biện pháp mang tính chất
tình thế, về lâu dài, cần có hành lang pháp lý
thống nhất và quy định rõ ràng trong phối hợp sẽ
tạo điều kiện quản lý chặt chẽ cả người lao động
và chủ sử dụng lao động.
2.2. Một số nguyên nhân
Theo Bùi Xuân Đính và Nguyễn Ngọc
Thanh (2013), dân cư sống hai bên biên giới đa
phần là các dân tộc ít người; bên cạnh đó, các
tỉnh biên giới tỉ lệ hộ nghèo còn cao, tỉ lệ hộ
nghèo ở các huyện biên giới đều cao hơn so với
các huyện xa biên giới, tỉ lệ phát sinh nghèo và
cận nghèo vùng biên giới, vùng đồng bào DTTS
cao hơn vùng xa biên giới và vùng người Việt.
Tình trạng thiếu việc làm, thu nhập thấp, đời
sống kinh tế khó khăn là những yếu tố thúc đẩy
người dân đi làm việc bên kia biên giới.
Tâm lý gắn với nông nghiệp, làng bản và
tạo nên sự e ngại trước cơ hội việc làm tại địa
bàn khác như đô thị hay xuất khẩu lao động.
Đồng thời tác phong sống, lao động thiếu kỷ luật
của người lao động nhỏ tác động đến tính ổn
định, bền vững trong việc làm tại các khu vực
chính thức như doanh nghiệp, trang trại.
Sự dư thừa lao động nông nghiệp trong
thời kỳ nông nhàn đã đáp ứng nhu cầu lao động
phổ thông ở các vùng sản xuất nông lâm nghiệp
hàng hóa của các quốc gia láng giềng ở biên
giới, việc làm thuê ở nước láng giềng đối với
đồng bào dân tộc thiểu số lại có ưu thế: địa bàn
gần hơn so với đô thị, có cảnh quan làng-bản
miền núi tạo tâm lý yên tâm khi làm việc (theo
Bùi Xuân Đính và Nguyễn Ngọc Thanh, 2013).
Về điều kiện tự nhiên các vùng biên có
địa hình chia cắt phức tạp, dân cư phân tán, giao
thông đi lại khó khăn tạo ra áp lực và nhiều khó
khăn, hạn chế trong quản lý, theo dõi diễn biến,
hỗ trợ các tình huống khẩn cấp liên quan đến lao
động di cư trên địa bàn
3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
Một là, vấn đề cốt lõi nhất đóng vai trò
chủ đạo chính là tạo sự chuyển biến về nhận
thức và hành động của bản thân người lao động
song song với việc tăng cường khả năng bảo vệ
họ cũng chính là đảm bảo lợi ích cho các bên
liên quan. Trong đó, cần tiếp tục phát huy vai trò
trách nhiệm của các cơ quan Chính phủ, chính
quyền địa phương và các tổ chức chính trị-xã
43
hội, phát huy vai trò những người có uy tín trong
cộng đồng, nhất là cộng đồng của đồng bào dân
tộc thiểu số để tiếp cận, phối hợp thực hiện nỗ
lực trang bị cho người lao động di cư vùng biên
kiến thức, thông tin về quyền lợi, những rủi ro,
nguy cơ mà họ cần biết; đào tạo ở nhiều mức độ,
cấp độ khác nhau tùy thuộc theo điều kiện cụ thể
để giúp họ thích nghi điều kiện sống, làm việc
ở nước ngoài; hỗ trợ họ khả năng kết nối, tiếp
cận với các kênh, địa chỉ trợ giúp trong những
trường hợp khẩn cấp.
Hai là, trong pháp luật Việt Nam, cụ thể là
Luật lao động và các văn bản dưới luật cần xem
xét khả năng bổ sung việc thừa nhận tính chất
đặc thù và sự đa dạng về nguồn gốc, vị thế của
người lao động di cư một cách phù hợp để đảm
bảo các quyền, lợi ích chính đáng của họ. Trên
cơ sở đó xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hành
lang pháp lý để đảm bảo các quyền và lợi ích
cơ bản liên quan đến những khía cạnh người lao
động thường gặp khó khăn và dễ dẫn đến những
tổn thương nghiêm trọng như: quyền về giấy tờ
tùy thân, về tiếp cận hệ thống tư pháp, các quyền
về dịch vụ y tế, xã hội thiết yếu nhất là đối với
phụ nữ mang thai, trẻ em được sinh ra do lừa
đảo, buôn người, nô lệ tình dục và quan tâm
đến đối tượng lao động nữ trong các công việc
như phụ giúp việc gia đình, hộ lý.
Các quy định của pháp luật Việt Nam đối
với xuất khẩu lao động theo hợp đồng có các chi
phí: tiền môi giới, tiền ký quỹ, tiền dịch vụ
không phù hợp và không mang tính khả thi với
mức sống, thu nhập thực tế của người lao động
nông nghiệp vùng biên, cần quan tâm nghiên
cứu quy định đặc thù phù hợp hơn nhằm giảm
thiểu tình trạng lao động di cư bất hợp pháp.
Cần bổ sung những chính sách, quy định
dựa trên cơ sở giới hay gắn kết với bình đẳng
giới nhằm bảo vệ quyền lợi và phúc lợi cho lao
động nữ đi làm việc ở nước ngoài. Xây dựng
tài liệu, cơ chế tuyên truyền vận động, thông tin
nhạy cảm giới thông qua: cơ hội việc làm, dạy
nghề, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, phát triển
và duy trì hoạt động hiệu quả các dịch vụ hỗ trợ,
tư vấn xã hội.
Ba là, tiếp tục quan tâm cụ thể hóa các
giải pháp thực hiện Tuyên bố của ASEAN về
Bảo vệ và thúc đẩy quyền của lao động di cư để
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quản
lý, bảo vệ quyền, lợi ích cho người lao động di
cư tại vùng biên. Cụ thể như: yêu cầu chuẩn hóa
Hợp đồng lao động với các điều khoản, điều
kiện rõ ràng về việc làm, quyền lợi và trách
nhiệm của nam, nữ lao động di cư và người sử
dụng lao động, chú trọng các ngành nghề, lĩnh
vực mà người lao động dễ bị tổn thương hoặc
khó tiếp cận như hộ lý, giúp việc gia đình. Xử
phạt nghiêm người sử dụng lao động không tuân
thủ các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng
lao động cũng như pháp luật về lao động, dữ
liệu thông tin về những chủ sử dụng lao động vi
phạm này phải được các quốc gia thành viên của
ASEAN lưu giữ trong cơ sở dữ liệu quốc gia.
Các dịch vụ một cửa và trung tâm hỗ trợ người
lao động di cư cần được thành lập tại cấp địa
phương, cấp quốc gia và khu vực để bảo đảm cơ
chế tốt hơn trong công tác bảo vệ lao động di cư.
Bốn là, bên cạnh việc xây dựng, bổ sung
chính sách, pháp luật cần quan tâm xây dựng cơ
chế giám sát, chế tài và động viên, khuyến khích
cụ thể để đảm bảo quá trình thực hiện đồng bộ,
hiệu quả nhất là trong đặc thù vùng biên giới,
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Hoàn
thiện cơ chế khiếu nại trong đó có thông tin để
liên hệ trong trường hợp cần thiết, hệ thống trợ
giúp pháp lý để khiếu nại.
Năm là, lao động di cư quốc tế nói chung
và tại vùng biên nói riêng vẫn có xu hướng gia
tăng trong thời gian tới. Theo Hoàng Mạnh
(2018) nếu Việt Nam có thể cùng Thái Lan thống
nhất cơ chế nâng thời hạn visa lên 2 năm thì cơ
hội làm việc của lao động Việt Nam tại Thái Lan
sẽ là 50.000 người (hiện nay là 20.000 người).
Do đó, Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy đàm phán
và thực hiện ký kết các thỏa thuận song phương
với các quốc gia bên cạnh việc tiếp tục duy trì,
Một số vấn đề về bảo vệ...
44
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đảm bảo chất lượng, hiệu quả thực thi của hoạt
động ký kết thỏa thuận giữa các tỉnh trong nước
với các nước láng giềng.
4. KẾT LUẬN
Bài viết tập trung xem xét những thách
thức cần được quan tâm trong vấn đề lao động
di cư quốc tế tại vùng biên trong thời gian qua
với mong muốn hướng đến những chính sách
lâu dài, giải quyết căn cơ những khó khăn đang
đặt ra. Trong đó, vấn đề giới mặc dù chưa được
phân tích sâu nhưng đã phản ánh những thực
trạng cần được quan tâm cải thiện trong điều
kiện, ngành nghề lao động, làm việc dễ tổn
thương và những vụ việc thực tế đau lòng đang
diễn ra tại vùng biên.
Nhân dân các địa bàn giáp biên, trong đó
người lao động đóng vai trò then chốt, là lực
lượng quan trọng trong bảo vệ đường biên, mốc
giới của Tổ quốc. Do vậy, việc quan tâm, ghi
nhận tính chất đặc thù, đa dạng về vị thế và vấn
đề bảo vệ quyền lợi của lao động di cư quốc tế
trên địa bàn là hết sức cần thiết để góp phần phát
triển kinh tế-xã hội vùng biên.
Bài viết cũng đã đề xuất một số giải pháp
trong cơ chế, chính sách một số khuyến nghị
trong quản lý, bảo vệ, hỗ trợ lao động di cư vùng
biên hướng đến việc tạo sự quan tâm, hỗ trợ cho
các đối tượng lao động di cư tại vùng tiếp giáp
biên giới để đảm bảo những quyền con người cơ
bản, tránh những tổn thương về tính mạng, tài
sản. Tuy nhiên, giải pháp lâu dài, bền vững bên
cạnh xu hướng di cư lao động tự phát sang biên
giới hiện nay phải là việc khuyến khích các địa
phương đầu tư tạo việc làm tại chỗ thông qua
thu hút, phát triển các mô hình, chương trình, dự
án thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội
vùng biên; tiếp tục hỗ trợ nhân dân địa phương,
đồng bào dân tộc thiểu số ổn định sản xuất, áp
dụng được khoa học kỹ thuật, tạo việc làm và
thu nhập bền vững từ đó góp phần quan trọng
trong bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội tại khu vực trọng điểm như các vùng biên
giới nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Asean. (2014). Khuyến nghị diễn đàn Asean lần
thứ 7 về lao động di cư.
Bùi Xuân Đính & Nguyễn Ngọc Thanh.
(2013). Một số vấn đề cơ bản về kinh tế các
vùng biên giới Việt Nam hiện nay. Hà Nội:
Nxb Khoa học xã hội.
Đặng Thị Hoa. (2016). Hôn nhân xuyên biên
giới với phát triển xã hội. Hà Nội: Nxb Khoa
học xã hội.
Chấm dứt buôn bán người: Dự án Liên minh các
tổ chức Liên hợp quốc về phòng chống buôn
bán người Việt Nam– UNIAP. (2015). Lấy từ
https://cvdvn.net/2015/08/08/cham-dut-buon-
ban-nguoi-du-an-lien-minh-cac-to-chuc-lien-
hop-quoc-ve-phong-chong-buon-ban-nguoi-
viet-nam-uniap/
Bộ Lao động-Thương binh và xã hội – Bộ
Tài chính. (2007). Thông tư liên tịch số
16/2007/TTLT-BLĐTBXH-BTC quy định cụ
thể về tiền môi giới và tiền dịch vụ trong
hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng, ban hành
ngày 04/9/2007.
Bộ Lao động-Thương binh và xã hội – Bộ Tài
chính. (2007). Thông tư liên tịch số 17/2007/
TTLT-BLĐTBXH-BTC quy định việc quản lý
và sử dung tiền ký quỹ của doanh nghiệp và
tiền ký quỹ của người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, ban
hành ngày 04/9/2007.
Bộ Lao động-Thương binh và xã hội – Bộ Tài
chính. (2009). Thông tư liên tịch số 31/2009/
TTLT-BLĐTBXH-BTC hướng dẫn thi hành
Quyết định số 71/2009/QĐ-TTg, ban hành
ngày 09/9/2009.
Bộ Lao động-Thương binh và xã hội. (2015).
Những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực lao
động, người có công và xã hội giai đoạn 2011
– 2015. Lấy từ:
Pages/chitiettin.aspx?IDNews=24052
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc. (1990). Công
ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả những
người lao động di trú và các thành viên gia
đình họ.
45
Đỗ Ngân Bình & Nguyễn Thị Bích. (2012). Tra
cứu Bộ luật lao động 2012 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Hà Nội: Nxb Lao động
xã hội.
Lam Hạnh. (ngày 13 tháng 4 năm 2018). Hệ lụy
từ ‘canh bạc’ lao động ‘chui’ vùng biên: Chờ
giấy thông hành hợp pháp. Báo Pháp luật. Lấy
từ
canh-bac-lao-dong-chui-vung-bien-cho-giay-
thong-hanh-hop-phap-388231.html
Hoàng Mạnh. (ngày 05 tháng 6 năm 2018).
Khoảng 100.000 lao động vùng biên sang
Trung Quốc tìm việc. Báo Dân trí. Lấy từ:
https://dantri.com.vn/viec-lam/khoang-
100000-lao-dong-vung-bien-sang-trung-
quoc-tim-viec-20180605124910371.htm
Nhóm P.V. (ngày 10 tháng 11 năm 2017). Hơn
12.000 lao động dịch chuyển qua biên giớiBáo
Lao động. Lấy từ: https://laodong.vn/xa-hoi/
hon-12000-lao-dong-dich-chuyen-qua-bien-
gioi-569314.ldo
Hội Luật gia Việt Nam. (2008). Những điều
cần biết về lao động di trú. Hà Nội: Nxb
Hồng Đức.
Thủ tướng Chính phủ. (2015). Quyết định 964/
QĐ-TTg về Chương trình phát triển thương
mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo
giai đoạn 2015-2020, ban hành ngày 30 tháng
06 năm 2015.
Thủ tướng Chính phủ. (2009). Quyết định số
71/2009/QĐ-TTG của phê duyệt đề án hỗ
trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao
động góp phần giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2009-2020, ban hành ngày 29 tháng 04
năm 2009.
Trung tâm nghiên cứu quyền con người, quyền
công dân. (2009). Bảo vệ người lao động di
trú, tập hợp các văn kiện quan trọng của
quốc tế, khu vực ASEAN và của Việt Nam
liên quan đến vị thế và việc bảo vệ người lao
động di trú. Hà Nội: Nxb Lao động.
Trung tâm nghiên cứu quyền con người, quyền
công dân. (2011). Lao động di trú trong pháp
luật quốc tế và Việt Nam. Hà Nội: Nxb Lao
động xã hội.
Một số vấn đề về bảo vệ...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5_5229_2159506.pdf