Tài liệu Một số vấn đề trong phát triển bền vững ở dân tộc Chăm - Phú Văn Hẳn: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
23Số 24 - Tháng 12 năm 2018
1. Vấn đề nghiên cứu phát triển bền vững ở
dân tộc Chăm
Báo cáo Brundtland đệ trình cho Đại hội đồng
Liên hiệp quốc (năm 1987) cho phát triển bền vững
(sustainable development) là “đáp ứng được các
nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không gây nguy
hại đến khả năng mà các thế hệ tương lai đáp ứng
các nhu cầu của họ”. Mục tiêu của phát triển bền
vững là sự kết hợp hài hòa của ba khía cạnh: Kinh
tế, xã hội và môi trường sinh thái trong tất cả các
hoạt động con người. Hội nghị Rio - 92 và Hội nghị
Johannesburg - 2002 khẳng định “Phát triển bền
vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển.
Tại hội thảo quốc tế Việt Nam học, tổ chức vào
năm 2012, với chủ đề “Việt Nam trên đường hội
nhập và phát triển bền vững” đề xuất các ý kiến về
quan điểm và chính sách phát triển và hội nhập của
Việt Nam theo tinh thần “Việt Nam...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 845 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề trong phát triển bền vững ở dân tộc Chăm - Phú Văn Hẳn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
23Số 24 - Tháng 12 năm 2018
1. Vấn đề nghiên cứu phát triển bền vững ở
dân tộc Chăm
Báo cáo Brundtland đệ trình cho Đại hội đồng
Liên hiệp quốc (năm 1987) cho phát triển bền vững
(sustainable development) là “đáp ứng được các
nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không gây nguy
hại đến khả năng mà các thế hệ tương lai đáp ứng
các nhu cầu của họ”. Mục tiêu của phát triển bền
vững là sự kết hợp hài hòa của ba khía cạnh: Kinh
tế, xã hội và môi trường sinh thái trong tất cả các
hoạt động con người. Hội nghị Rio - 92 và Hội nghị
Johannesburg - 2002 khẳng định “Phát triển bền
vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển.
Tại hội thảo quốc tế Việt Nam học, tổ chức vào
năm 2012, với chủ đề “Việt Nam trên đường hội
nhập và phát triển bền vững” đề xuất các ý kiến về
quan điểm và chính sách phát triển và hội nhập của
Việt Nam theo tinh thần “Việt Nam là đối tác tin
cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm của
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì một thế giới hòa
bình và phát triển bền vững” đã nêu thêm hai trụ
cột nữa, đó là bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, biến văn hóa của chúng ta trở thành một nguồn
lực cho sự phát triển đất nước, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển, kết hợp sức mạnh với
phát triển của dân tộc với thời đại và phải ổn định
chính trị xã hội.
Từ sau năm 1975 đến nay, đã có nhiều nghiên
cứu về dân tộc Chăm và các dân tộc Việt Nam. Các
nghiên cứu đã có những đóng góp đáng kể về lý
luận và thực tiễn, làm cơ sở khoa học góp phần
hoạch định chính sách dân tộc và tăng cường khối
đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng đất nước thời
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở
DÂN TỘC CHĂM*
Phú Văn Hẳn
Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ; Email: phuvanhan@gmail.com
Thông tin chung
Ngày nhận bài: 1/11/2018
Ngày phản biện: 5/11/2018
Ngày duyệt đăng: 12/11/2018
Title
SOME ISSUES IN SUSTAINABLE
DEVELOPMENT IN CHAM
PEOPLE
Từ khóa
Dân tộc Chăm; Chính sách phát
triển; Phát triển bền vững; Phát
triển bền vững ở dân tộc Chăm.
Keywords
Cham people; Development
policy; Sustainable Development;
Sustainable development in the
Cham people.
Đồng bào Chăm ở nước ta chủ yếu sinh sống ở vùng Duyên hải miền Trung, do quá trình vận động và biến đổi của
lịch sử xã hội, cộng đồng người Chăm trôi dạt theo hướng Nam
của đất nước, sống quần cư ở một số tỉnh vùng Nam Trung Bộ và
ở một số tỉnh của miền Đông và Tây Nam Bộ. Từ năm 1986 đến
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc Chăm. Trong đó,
có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa tộc người, về sự phát
triển kinh tế-xã hội của đồng bào dân tộc Chăm. Bài viết phân tích
thực trạng phát triển ở dân tộc Chăm dưới góc nhìn phát triển bền
vững; qua đó, đưa ra một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và tổ
chức thực hiện ở vùng đồng bào Chăm.
Abstract
Cham people in our country mainly live in the Central Coast,
due to the process of mobilization and transformation of social
history, the Cham community drifted in the South of the country,
living populations in some provinces of the South Central and
some provinces of the East and South West. From 1986 up to now,
there have been many studies on the Cham people. In particular,
there are many studies on ethnic culture, the socio-economic
development of the Cham people. The article analyzes the realities
of development in the Cham people under the vision of sustainable
development, thus introducing a number of issues to be further
studied and implemented in the Cham people.
* Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp quốc gia: “Một số vấn đề cơ bản trong phát triển
bền vững ở dân tộc Chăm”, mã số: CTDT 15.17/16-20.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
24 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
kỳ đổi mới và hội nhập hướng tới phát triển bền
vững. Chính sách Đổi mới từ năm 1986 đã đem lại
những biến đổi về kinh tế, mức sống và xã hội cho
mọi nhóm dân cư. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
định lượng và định tính gần đây cho thấy, mặc dù
đời sống ở dân tộc Chăm được cải thiện, song các
nhóm của dân tộc Chăm tại các địa phương khác
nhau, các nhóm tín ngưỡng tôn giáo ở dân tộc Chăm
khác nhau vẫn còn khoảng cách trong phát triển so
với dân tộc đa số. Sự đa dạng ở dân tộc Chăm về các
nhóm dân tộc, nhóm tôn giáo - tín ngưỡng và văn
hóa đã làm nên bản sắc phong phú ở dân tộc Chăm.
Các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực khoa
học xã hội về dân tộc và về dân tộc Chăm đã thực
hiện có nhiều đóng góp khoa học, song mới chỉ
đề cập đến một số lĩnh vực cụ thể của kinh tế, văn
hóa hoặc về dân tộc học mà chưa hoặc ít phân tích,
đánh giá thực trạng và xu hướng phát triển ở dân
tộc Chăm, chưa đánh giá đầy đủ chính sách và việc
thực hiện chính sách đối với dân tộc Chăm; các luận
cứ và định hướng giải pháp điều chỉnh chính sách
chưa đáp ứng kịp thời, phù hợp nhằm phát huy năng
lực cộng đồng, đáp ứng chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội ở dân tộc Chăm trong tiến trình phát triển
bền vững.
Các nghiên cứu đã phân tích đánh giá hiện trạng
đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu phát triển
bền vững, đưa ra quan điểm phát triển vùng, định
hướng phát triển vùng để phát huy lợi thế, sử dụng
tốt nguồn lực nội vùng và nội bộ ở dân tộc Chăm;
phân tích đánh giá hiện trạng và xây dựng hệ quan
điểm, hình thành các kiến nghị về định hướng chính
sách và giải pháp; góp phần phát triển bền vững dân
tộc Chăm vào xu thế phát triển quốc gia chung, tăng
cường hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc.
2. Thực trạng phát triển ở dân tộc Chăm dưới
góc nhìn phát triển bền vững
Với những quan điểm về nghiên cứu phát triển
bền vững thì ở dân tộc Chăm cần xem xét các vấn
đề dân tộc với các chiều kích của năm trụ cột chính
của phát triển là kinh tế, xã hội, môi trường, văn hoá
và chính trị ở Việt Nam.
Ở nước ta đến nay đã có nhiều văn bản pháp lý
làm cơ sở cho công tác quy hoạch phát triển, song
tại một số địa phương, vùng dân tộc thiểu số có đông
đồng bào dân tộc Chăm sinh sống vẫn còn thiếu
những quy hoạch tổng thể, khả thi được hướng dẫn
bởi một tư duy mới, sử dụng phương pháp hiện đại,
phù hợp hơn với hội nhập kinh tế, thiếu một cơ chế
hữu hiệu để hiện thực hóa quy hoạch. Đa số người
dân Chăm vẫn còn nghèo, còn ở khoảng cách so với
mặt bằng chung và dễ tụt hậu. Việc đánh giá và điều
chỉnh công tác thực hiện chính sách chưa kịp thời
và chưa phù hợp với thực tế khách quan.
Trong đời sống kinh tế - xã hội, người Chăm
đã cùng người Việt và các dân tộc tại chỗ đóng vai
trò chủ lực trong công cuộc khai khẩn đất đai, xây
dựng và phát triển vựa lúa, vườn cây, một vùng
nông nghiệp thích hợp trên các tiểu vùng sinh thái
nước ngọt, nước phèn, nước lợ và nước mặn ở vùng
đất phía Nam (Tây Nam Bộ). Hoạt động kinh tế
nông nghiệp, với phương thức canh tác lúa nước
của người Chăm cũng đã được người Việt và các
dân tộc thiểu số trong vùng tiếp nhận, phát huy.
Ngoài hoạt động kinh tế nông nghiệp, săn bắt, hái
lượm theo truyền thống, người Chăm còn biết canh
tác ruộng khô ở những nơi trũng thấp với kỹ thuật
cày bừa. Người Chăm cùng người Việt đã lai tạo,
sử dụng có hiệu quả kinh tế nhiều giống lúa địa
phương. Cho đến trước năm 1975, những giống lúa
truyền thống của người Chăm vẫn được cư dân địa
phương ưa chuộng.
Người Chăm và các dân tộc Việt Nam có sự gần
gũi về văn hóa, chia sẻ với nhau những tri thức,
kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh và hợp tác cùng
nhau ứng xử với môi trường, kiến tạo vùng đất giàu
tiềm năng này thành ruộng vườn trù phú và phát
triển, chung một khát vọng đổi đời, ổn định cuộc
sống; thiết lập sự gắn bó, thương yêu, đùm bọc lẫn
nhau để vươn tới tự do và hạnh phúc. Dân tộc Chăm
đã cùng các dân tộc xây dựng xóm làng phát triển,
đã tiếp cận, khai thác, tận dụng có hiệu quả các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực tại chỗ
để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao đời
sống cộng đồng.
Tuy nhiên, ở vùng cư trú hiện nay của dân tộc
Chăm đang đối mặt với nhiều thách thức. Đó là
sự suy thoái về môi trường, thiếu hụt về nguồn tài
nguyên thiên nhiên và nguồn lực con người, bấp
bênh về sinh kế, hạn chế về kiến thức, kỹ năng lao
động, biến đổi về xã hội, khác biệt về văn hoá, bấp
cập về thực hiện chính sách làm cho các nhóm ở
dân tộc Chăm chưa thể chuyển biến nhanh và vững
chắc trong xây dựng, phát triển đời sống cộng đồng
để tạo thế ổn định, để tận dụng những lợi ích do
tăng trưởng kinh tế cao của đất nước, nhằm bảo
đảm cho phát triển bền vững. Môi trường sinh thái
trong vùng sinh sống của dân tộc Chăm, nhất là
vùng cao (Chăm ở Bình Định, Phú Yên), ven biên
giới (Chăm ở Tây Ninh, An Giang) và ven biển, gần
biển (Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận) ngày càng
suy giảm. Sự phân bổ các nguồn lực (đất đai, vốn,
đầu tư) và nguồn nhân lực ở vùng sinh sống của
người Chăm thiếu hợp lý và thiếu hụt nguồn nhân
lực có chất lượng cao. Quản lý và sử dụng đất đai
ở vùng cư trú của người Chăm tiềm ẩn những yếu
tố thiếu bền vững; Vấn đề sinh kế, vấn đề nghèo,
tái nghèo và di dân của các cộng đồng Chăm chưa
giải quyết xong, trong khi đó công tác xóa đói giảm
nghèo, dạy nghề và giải quyết việc làm thiếu bền
vững. Sự khác biệt mức sống ngày càng lớn trong
các tầng lớp cư dân giữa các nhóm cư dân Chăm;
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động và việc làm ở
dân tộc Chăm ngày càng trở thành vấn đề cấp bách;
Vấn đề giáo dục, đào tạo, dạy nghề, chuyển giao
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
25Số 24 - Tháng 12 năm 2018
kỹ thuật - công nghệ, chăm sóc sức khỏe và bảo vệ
môi trường của vùng ở dân tộc Chăm còn nhiều bất
cập. Bản sắc văn hóa dân tộc, văn hóa truyền thống
dân tộc Chăm đang có nhiều biến đổi. Tình hình tôn
giáo ở dân tộc Chăm có những chuyển đổi, chuyển
biến khó lường. Việc thực hiện chính sách phát triển
vùng, chính sách dân tộc ở dân tộc Chăm còn bộc
lộ nhiều hạn chế và bất cập ảnh hưởng đến các vấn
đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở dân tộc Chăm và
quốc gia chung.
Các vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở dân tộc
Chăm diễn biến rất đa dạng và có phần phức tạp,
đan xen lẫn nhau trong vùng và xuyên biên giới/
xuyên quốc gia. Sự hình thành và phát triển dân tộc
Chăm gắn liền với quá trình di dân. Vì thế, trong
bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc
tế hiện nay, các thế lực thù địch, kể cả bên trong và
bên ngoài luôn lợi dụng vấn đề dân tộc và quan hệ
dân tộc ở dân tộc Chăm để châm mồi cho những
mâu thuẫn, xung đột dân tộc trong lĩnh vực đời sống
kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị - xã hội, nhất là
mâu thuẫn, xung đột với dân tộc đa số (Việt) đã xảy
ra trong các thời kỳ lịch sử trước đây và điều này có
tác động đến việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc.
Việc làm và thu nhập ở dân tộc Chăm luôn là vấn
đề quan tâm hàng đầu. Người Chăm có việc làm và
việc làm ổn định thì mới đảm bảo thu nhập để có
thể nâng cao mức sống và bảo đảm cho sự ổn định
của mình và gia đình. Nguồn thu nhập chính của hộ
gia đình người Chăm đến nay chủ yếu vẫn dựa vào
việc làm nông truyền thống, chủ yếu làm ruộng lúa,
làm rẫy, trồng cây, chăn nuôi, khai thác nguồn lợi
tự nhiên, trồng rau màu, cây ăn quả (ở Ninh Thuận,
Bình Thuận, ở Bình Định, Phú Yên), buôn bán (An
Giang, Thành phố Hồ Chí Minh). Hiện nay, xuất
hiện nhiều lao động người Chăm làm thuê, làm
mướn, làm công nhân tại các khu công nghiệp, khu
chế xuất, hưởng lương và phụ cấp (14,64%) và làm
nghề thủ công (12,44% lao động nông nhàn). Hiện
nay, việc làm của người Chăm có đa dạng hơn so
với thời gian trước như thu nhập từ lương và phụ
cấp (nhờ làm việc cho các cơ quan nhà nước và làm
công nhân).
Bình quân thu nhập đầu người của hộ gia đình
người Chăm nằm trong nhóm thu nhập thấp nhất1
ở mức dưới xa so với ngưỡng nghèo trong khu vực
nông thôn. Chênh lệch mức sống giữa nhóm thu
nhập cao nhất và nhóm thu nhập thấp nhất là 15,09
lần. So sánh người Chăm với nhau về mặt thu nhập
thì trong những năm sau có cao so với trước, nhưng
so với mặt bằng chung thì sự phân hoá giàu nghèo
ở vùng người Chăm cư trú là khá sâu sắc, đặc biệt
1. Xem thêm Võ Công Nguyện, (2009, HTKH, Viện PTBV vùng Nam Bộ),
Kết quả khảo sát về tổng thu nhập bình quân đầu người/tháng từ tháng 8/2015
đến tháng 7/2016 của hộ gia đình ở vùng Tây Nam Bộ của hộ gia đình
1.571.000 đồng. Trong đó, người Kinh là cao nhất (2.099.000 đống), người
Hoa (1.830.000 đồng), người Khmer (1.250.000 đồng) và người Chăm là thấp
nhất (910.000 đồng).
ở dân tộc Chăm tại đô thị Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong thời gian qua, các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước được cụ thể hoá bằng nhiều
chương trình, dự án mục tiêu Quốc gia và địa phương
về xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển cộng đồng
có tác động tích cực, làm thay đổi về giảm nghèo
trên bình diện chung của cả nước. Tuy nhiên, quá
trình giảm nghèo ở người Chăm còn chậm và chưa
bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo ở dân tộc Chăm còn cao
(có tới 34,0% hộ người Chăm ở Tây Nam Bộ). Tình
trạng nghèo ở người Chăm thường do thiếu vốn,
thiếu đất sản xuất, thiếu kiến thức làm ăn. Trên thực
tế ở dân tộc Chăm, việc hỗ trợ vốn và đất sản xuất
cho người Chăm đã được chính quyền địa phương
chú ý thông qua việc lồng ghép nhiều chương trình,
dự án mục tiêu quốc gia và địa phương, nhưng hiệu
quả mang lại còn thấp.
Một trong những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp
bách trong phát triển ở dân tộc Chăm hiện nay là
giải quyết việc làm, tạo ra việc làm mới phù hợp
để đa dạng hóa các nguồn thu nhập nhằm nâng
cao dần mức sống các thành phần cư dân và giảm
nghèo bền vững. Trong những năm gần đây, nhiều
lao động người Chăm không tìm được việc làm mới
(90,2%). Phần lớn lao động Chăm chủ yếu sống
bằng nghề nông (Ninh Thuận, Bình Thuận), buôn
bán (21,13%, An Giang) và có đến 30,99% số lao
động là phụ nữ (Chăm An Giang) làm nội trợ, nuôi
con nhỏ.
Người Chăm ở Trung Bộ chủ yếu sống dựa vào
nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), nên rất cần có
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tạo
việc làm mới trong nông thôn sao cho phù hợp với
trình độ, tập quán sản xuất của họ và theo xu hướng
phát triển của nền kinh tế chuyển đổi trong thời kỳ
hội nhập hiện nay. Đối với người Chăm (Nam Bộ)
vốn đã quen với việc buôn bán và phụ nữ thường là
làm nội trợ, làm việc tại nhà.
Mặt bằng dân trí ở dân tộc Chăm hiện nay cao
hơn một số dân tộc ở vùng Tây Nguyên và Tây Nam
Bộ, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp. Đề cập đến lý
do người Chăm chưa từng đi học và đã nghỉ học khi
đang trong độ tuổi đi học thì có đến 56,36% cho
rằng vì lý do kinh tế gia đình khó khăn. Nhưng điều
đáng chú ý là có đến 25,72% số người chưa từng đi
học và đã nghỉ học vì lý do học không được và tự ý
bỏ học. Thực tế cho thấy, số lao động không có tay
nghề hoặc chưa được đào tạo tay nghề chiếm đa số
ở dân tộc Chăm. Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, dân tộc Chăm đang đứng
trước những cơ hội và thách thức mới trong phát
triển đối với việc tiếp cận các nguồn tài nguyên, tiếp
thu kiến thức khoa học để nâng cao trình độ chuyên
môn, trình độ kỹ thuật và trình độ tay nghề, tạo ra
được nhiều việc làm mới để làm tăng thu nhập, nâng
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
26 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
cao mức sống cư dân và bảo đảm cho sự phát triển
bền vững cộng đồng. Do vậy, giáo dục là vấn đề cơ
bản lâu dài và dạy nghề là vấn đề cấp bách trước
mắt để ở dân tộc Chăm có thể chủ động tiếp cận,
khai thác được các nguồn tài nguyên thiên nhiên và
nguồn lực con người, quản lý và sử dụng hợp lý, có
hiệu quả đất đai và tạo ra được nhiều việc làm mới
tạo thu nhập. Số liệu điều tra cho thấy số lao động
không có tay nghề hoặc chưa được đào tạo tay nghề
chiếm đa số ở dân tộc Chăm. Trong thời kỳ tiếp tục
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, dân
tộc Chăm đang đứng trước những cơ hội và thách
thức mới trong phát triển đối với việc tiếp cận các
nguồn tài nguyên, tiếp thu kiến thức khoa học để
nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ kỹ thuật và
trình độ tay nghề, tạo ra được nhiều việc làm mới
để làm tăng thu nhập, nâng cao mức sống cư dân
và bảo đảm cho sự phát triển bền vững cộng đồng.
3. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển bền
vững ở dân tộc Chăm
Việt Nam ngày nay được thừa kế di sản lịch sử
của các nền văn hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh và Óc Eo,
thừa kế lãnh thổ lịch sử và dân cư của các quốc gia
Văn Lang, Âu lạc, Champa và Phù Nam, với nhiều
thành phần dân tộc trong đó có người Chăm. Mọi tư
tưởng gọi là phục hồi lãnh thổ lịch sử đều đi ngược
lại luật pháp quốc tế, cổ vũ cho chủ nghĩa dân tộc
cực đoan, đe dọa đến chủ quyền của các quốc gia
khác, đe dọa hòa bình khu vực và thế giới, mất ổn
định khu vực. Nhận thức lệch lạc, phiến diện, thậm
chí xuyên tạc lịch sử ở dân tộc Chăm cũng trở thành
nguyên nhân gây chia rẽ quan hệ các dân tộc, ở dân
tộc Chăm với cả nước và các dân tộc. Do vậy, việc
nhận thức đúng đắn về lịch sử hình thành dân tộc
Chăm ở Việt Nam là vấn đề quan trọng và cấp thiết,
cần được thống nhất từ tài liệu giáo khoa, truyền
thông đến tâm thức của người dân các dân tộc.
Hiện nay, dân tộc Chăm, vùng người Chăm còn
lưu giữ một kho tàng tư liệu khảo cổ học, tư liệu
thành văn (bằng chữ Pali, chữ Sanskrit, chữ Chăm,
chữ Jawi, chữ Hán, chữ Nôm,) chưa được khám
phá đầy đủ. Giải mã các tài liệu đó đã và sẽ góp
phần làm rõ quá trình hình thành và phát triển các
cộng đồng dân tộc ở Việt Nam, tăng cường sự hiểu
biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Điều đó có ý nghĩa
quan trọng cho ổn định dân tộc và tăng cường khối
thống nhất Việt Nam ở dân tộc Chăm.
Vấn đề xây dựng, củng cố quan hệ dân tộc, tộc
người là nhiệm vụ chiến lược dựa trên quan điểm
đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng, giúp nhau cùng phát
triển. Trong quan hệ dân tộc, cần giải quyết tốt vấn
đề đất canh tác ở dân tộc Chăm; phát huy vai trò của
các thể chế dân cư, của cộng đồng “làng dân tộc”
(puk, palei) trong quản lý ruộng đất. Phát triển hệ
thống sinh kế phi nông nghiệp ở dân tộc Chăm bảo
đảm cơ hội dịch chuyển cơ cấu lao động của dân
tộc này bằng các chính sách đặc biệt (đào tạo nhà
nông chuyên nghiệp, hỗ trợ phát triển dịch vụ nghề
nghiệp, bảo quản và chế biến sau thu hoạch, tiếp cận
thị trường, tiếp cận vốn). Đối với những hộ người
dân tộc Chăm không còn ruộng đất canh tác cần rà
soát lại, có chính sách cấp đất, gắn với các chế định
cấm chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Khai thác
tri thức truyền thống của người Chăm trong quản
lý xã hội, giáo dục, y tế để lồng ghép vào xây dựng
chính quyền cơ sở, phát triển giáo dục, mở mang y
tế, phát huy vai trò của người đứng đầu “làng dân
tộc: po palei”, thông qua giáo dục tại cộng đồng
(ở thánh đường Islam, nhà cộng đồng của dân tộc
Chăm) để lồng ghép các tri thức khoa học cần
thiết về quản lý xã hội và chăm sóc sức khỏe.
Vấn đề phát huy có hiệu quả hoạt động văn hóa
ở dân tộc Chăm đến nay đã có nhiều thành tựu. Tuy
nhiên cần cập nhật các tri thức trong các tài liệu
giáo khoa lịch sử để hình thành nhận thức đúng đắn
về lịch sử trong học đường. Lồng ghép tri thức lịch
sử địa phương trong các chương trình giáo dục phổ
thông, chương trình giảng dạy tiếng dân tộc Chăm.
Tôn trọng bản sắc văn hóa của cộng đồng người
Chăm đi đôi với tạo ra cơ chế cho người Chăm hòa
nhập xã hội, bao gồm từ tham gia chính quyền, hòa
nhập về kinh tế, hòa nhập về văn hóa, tránh để bị lợi
dụng. Cần tăng cường quan hệ giữa các dân tộc, tộc
người, củng cố trên cơ sở các nguyên tắc của Đảng,
Nhà nước, đồng thời có chính sách ưu tiên đặc biệt
gồm cả tinh thần và vật chất với tư cách là nhóm cư
dân tại chỗ.
Phát triển giáo dục song ngữ, có phân hóa ngôn
ngữ giáo dục vùng, dựa vào quyền tự nguyện của
người Chăm, có phân hóa ngôn ngữ giáo dục học
đường và ngôn ngữ nghiên cứu để bảo tồn; Tăng
cường chất lượng phát thanh, truyền hình, báo viết
bằng tiếng dân tộc Chăm, đào tạo đội ngũ phát
thanh viên chuyên nghiệp, cơ bản, phát âm chuẩn,
khắc phục tình trạng đồng bào không nghe radio và
truyền hình Việt Nam. Tôn trọng tính chất đa văn
hóa của người dân trong vùng và tiểu vùng, được
chế định trong các chính sách địa phương và hành
vi của cán bộ cơ sở. Tổ chức có chất lượng, hiệu
quả hơn những ngày hội văn hoá ở dân tộc Chăm
theo vùng và cấp quốc gia, nhằm giới thiệu rộng rãi
những tinh hoa dân tộc Chăm, tăng cường hiểu biết
giữa dân tộc Chăm và các dân tộc, tăng cường khối
đoàn kết toàn dân tộc và động viên tinh thần hăng
say lao động.
Tiếp tục phát huy vai trò tích cực của tín
ngưỡng tôn giáo ở dân tộc Chăm. Người Chăm
trong quá trình phát triển theo nhiều tín ngưỡng tôn
giáo (Balamon, Phật giáo, Hồi giáo Islam, Bani,
B’hai). Nghiên cứu một cách cơ bản, có chiều
sâu, làm rõ những giá trị đặc trưng của từng nhóm
tôn giáo, tín ngưỡng ở dân tộc Chăm để có những
đề xuất phù hợp. Phát huy vai trò tích cực của chức
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
27Số 24 - Tháng 12 năm 2018
sắc, chức việc trong cộng đồng dân tộc, tôn giáo ở
dân tộc Chăm trong quản lý xã hội, phát triển giáo
dục, y tế, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Lồng
ghép các nội dung giáo dục chính thống trong các
cơ sở giáo dục tôn giáo; quản lý tốt hoạt động truyền
giáo và phát triển ổn định tôn giáo ở dân tộc Chăm.
Song song với quá trình đó cũng cần quản lý tốt
hoạt động thụ giáo và học tập của các giáo sinh tôn
giáo du học về. Tôn trọng tự do tín ngưỡng đi đôi
với phòng ngừa các biểu hiện tôn giáo cực đoan;
chăm lo đời sống đồng bào tín đồ, hạn chế dần các
hủ tục (có thể nảy sinh trong hoạt động tôn giáo),
tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không
tín ngưỡng tôn giáo, xây dựng ý thức tôn trọng
pháp luật, thực hiện bình đẳng tôn giáo thật sự. Giải
quyết hợp lý vấn đề đất đai gắn với cơ sở thờ tự do
lịch sử để lại. Đánh giá đúng hiện tượng chuyển đổi
đức tin tôn giáo, nhất là trước các áp lực truyền giáo
một số tôn giáo mới xuất hiện ở dân tộc Chăm.
Quan tâm đến vấn đề xã hội nảy sinh ở dân tộc
Chăm. Nổi bật ở dân tộc Chăm là vấn đề hôn nhân,
di cư xuyên biên giới (ở Nam Bộ). Đây là những
vấn đề xã hội cần phải được kiểm soát bằng can
thiệp cả chính sách vĩ mô, chính sách vùng và chính
sách địa phương. Quản trị di cư tự phát xuyên biên
giới của những người đồng tộc, đa số đối với người
Chăm (Islam) sinh sống dọc biên giới Việt Nam –
Campuchia. Di cư tự phát xuyên biên giới bao gồm
cả di cư hôn nhân, di cư lao động, di cư truyền giáo
và thụ giáo, di cư sinh kế, thậm chí rất nhiều người
Chăm sang Campuchia, Malaysia và một số quốc
gia Đông Nam Á lấy vợ, lấy chồng, định cư lâu
dài. Điều này ảnh hưởng đến quản lý nhân khẩu,
an ninh chủ quyền quốc gia, quản lý biên giới. Phối
hợp chặt chẽ với Campuchia, Malaysia trong xử lý
vấn đề di cư truyền giáo - thụ giáo và di cư hôn
nhân, vừa tôn trọng quyền con người, vừa đảm bảo
các giáo sinh hồi cư hoặc định cư đúng pháp luật;
xây dựng hệ thống sinh kế bền vững để hạn chế di
cư tự phát vùng biên giới. Tăng cường quản lý nhà
nước về môi giới hôn nhân quốc tế; tạo nhiều công
ăn việc làm, hệ thống sinh kế bền vững ở khu vực
nông thôn; cung cấp nhiều thông tin cho người dân
về nhập cư để có sự hiểu biết đầy đủ, phòng ngừa
rủi ro, hoặc hòa nhập xã hội sở tại khi rơi vào tình
huống bất khả kháng; có đối sách ứng phó với thủ
đoạn đưa vấn đề “người Việt nhập cư bất hợp pháp”
để mặc cả về chính trị.
Cải thiện điều kiện, môi trường sống ở khu
vực nhập cư, nhất là khu vực đô thị. Khuyến khích
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động tại chỗ
ở dân tộc Chăm nhằm giảm áp lực người dân tộc
nhập cư vào đô thị lớn (Thành phố Hồ Chí Minh).
Xây dựng hệ thống sinh kế bền vững, an sinh xã hội
đa tầng, linh hoạt, trụ cột là bảo hiểm y tế và các trợ
giúp xã hội. Hoàn thiện chính sách xã hội đối với
lao động các khu công nghiệp, khu đô thị, khu dân
cư nhằm đồng bộ hóa với quá trình tăng trưởng kinh
tế ở dân tộc Chăm.
Chủ động dự báo và ứng phó với các hoạt động
từ bên ngoài. Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng
và tác động di cư thụ giáo xuyên biên giới của một
bộ phận người Chăm sang Campuchia, Malaysia,
Indonesia, Arab, di cư hôn nhân và di dân lao
động sang Campuchia và Malaysia; di cư tham
chính (người Chăm tham gia chính quyền và tham
gia quân đội). Nghiên cứu cơ bản, toàn diện về Hồi
giáo Islam, để đưa ra kiến nghị phù hợp về tổ chức
giáo hội cũng như chính sách tôn giáo gắn với chính
sách dân tộc. Trù liệu kịch bản ứng phó với hoạt
động chống phá của các tổ chức lợi dụng tôn giáo,
dân tộc ở nước ngoài và hoạt động chống phá của
các lực lượng dân tộc chủ nghĩa cực đoan ở một số
quốc gia láng giềng.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở có sự
tham gia của người Chăm. Chất lượng hoạt động
của hệ thống chính trị và chất lượng của đội ngũ
cán bộ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu
và yếu, trong đó có ở vùng dân tộc Chăm; cần quan
tâm, đẩy mạnh việc phát triển đảng viên và xây
dựng đội ngũ cán bộ cốt cán ở dân tộc Chăm. Có
những chủ trương và chính sách cụ thể nhằm thực
hiện tốt công tác quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo,
sử dụng cán bộ người dân tộc Chăm. Chú trọng
hơn công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
cho cán bộ cơ sở, cán bộ tại chỗ là người dân tộc
Chăm, dạy nghề và giải quyết việc làm cho thanh
niên dân tộc Chăm để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi
cơ cấu sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc Chăm. Huy động nhiều nguồn lực và bố trí
hợp lý để thực hiện các chương trình, chính sách
trong vùng dân tộc.
Đổi mới phương thức vận động đồng bào dân
tộc Chăm thực hiện tốt hơn các chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước, phát huy truyền thống tốt
đạo đẹp đời, để đồng bào các dân tộc trong vùng
Nam Bộ đóng góp nhiều hơn nữa cho công cuộc
xây dựng đất nước giàu đẹp, xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc vững mạnh. Ngoài những chính
sách chung cần nghiên cứu điều chỉnh chính sách
hiện nay và sớm xây dựng chính sách đặc thù đối
với dân tộc Chăm.
Có các chính sách đặc biệt hỗ trợ số đồng bào
dân tộc Chăm còn gặp nhiều khó khăn trong đời
sống, nhằm khắc phục tình trạng thua thiệt về cơ
hội phát triển. Am hiểu thật đầy đủ tâm tư nguyện
vọng của người dân tộc Chăm, đánh giá thật khách
quan hiện trạng kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân
tộc cụ thể, nghiên cứu dự báo sự phát triển của
cộng đồng để có kế hoạch phát huy, phát triển phù
hợp. Sớm có biện pháp khoa học phù hợp giúp
cộng đồng dân tộc Chăm thoát hẳn đói nghèo, có
khả năng tự lực vươn lên hòa nhập, bình đẳng và
phát triển một cách bền vững, để dân tộc Chăm
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
28 Số 24 - Tháng 12 năm 2018
hòa nhập một cách tự tin và đóng góp có hiệu quả
vào sự nghiệp phát triển bền vững.
Tài liệu tham khảo
Bùi Thế Cường, (2003), Phúc lợi Xã hội ở Việt
Nam trong Thời kỳ Đổi Mới: Hiện trạng,
Vấn đề và Điều chỉnh. Báo cáo tổng quan đề
tài cấp Bộ “Phúc lợi xã hội ở Việt Nam: Hiện
trạng và xu hướng”, Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, Hà Nội.
Phú Văn Hẳn, (2011), Một số vấn đề về dân
tộc trong phát triển bền vững vùng Nam Bộ,
ĐTB Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam.
Phú Văn Hẳn, (2013), Sự chuyển đổi tôn giáo
của các dân tộc thiểu số ở Nam Bộ, ĐTB
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
Đỗ Hoài Nam và Võ Đại Lược (Chủ biên,
2005), Một số vấn đề phát triển kinh tế của
Việt Nam hiện nay, NXB. Thế Giới, Hà Nội.
Wischermann, Joerg/ Bùi Thế Cường/ Nguyễn
Quang Vinh, (2002), Quan hệ giữa Các Tổ
chức Xã hội và Cơ quan Nhà nước ở Việt
Nam - Những kết quả chọn lọc của một cuộc
khảo sát thực nghiệm ở Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh.
Dalton, Russell J., Pham Minh Hac, Pham Thanh
Nghi, Nhu-Ngoc T. Ong. Social Relations
and Social Capital in Vietnam: The 2001
World Values Survey
vietnam02.pdf.
Schneider, Friedrich and Alexander F. Wagner,
(2001), Institutions of Conflict Management
and Economic Growth in the European
Union. Kyklos. 54(4). pp. 509-532.
SIDA/ILO/UNDP, (2004), Promoting Rapid,
Sustainable and Pro-poor Economic Growth
for Achieving the Millennium Development
Goals in Viet Nam
ilosida/propoor.pdf.
Walle, Dominique van de, and Dileni
Gunewardena. Sources of Ethnic Inequality
in Viet Nam. The World Bank’s Rural
Development and Poverty and Human
Resources (under RPO681-39) Team in
Development Research Group.
Thủ tướng Chính phủ, (2004), Định hướng
chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.
Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam (Ban
hành theo Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg,
ngày 17-8-2004 của Thủ tướng Chính phủ).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61_304_1_pb_0786_2151941.pdf