Tài liệu Một số vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán và kiểm toán nội bộ: chương i
một số vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán
và kiểm toán nội bộ
Một số vấn đề chung về kiểm toán
Khái niệm kiểm toán
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng kiểm toán ra đời từ thời La Mã cổ đại vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Chính vì vậy, kiểm toán có gốc từ La tinh “Audit” nguyên bản là “Audire”, gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La Mã cổ đại. Tuy kiểm toán ra đời đã hơn 2000 năm qua, nhưng nó cũng chỉ phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XIX. Từ “Audire” có nghĩa là “nghe”. Hình ảnh kiểm toán cổ điển thường được tiến hành bằng cách người ghi chép về tài sản đọc to lên cho một bên độc lập “nghe” rồi sau đó chấp nhận thông qua việc chứng thực. ở Việt Nam, thuật ngữ “Kiểm toán” xuất hiện trở lại, và được sử dụng nhiều từ những năm đầu của thập kỷ 90. Trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam đã có những hoạt động của công ty kiểm toán nước ngoài. Cho đến nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm toán. Tuy nhiên khái niệm kiểm to...
52 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Một số vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán và kiểm toán nội bộ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chương i
một số vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán
và kiểm toán nội bộ
Một số vấn đề chung về kiểm toán
Khái niệm kiểm toán
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng kiểm toán ra đời từ thời La Mã cổ đại vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Chính vì vậy, kiểm toán có gốc từ La tinh “Audit” nguyên bản là “Audire”, gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La Mã cổ đại. Tuy kiểm toán ra đời đã hơn 2000 năm qua, nhưng nó cũng chỉ phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỷ XIX. Từ “Audire” có nghĩa là “nghe”. Hình ảnh kiểm toán cổ điển thường được tiến hành bằng cách người ghi chép về tài sản đọc to lên cho một bên độc lập “nghe” rồi sau đó chấp nhận thông qua việc chứng thực. ở Việt Nam, thuật ngữ “Kiểm toán” xuất hiện trở lại, và được sử dụng nhiều từ những năm đầu của thập kỷ 90. Trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam đã có những hoạt động của công ty kiểm toán nước ngoài. Cho đến nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm toán. Tuy nhiên khái niệm kiểm toán được chấp nhận phổ biến hiện nay là:
“Kiểm toán là quá trình các kiểm toán viên độc lập và có năng lực tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin được kiểm toán nhằm xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”
Các thuật ngữ trong định nghĩa này được hiểu như sau:
Các kiểm toán viên độc lập và có năng lực: Tính độc lập giúp cho kiểm toán viên trong quá trình tư duy, lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán không bị ảnh hưởng và chi phối bởi bất kỳ yếu tố nào có thể dẫn đến làm lệch lạc kết quả kiểm toán. Biểu hiện của sự độc lập cụ thể là độc lập về chuyên môn, độc lập về kinh tế và độc lập trong các mối quan hệ gia đình. Độc lập về mặt chuyện môn được thể hiện: trong hoạt động kiểm toán, kiểm toán viên chỉ tuân theo chuẩn mực chuyện môn và luật pháp không chỉ bị chi phối bởi những tác động khác. Tuỳ theo nội dung và tính chất của mỗi loại kiểm toán cụ thể khác nhau và mức độ độc lập có thể đòi hỏi khác nhau, tuy nhiên yêu cầu về độc lập là đòi hỏi thiết yếu đối với mọi loại kiểm toán viên và tổ chức kiểm toán. Nếu độc lập là điều kiện cần thì năng lực của kiểm toán viên là điều kiện đủ để đảm bảo cho cuộc kiểm toán được thực hiện thành công. Năng lực kiểm toán gồm những yếu tố, kỹ năng, phẩm chất về chuyên môn nghiệp vụ mà kiểm toán viên cần phải có để tổ chức và thực hiện được cuộc kiểm toán có hiệu quả.
Thu nhập và đánh giá các bằng chứng: Bằng chứng kiểm toán là các loại tài liệu, thông tin mà các kiểm toán viên sử dụng để phân tích, xem xét và đưa ra kết luận trên đó. Quá trình kiểm toán thực chất là quá trình các kiểm toán viên áp dụng các phương pháp kỹ thuật kiểmt toán để thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho các ý kiến nhận xét của họ.
Các thông tin được kiểm toán: Đó là những thông tin đã có sẵn nguồn bằng chứng cho kiểm toán và có căn cứ làm cơ sở cho việc đánh giá thông tin. Thông tin được kiểm toán có thể là những thông tin được lượng hoá hoặc những thông tin có thể so sánh, đối chiếu hay kiểm tra lại được, có thể là những thông tin tài chính hoặc những thông tin phi tài chính.
Các chuẩn mực đã được xây dựng và thiết lập: Các chuẩn mực là cơ sở, là thước đó để đánh giá các thông tin trong quá trình kiểm toán. Các chuẩn mực này rất phong phú và đa dạng tuỳ thuộc vào từng loại kiểm toán, như quy định trong các văn bản pháp quy, các tiêu chuẩn định mức cho các lĩnh vực khác nhau, các chuẩn mực kế toán cho mỗi quốc gia... tuỳ từng loại kiểm toán mà sử dụng các chuẩn mực này luôn luôn phải là các chuẩn mực có hiệu lực cho cuộc kiểm toán đó.
Đơn vị được kiểm toán: Đây có thể là một tổ chức pháp nhân (một doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, một doanh nghiệp tư nhân), hoặc không có tư cách pháp nhân (một phân xưởng, tổ đội hoặc một cá nhân).
Báo cáo kết quả: Đây là công việc cuối cùng của một cuộc kiểm toán, thể hiện ý kiến nhận xét, kết luận của kiểm toán viên và cung cấp thông tin cho người đọc, người sử dụng về mức độ tương quan và phù hợp giữa các thông tin của một đơn vị với các chuẩn mực đã được xây dựng. Về hình thức, báo cáo kiểm toán có thể khác nhau và có thể thay đồi từ loại báo cáo phức tạp bằng văn bản đến báo cáo bằng miệng khi kiểm toán phục vụ cho một người nào đó.
Như vậy, thực chất của kiểm toán nói chung là việc kiểm tra và cho ý kiến nhận xét về mức độ phù hợp của thông tin được kiểm toán so với các tiêu chuẩn, chuẩn mực của thông tin đã được thiết lập; việc kiểm tra này được thực hiện bởi người độc lập và có năng lực. Nói cách khác hoạt động kiểm toán là hoạt động thẩm định thông tin của kiểm toán viên.
Chức năng của kiểm toán
Thông qua định nghĩa nói chung về kiểm toán, ta có thể rút ra hai chức năng cơ bản của kiểm toán như sau:
Thứ nhất: Chức năng cơ bản đầu tiên của kiểm toán đó là kiểm tra và xác nhận hay còn gọi là chức năng xác minh.
Đây là chức năng được hình thành đầu tiên gắn liền với sự ra đời, hình thành và phát triển của kiểm toán. Bản thân chức năng này không ngừng phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của xã hội loài người nói chung và kiểm toán nói riêng, đồng thời chức năng này luôn thể hiện ở các mức độ khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ngay từ thời kỳ đầu, khi kiểm toán ra đời chức năng kiểm tra và xác nhận được thể hiện dưới dạng chứng thực báo cáo tài chính (kiểm toán cổ điển), về sau chức năng này phát triển mạnh mẽ và được thể hiện cao hơn dưới dạng báo cáo kiểm toán.
Thứ hai: Chức năng trình bày ý kiến (hay chức năng tư vấn). Đây là chức năng phát sinh và hình thành sau chức năng xác minh. Chức năng trình bày ý kiến cũng có quá trình phát triển riêng của nó. Cùng với quá trình phát triển của kiểm toán, chỉ một chức năng xác minh, kiểm toán không thể đáp ứng được yêu cầu của nhà quản lý nên chính từ yêu cầu thực tiễn quản lý đặt ra, đã xuất hiện chức năng tư vấn. ở thời kỳ ban đầu khi mới hình thành, chức năng này biểu hiện dưới dạng thư quản lý. Trong quá trình phát triển, sự biểu hiện của tư vấn cũng rất khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thực tế, chức năng này chỉ phát triển mạnh mẽ vào giữa thế kỷ XX, nhưng lại giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong một nền kinh tế thị trường phát triển cao như hiện nay.
Qua hai chức năng của kiểm toán ta thấy kiểm toán nhìn nhận đánh giá một cách toàn diện cả về quá khứ và tương lai. Về quá khứ, đối với các sự kiện đã nảy sinh, kiểm toán với tư cách là người kiểm toán xác minh sự việc đã hoàn thành nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin. Như vậy, chức năng kiểm toán xác nhận hay xác minh là chức năng hướng về quá khứ. Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin trong tương lai, kiểm toán lại có thêm chức năng thứ hai đó là chức năng tư vấn hay chức năng trình bày ý kiến, chức năng này hướng về tương lai. Hai chức năng của kiểm toán hình thành và phát triển hoàn toàn khác nhau tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử nhất định. ở thời kỳ đầu, người ta thường chỉ tập trung quan tâm đến chức năng kiểm tra xác nhận. Nhưng khi xã hội càng phát triển, người ta càng quan tâm nhiều hơn đến chức năng tư vấn của kiểm toán, đó là việc nhìn nhận, định hướng cho một tương lai đúng đắn để có những quyết định tối ưu và giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Chính vì vậy, ở giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin trong tương lai không chỉ riêng có chức năng của kiểm toán, mà còn có hàng loạt các tổ chức khác nhau cùng thực hiện chức năng này như: các tổ chức tư vấn về thuế, tư vấn về pháp luật kinh doanh...
Đối tượng của kiểm toán
Xã hội ngày càng phát triển, kiểm toán càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong quản lý. Kiểm toán là một môn khoa học nên có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng.
Xuất phát từ lịch sử ra đời, hình thành và phát triển của kiểm toán, ban đầu kiểm toán chỉ bó hẹp và giới hạn về đối tượng trong việc kiểm tra, đánh giá về tính trung thực hợp lý của báo cáo tài chính. Cùng với sự phát triển của xã hội và yêu cầu của quản lý thực hiện, con người không chỉ quan tâm đến báo cáo tài chính của đơn vị mà ngày càng quan tâm nhiều hơn sang các lĩnh vực phi tài chính, lĩnh vực hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng của hoạt động. Hay nói cách khác kiểm toán đã quan tâm một cách đầy đủ toàn diện mọi khía cạnh hoạt động của con người, chính điều đó đã làm đối tượng của kiểm toán ngày càng phong phú, đa dạng và toàn diện trên các mặt cụ thể như sau:
Báo cáo tài chính và thực trạng về tài sản, nghiệp vụ kinh tế phát sinh: Ngay từ khi mới hình thành, kiểm toán chỉ tiến hành thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính. Khi đó, đối tượng trực tiếp của kiểm toán là các báo cáo tài chính. Để có cơ sở đưa ra kết luận về báo cáo tài chính (như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính...). Khi đánh giá về các tài liệu kế toán, Kiểm toán viên cần phải đánh giá trên các mặt:
Tính hiện thực của các thông tin kế toán. Nói cách khác đây chính là tính có thật của tài sản và tính có thật của nghiệp vụ kinh tế phát sinh (tài sản thực tế tồn tại, thuộc quyền sở hữu của đơn vị và nghiệp vụ kinh tế thực tế phát sinh).
Tính hợp pháp hơp lý của tài liệu kế toán này
Sự phù hợp giữa tài liệu kế toán với thực trạng hoạt động của doanh nghiệp
Độ tin cậy của tài liệu kế toán.
Kiểm toán cổ điển thường chỉ quan tâm đến các tài liệu kế toán về tính hợp pháp, hợp lý. Còn độ tin cậy của tài liệu kiểm toán trong giai đoạn đầu chưa được đề cập đầy đủ nhưng càng về sau này, độ tin cậy lại càng được kiểm toán quan tâm nhiều hơn trong quá trình xem xét, đánh giá các tài liệu kế toán.
Cùng với sự phát triển của xã hội, trong kiểm toán báo cáo tài chính người ta đã biết quan tâm nhiều hơn đến thực trạng hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị nhằm đánh giá một cách đúng đắn hơn về báo cáo tài chính.
Hoạt động kinh tế tài chính là hoạt động dùng tiền làm thước đo để đo lường, đánh giá. Trong kiểm toán báo cáo tài chính, hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị cũng dần dần được quan tâm nhiều hơn cùng với sự phát triển của xã hội nói chung và kiểm toán nói riêng. Sự quan tâm này nhằm xây dựng một cơ sở để đánh giá một cách đúng đắn độ tin cậy và sự phù hợp giữa báo cáo tài chính, tài liệu kế toán với thực trạng hoạt động kinh tế của đơn vị.
Khi đánh giá hoạt động này, người ta thường quan tâm đến khía cạnh:
Sự hợp pháp, hợp lý của hoạt động tức là hoạt động phải tuân thủ pháp luật, chính sách chế độ và phù hợp với phạm vi hoạt động của đơn vị.
Hoạt động kinh tế, tài chính phải tuân thủ theo những quy luật chung. Không thể có một hoạt động kinh tế đi ngược, trái với quy luật, không thể có một đơn vị hoạt động kinh doanh với mục đích là lỗ...
Hoạt động kinh tế có sự phù hợp với quy luật cũng là nền tảng đánh giá kiểm toán viên về tính hợp pháp, hợp lý và độ tin cậy của báo cáo tài chính: hoạt động kinh tế tài chính phải tiết kiệm, hoạt động kinh tế tài chính phải có kế hoạch
Trong kiểm toán hiện đại ngày nay, khi kiểm toán báo cáo tài chính người ta đã biết quan tâm nhiều hơn đến thực trạng hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị. Việc kiểm tra, đánh giá thực trạng này được tiến hành bởi một loạt những phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ kiểm toán như: phỏng vấn, quan sát, kiểm kê, xác nhận...
Thực trạng về tài sản và nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong mỗi doanh nghiệp, đơn vị cũng có sự khác nhau. Trong quá trình kiểm toán, chuyên gia kiểm toán bắt buộc phải có sự hiểu biết về thực trạng tài sản và nghiệp vụ kinh tế phát sinh cũng như quá trình kiểm soát về từng loại tài sản và từng loại nghiệp vụ kinh tế phát sinh ở mỗi đơn vị để có thể đưa ra ý kiến nhận xét phù hợp. Nhiều trường hợp nếu chuyên gia kiểm toán thiếu sự hiểu biết về một loại tài sản hoặc một loại nghiệp vụ nào đó thì phải nhờ đến sự xác nhận của chuyên gia khác.
Thực trạng việc chấp hành luật pháp, chính sách, chế độ và những quy định:
Cùng với sự phát triển của kiểm toán báo cáo tài chính, đối tượng kiểm toán ngày càng được mở rộng và thâm nhập vào nhiều lĩnh vực. Kiểm toán không chỉ dừng lại ở kiểm toán báo cáo tài chính mà còn tiến hành kiểm toán tình hình chấp hành và thực hiện các chính sách, chế độ và các quy định có tính nguyên tắc. Chính từ thực trạng chấp hành và thực hiện luật pháp chính sách, chế độ và những quy định là đối tượng của kiểm toán. Một loại kiểm toán mới được hình thành từ đó, đó là kiểm toán tuân thủ, loại kiểm toán này dần dần được tiến hành đan xen trong kiểm toán báo cáo tài chính. Cho đến ngày nay kiểm toán tuân thủ luôn được tiến hành song song trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Tính hiệu lực, hiệu quả và tính kinh tế của hoạt động:
Ngày nay kiểm toán đã phát triển mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực tài chính, lĩnh vực thực hiện và chấp hành luật pháp, chính sách chế độ. Không những thế, kiểm toán còn phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là kiểm toán tính hiệu lực, hiệu quả và tính kinh tế của hoạt động nhằm đem lại hiệu quả cao trong quản lý, chiến thắng trong cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận. Sự quan tâm của xã hội nói chung và kiểm toán nói riêng đã dần dần xoay chuyển từ việc nhìn nhận đánh giá về quá khứ sang đánh giá và hướng về tương lai nhiều hơn. Trên thế giới hiện nay, đặc biệt đối với kiểm toán nội bộ và kiểm toán nhà nước đã tập trung và đi sâu hơn vào tính hiệu lực, hiệu quả và tính kinh tế của hoạt động. Chính vì vậy, tính hiệu lực, hiệu quả và tính kinh tế của hoạt động là đối tượng kiểm toán chủ yếu trong kiểm toán hiện đại ngày nay, nhất là trong các lĩnh vực phi sản xuất kinh doanh.
Phân loại kiểm toán:
1.1.4.1 Phân loại kiểm toán theo mục đích của kiểm toán (hay theo đối tượng trực tiếp của kiểm toán):
Căn cứ vào mục đích cụ thể (hay đối tượng trực tiếp) của kiểm toán, người ta thường chia kiểm toán thành ba loại là: kiểm toán hoạt động (Performance Audit), kiểm toán tuân thủ (Compliance Audit) và kiểm toán báo cáo tài chính (Audit of Financial Statements).
Kiểm toán hoạt động:
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xét và đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán.
Tính kinh tế là sự tiết kiệm các nguồn lực. hay đây còn gọi là nguyên tắc tối thiểu, nghĩa là để đạt được mục tiêu nhất định cần dùng một lượng nguồn lực ít nhất (kể cả trong mua sắm và sử dụng).
Tính hiệu lực là khả năng về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu đã xác định của đơn vị.
Tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất với một lượng nguồn lực nhất định, hay đay còn gọi là nguyên tắc tối đa.
Có rất nhiều lĩnh vực khác nhau cần phải kiểm tra và theo dõi về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả nên đối tượng của kiểm toán hoạt động cũng rất phong phú và đa dạng. Chúng không chỉ giới hạn trong lĩnh vực tài chính mà còn có thể bao gồm nhiều lĩnh vực và hoạt động khác nhau như việc đánh giá cơ cấu tổ chức, một phương án kinh doanh, một quy trình công nghệ, một hệ thống máy tính, hay một loại tài sản, thiết bị mới đưa vào hoạt động...Việc xác định các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu quả của các hoạt động là việc làm rất khó khăn, việc lượng hoá các mặt trên thành các tiêu chuẩn để đánh giá là việc làm mang nặng tính chủ quan. Do vậy việc đánh giá kết quả trong kiểm toán hoạt động cũng hết sức chủ quan. Để thực hiện cuộc kiểm toán hoạt động đòi hỏi người kiểm toán viên phải am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau như kế toán, tài chính, kinh tế, khoa học kỹ thuật...”Sản phẩm” của kiểm toán hoạt động là một bản báo cáo cho người quản lý về kết quả kiểm toán và những ý kiến đề xuất cải tiến hoạt động.
Kiểm toán tuân thủ:
Kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được kiểm toán có tuân thủ các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ quan chức năng của nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không.
Đối tượng của kiểm toán tuân thủ cũng khá linh hoạt. Nó có thể là việc tuân thủ các quy tắc do các cơ quan Nhà nước cấp trên đề ra, như kiểm tra đánh giá về việc tuân thủ các quy định về thuế giá trị gia tăng, các quy định về bảo vệ môi trường bảo vệ người lao động... hoặc việc tuân thủ những quy định do người quản lý cấp trên trong đơn vị đề ra, hoặc nó còn là việc tuân thủ những quy định do người quản lý cấp trên trong đơn vị đề ra, hoặc nó còn là việc tuân thủ những quy định của cơ quan chuyên môn đề ra như việc tuân thủ các quy trình và thủ tục giải ngân của kho bạc nhà nước, việc tuân thủ các điều kiện và thủ tục vay vốn của ngân hàng... Các tiêu chuẩn, chuẩn mực để đánh giá thông tin ở loại kiểm toán này không phức tạp như kiểm toán hoạt động, chúng thường được xác định một cách dễ dàng gắn liền với các thủ tục, quy tắc được kiểm toán. Thông thường loại kiểm toán được thực hiện để phục vụ cho nhu cầu của bản thân các đơn vị, hoặc nhu cầu của cơ quan quản lý cấp trên nên kết quả của kiểm toán tuân thủ nói chung được báo cáo cho người có trách nhiệm trong đơn vị được kiểm toán hoặc cơ quan quản lý cấp trên hơn là cho một phạm vi rộng người sử dụng. Trường hợp việc kiểm toán do một khách hàng, không phải đơn vị được kiểm toán có nhu cầu, như việc kiểm tra tính tuân thủ các quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp ở một đơn vị do cơ quan thuế thuê mướn, thì kết quả kiểm toán sẽ được báo cáo cho cơ quan có nhu cầu thuê mướn kiểm toán.
Kiểm toán báo cáo tài chính:
Kiểm toán báo cáo tài chính là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác nhận về tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính được kiểm toán.
Báo cáo tài chính được kiểm toán, thường là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh báo cáo tài chính của các đơn vị tổ chức kinh doanh. Ngoài ra, các báo cáo tài chính của các đơn vị khác như bảng cân đối kế toán, báo cáo quyết toán vốn, ngân sách của các đơn vị hành chính, sự nghiệp, của các dự án đầu tư... cũng là những đối tượng thông tin của kiểm toán báo cáo tài chính. Tiêu chuẩn, chuẩn mực cho việc đánh giá thông tin của loại kiểm toán này thường là các chuẩn mực kế toán, các quy định pháp lý về kế toán và các quy định khác có liên quan.
ở các nước có nền kinh tế thị trường, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp được nhiều người quan tâm và nó cũng có thể được kiểm toán bởi nhiều tổ chức kiểm toán khác nhau, đặc biệt là các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp.
1.1.4.2 Một số cách phân loại khác:
Phân loại kiểm toán theo loại hình tổ chức kiểm toán:
Theo loại hình tổ chức kiểm toán, kiểm toán được chia làm ba loại là kiểm toán nội bộ, kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập. Kiểm toán nội bộ được tổ chức bên trong mỗi đơn vị thực hiện kiểm tra và cho ý kiến về các đối tượng được kiểm toán nhằm giúp đơn vị thực hiện tốt cách chức năng và nhiệm vụ của mình. Kiểm toán nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính tối cao của quốc gia, thực hiện việc kiểm tra và báo cáo về việc quản lý và sử dụng các nguồn lực của nhà nước ở các đơn vị. Kiểm toán độc lập được tổ chức dưới dạng doanh nghiệp kiểm toán (công ty hay hãng kiểm toán) nhằm cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có tính chuyên môn xã hội.
Phân loại kiểm toán theo mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm toán:
Theo tiêu thức này, kiểm toán được chia thành kiểm toán bên trong (nội kiểm) và kiểm toán bên ngoài (ngoại kiểm). Kiểm toán bên trong là những hoạt động kiểm toán được thực hiện bởi chính những người trong đơn vị (kiểm toán nội bộ). Còn kiểm toán bên ngoài là những hoạt động kiểm toán được thực hiện bởi những người bên ngoài đơn vị (kiểm toán độc lập hoặc có thể là kiểm toán Nhà nước).
Phân loại kiểm toán theo quan hệ pháp lý đối với khách thể kiểm toán:
Theo mối quan hệ này, kiểm toán được chia thành kiểm toán bắt buộc và kiểm toán tự nguyện. Kiểm toán toán bắt buộc là các đơn vị được kiểm toán (khách thể kiểm toán) phải chịu sự kiểm toán bắt buộc theo luật định. Kiểm toán tự nguyện là loại kiểm toán không bắt buộc đối với đơn vị được kiểm toán nhưng đơn vị này có nhu cầu và tự nguyện thực hiện việc kiểm toán.
Phân loại kiểm toán theo tính chu kỳ của kiểm toán:
Theo cách phân loại này, kiểm toán được chia thành kiểm toán thường kỳ, kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường.
Ngoài ra, còn có nhiều các khác để phân loại kiểm toán như: theo thời điểm kiểm toán với thời điểm phát sinh của các nghiệp vụ, sự kiện có kiểm toán trước (tiền kiểm), kiểm toán trong (kiểm toán hiện hành) và kiểm toán sau (hậu kiểm); theo tính chất và phạm vi tiến hành kiểm toán có kiểm toán toàn diện và kiểm toán chuyên đề v.v..
Khái quát chuẩn mực quốc tế về dịch vụ kiểm toán và chứng thực
Hiệp hội kế toán quốc tế (IFAC)
Thông thường mỗi quốc gia có hội kế toán kiểm toán hành nghề. ở các nước phương Tây, những hội nghề nghiệp này là các tổ chức độc lập, chịu trách nhiệm soạn thảo và ban hành các chuẩn mực kiểm toán còn ở các nước đang phát triển các tổ chức này, mặc dù là tổ chức phi Chính phủ, nhưng chịu sự chi phối của Bộ Tài chính. Ví dụ như ở Mỹ, ban soạn thảo Chuẩn mực Kiểm toán “ASB’ là uỷ ban chuyên môn cao cấp của Hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ (AICPA) chịu trách nhiệm ban hành các chuẩn mực và hướng dẫn thực hiện các dịch vụ kiểm toán, chứng nhận và kiểm soát chất lượng. Hiệp hội IFAC ‘Hiệp hội kế toán quốc tế’ là một tổ chức kế toán quốc tế được biết đến với tư cách là một tổ chức uy tín về soạn thảo và ban hành các chuẩn mực quốc tế và các nguyên tắc và thông lệ kiểm toán. IFAC được thành lập vào năm 1977. Liên đoàn có nhiệm vụ thúc đẩy và phát triển ngành thông qua ban hành các chuẩn mực được chấp nhận chung nhằm hỗ trợ công tác kiểm toán đạt chất lượng dịch vụ cao hơn phục vụ lợi ích công cộng. IFAC hiện có hơn 150 thành viên từ kháp mọi nơi trên thế giới, đại diện cho hơn 2.4 triệu kế toán làm việc trong các lĩnh vực giáo dục, tư nhân, nhà nước, các ngành thương mại và công nghiệp.
Cơ cấu và hoạt động của IFAC gồm:
ủy ban Tuân thủ
ủy ban Giáo dục
ủy ban Đạo đức nghề nghiệp
Ban chuẩn mực chứng thực và kiểm toán quốc tế (IAASB)
Ban kế toán công lập quốc tế
Kế toán hành nghề kinh doanh
ủy ban Kiểm toán chuyển đổi
IAASB hoạt động với tư cách là cơ quan soạn thảo và ban hành các chuẩn mực độc lập dưới sự bảo trợ của IFAC. Các chuẩn mực IAASB là nguyên tắc cơ bản và thông lệ về kiểm toán và các dịch vụ liên quan. IAASB cũng ban hành các Chuẩn mực thực hành nhằm “hướng dẫn thực hiện” và “hỗ trợ thực tiễn” khi áp dụng các chuẩn mực và lựa chọn thông lệ kiểm toán phù hợp nhất.
Uỷ ban Chuẩn mực kế toán nhà nước quốc tế (IPSASB) chịu trách nhiệm soạn thảo và ban hành các nguyên tắc kế toán, kiểm toán và các yêu cầu về báo cáo tài chính của chính phủ, quốc gia, trung ương và địa phương, các cơ quan trực thuộc chính phủ và các tổ chức tương đương. IPSASB ban hành các Chuẩn mực Kế toán nhà nước quốc tế.
Uỷ ban Đạo đức nghề nghiệp chịu trách nhiệm xây dựng khung quy định về đạo đức nghề nghiệp và nâng cao khả năng nhận thức và sự chấp hành của nước thành viên. Uỷ ban đạo đức nghề nghiệp ban hành Chuẩn mực Đạo đức nghề nghiệp IFAC cho các kế toán hành nghề.
Uỷ ban Giáo dục hướng dẫn, nghiên cứu và giúp đỡ các kế toán chuyên nghiệp trao đổi thông tin, đảm bảo các nhân viên kế toán được đào tạo đầy đủ kiến thức có khả năng chịu trách nhiệm trước cổ đông và người tuyển dụng, đồng thời góp phần hoà hợp môi trường kế toán chuyên nghiệp trên thế giới. Uỷ ban Giáo dục ban hành các Chuẩn mực Giáo dục quốc tế. Ba uỷ ban còn lại gồm Uỷ ban Tuân thủ, Uỷ ban Kiểm toán chuyển đổi và kế toán hành nghề kinh doanh chịu trách nhiệm thực thi chuẩn mực (Uỷ ban tuân thủ), trợ giúp các công ty kiểm toán trong quá trình chuyển đổi (Uỷ ban Kiểm toán chuyển đổi) và hỗ trợ các kế toán chuyên nghiệp liên kết và trao đổi thông tin (Kế toán hành nghề kinh doanh);
Cơ cấu hệ thống chuẩn mực của Ban Chuẩn mực chứng thực và kiểm toán quốc tế.
Cơ cấu hệ thông chuẩn mực của IAASB bao gồm các chuẩn mực về kiểm toán, chứng thực và các dịch vụ liên quan thực hiện phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. IAASB quyết tâm với mục tiêu xây dựng một bộ các chuẩn mực quốc tế . IAASB quyết tâm với mục tiêu xây dựng một bộ các chuẩn mực quốc tế được chấp nhận chung, vì vậy IAASB đã hợp tác với các cơ quan soạn thảo và ban hành chuẩn mực quốc gia và quốc tế và biến hệ thống các chuẩn mực quốc gia va quốc tế và biến hệ thống các chuẩn mực của IAASB được chấp nhận toàn cầu. Cơ cấu hệ thống các chuẩn mực của IAASB gồm những vấn đề sau:
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp IFAC cho các kế toán hành nghề là nền tảng cho tất cả các chuẩn mực về đạo đức đã được thống nhất với các chuẩn mực đạo đức của các nước thành viên.
Các chuẩn mực quốc tế về kiểm soát chất lượng (ISQC) áp dụng cho tất cả các dịch vụ được đề cập trong Chuẩn mực Hợp đồng của IAASB. Cho đến nay, chưa có chuẩn mực nào được ban hành.
Hai chuẩn mực quốc tế về các dịch vụ liên quan (ISRS) áp dụng cho dịch vụ cho dịch vụ tổng hợp thông tin tài chính và dịch vụ kiểm tra thông tin tài chính trên cơ sở các thủ tục thoả thuận trước và các hợp đồng dịch vụ liên quan khác đã được IAASB quy định.
Ba mươi sáu chuẩn mực Kiểm toán quốc tế áp dụng cho hợp đồng kiểm toán thông tin tài chính.
Mười bốn Chuẩn mực quốc tế cho dịch vụ soát xets (ISRE) áp dụng cho hợp đồng soát xét các thông tin tài chính.
Ba Chuẩn mực quốc tế cho dịch vụ chứng thực (ISAE) áp dụng đối với dịch vụ chứng thực cho vụ việc, không phải vụ việc liên quan thông tin tài chính.
ISA, ISAE và ISRS thuộc vào các chuẩn mực cung cấp dịch vụ của IAASB
Một số khái niệm về kiểm toán nội bộ
1.2.1 Sự hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ.
Hoạt động của kiểm toán nói chung đã xuất hiện từ lâu trên thế giới. Sự phát triển về kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia qua thời gian đã làm cho hoạt động kiểm toán ngày càng phát triển và trở thành nhu cầu không thể thiếu được của các quốc gia.
So với kiểm toán độc lập và kiểm toán nhà nước thì loại hình kiểm toán nội bộ ra đời muộn hơn, bắt đầu từ năm 1940 mới xuất hiện khái niệm kiểm toán nội bộ. Nhưng nó có sự phát triển rất mạnh mẽ đặc biệt trong công việc quản trị doanh nghiệp. Các đơn vị kinh tế cơ sở phát hiện ra rằng hệ thống kiểm toán nội bộ là phương tiện quản lý có hiệu quả và là công cụ đắc lực giúp cho các nhà quản lý giám sát được toàn bộ các hoạt động của đơn vị mình. Không những thế, trong các cơ quan nhà nước việc hình thành các bộ phận kiểm toán nội bộ để kiểm tra thường xuyên các hoạt động trong cơ quan đang tỏ ra có nhiều tác dụng thiết thực.
Với sự lớn mạnh và gia tăng quy mô các doanh nghiệp vài thập niên gần đây, tầm quan trọng kiểm toán nội bộ cũng lớn mạnh một cách tương ứng, làm cho nó trở thành yếu tố chính trong việc thiết lập hệ thống kiểm soát và kiểm tra nội bộ. ở một số nước, cơ quan lập pháp đã đưa ra những văn bản pháp luật nhằm tạo ra hành lang pháp lý để tạo điều kiện cho kiểm toán nội bộ hoạt động và phát triển. Bộ phận kiểm toán nội bộ đã phát triển cực nhanh ở Mỹ cũng như ở châu Âu từ những năm 60. Sự phát triển này đã được khuyến khích bởi sự thành lập của tổ chức Kiểm toán nội bộ (IIA) năm 1941 tại NewYork, tổ chức này đã xác định bản chất, mục tiêu và phạm vi hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ. Tổ chức kiểm toán nội bộ là thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) và INTOSAI, đồng thời nó chuyên sâu nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cấp chứng chỉ cho các kiểm toán viên nội bộ (CIA).
Khái niệm kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó, với tư cách là một sự trợ giúp đối với tổ chức đó.
Các thuật ngữ sử dụng trong định nghĩa trên:
Kiểm toán nội bộ là công việc kiểm toán do tổ chức và nhân viên của tổ chức tiến hành. Như vậy là, công việc kiểm toán ở đây khác với công việc do kiểm toán công chứng bên ngoài thực hiện.
Thuật ngữ độc lập nói lên rằng công việc kiểm toán không bị những rành buộc có thể hạn chế đáng kể phạm vi và hiệu quả của việc thẩm tra, hoặc làm chậm trễ việc báo cáo những phát hiện và kết luận.
Thuật ngữ thẩm định khẳng định chủ đề đánh giá của kiểm toán viên nội bộ khi triển khai những kết luận
Thuật ngữ được thiết lập xác nhận là tổ chức đã định rõ vai trò của kiểm toán nội bộ.
Các thuật ngữ xem xét và đánh giá nói rõ vai trò hành động của kiểm toán viên nội bộ, một là điều tra phát hiện sự việc, hai là nhận định đánh giá.
Cụm từ hoạt động của tổ chức khẳng định phạm vi và quyền hạn rộng của công việc kiểm toán nội bộ khi tác động đến tất cả các hoạt động của tổ chức.
Thuật ngữ trợ giúp khẳng định sự giúp đỡ và hỗ trợ là kết quả cuối cùng của kiểm toán nội bộ.
Cụm từ đối với tổ chức đó khẳng định toàn bộ phạm vi giúp đỡ cho cả tổ chức, bao gồm toàn thể nhân viên, Hội đồng giám đốc và các cổ đông của công ty.
Mục đích, yêu cầu của kiểm toán nội bộ
Mục đích của kiểm toán nội bộ là thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát chất lượng hoạt động và chất lượng thông tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, giúp cho công tác điều hành của chủ sở hữu, nhà quản lý doanh nghiệp trong việc giúp phát hiện và khắc phục khâu yếu, ngăn ngừa sai sót, gian lận trong hoạt động kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời kết quả kiểm toán nội bộ sẽ góp phần đắc lực và hiệu quả vào việc đảm bảo thông tin kinh tế, tài chính cung cấp cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.
Chức năng của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ hình thành do nhu cầu quản lý nên chức năng của nó cũng trải qua quá trình phát triển từ thấp tới cao cùng với khoa học quản lý kinh tế, trình độ và kinh nghiệm quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Mặc dù theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, chức năng của kiểm toán nội bộ hiện đại là đánh giá độc lập hệ thống kiểm soát nội bộ, nhưng chức năng truyền thống của kiểm toán nội bộ là xem xét, đánh giá độ tin cậy, thống nhất của các thông tin tài chính, đánh giá việc sử dụng tiết kiệm, hữu hiệu vốn và tài sản của doanh nghiệp. Chính vì thế, việc quy định chức năng, nhiệm vụ cho kiểm toán nội bộ cần phải xem xét phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng khu vực kinh tế, từng ngành và từng đơn vị cụ thể.
Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
Về cơ bản nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ bao gồm các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ, tài liệu, số liệu kế toán, việc chấp hành chế độ, thể lệ kế toán tài chính của nhà nước, kiểm tra việc tuân thủ các chính sách, các quy định, các kế hoạch và các thủ tục hiện hành.
Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hệ thống thiết lập xem có sự bảo đảm sự tuân thủ với các chính sách, thủ tục, biện pháp và các quy định mà có thể tác động quan trọng đến mọi hoạt động của tổ chức. Tiếp nối với chức năng này, trong một số trường hợp và nếu được phép của Uỷ ban quản trị tối cao, các kiểm toán viên nội bộ đánh giá tính hợp lý và sự ưu việt của các chính sách, quy định, kế hoạch trước khi đi đến việc xác định mức độ tuân thủ. Họ sẽ chỉ ra khoản lợi nhuận (hay tiết kiệm được) từ các hoạt động bởi việc tuân thủ thích đáng các chính sách, các kế hoạch và thủ tục được lập ra và các mất mát nếu không có sự tuân thủ đó. Bên cạnh đó, các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra tính pháp lý của các thông tin kế toán với chuẩn mực là các quy định pháp chế của Nhà nước.
Thứ hai: Kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin trong đó chủ yếu là kiểm tra và xác định mức độ trung thực, hợp lý của các báo cáo quyết toán do kế toán và các bộ phận khác trong doanh nghiệp lập ra.
Kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin không chỉ của bản thân các thông tin tài chính mà cả các hoạt động và phương tiện được sử dụng để xác minh, đo đạc, phân loại và báo cáo các thông tin đó. Việc kiểm tra hệ thống thông tin này là cơ sở để khẳng định các sổ sách và báo cáo tài chính chứa đựng các thông tin chính xác, kịp thời và hữu ích. Các kiểm toán viên nội bộ thực hiện kiểm tra các báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất với mục đích giúp chủ Doanh nghiệp hay nhà quản lý của doanh nghiệp kiểm tra lại các thông tin tài chính, kiểm toán viên nội bộ tiến hành kiểm tra, soát xét việc tính toán, phân loại báo cáo, thẩm định cụ thể các khoản mục cá biệt (kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số dư tài khoản). Điều này cũng có tác dụng giảm phí kiểm toán của các kiểm toán viên độc lập khi công việc của kiểm toán viên nội bộ đạt hiệu quả tốt.
Trường hợp thứ hai công việc kiểm tra được thực hiện nhằm hoàn thiện việc thẩm tra các lĩnh vực khác để có thể đưa ra kết luận. Việc kiểm tra các báo cáo tài chính trở thành hoạt động bổ trợ đối với nhiệm vụ kiểm toán chính.
Thứ ba: Kiểm tra việc tuân thủ các mục tiêu đề ra đối với các chương trình hay các hoạt động nghiệp vụ. Kiểm tra xác nhận giá trị vốn góp của doanh nghiệp và các đối tác tham gia liên doanh với doanh nghiệp. Kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp lý, đầy đủ của số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị liên doanh.
Kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các hoạt động hay chương trình để xem xét kết quả thu được có phù hợp với mục tiêu đề ra hay không và các hoạt động, chương trình đó có được thực hiện theo kế hoạch đã định hay không. Bên cạnh đó, kiểm toán viên nội bộ cần trợ giúp cho những người lãnh đạo khi xây dựng các mục tiêu cho các chương trình bằng việc xác định xem những giả thiết, dữ liệu quan trọng có hợp lý không, những thông tin hiện thời có chính xác và có được sử dụng không và hệ thống kiểm tra kiểm soát có được thiết lập trong các hoạt động hay chương trình không. Đánh giá các vấn đề liên quan đến liên doanh liên kết trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là những mục tiêu quan trọng mà các kiểm toán viên nội bộ phải thực hiện, bao gồm: đánh giá các báo cáo kế toán liên doanh liên kết, xác định giá trị liên doanh của doanh nghiệp và việc bảo toàn vốn liên doanh, liên kết...
Thứ tư: Kiểm tra các phương tiện bảo đảm an toàn cho tài sản. Kiểm tra tính hiệu quả và pháp lý của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đó có hệ thống kế toán. Giám sát sự hoạt động và tham gia hoàn thiện chúng.
Các kiểm toán viên nội bộ phải kiểm tra các phương tiện được sử dụng để đảm bảo an toàn cho các tài sản để tránh các mất mát khác nhau như ăn trộm hoặc hỏa hoạn....
Mặt khác, kiểm toán viên nội bộ cần có những kiến nghị cho nhà quản lý để phòng ngừa các hành vi bất hợp pháp xâm phạm tài sản của đơn vị, tổ chức.
Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ là một trong những nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ, xem xét hệ thống kế toán hoạt động có hiệu quả và bảo đảm độ tin cậy hay không, đồng thời qua đó đưa ra các kiến nghị cũng như các giải pháp để hoàn thiện hệ thống đó.
Thứ năm: Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động của các nguồn lực.
Kiểm toán viên nội bộ phải đánh giá chất lượng thực hiện các nhiệm vụ được giao. Việc thực hiện này liên quan đến các nhóm hay các nhân viên của đơn vị. ở đây kiểm toán nội bộ không chỉ quan tâm tới việc các nhóm hay các nhân viên thực hiện công việc của họ có mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp hay không? Do các công việc (đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật) rất đa dạng trong một tổ chức kinh tế nên để hoàn thành được nhiệm vụ trên, bộ phận kiểm toán phải tuyển chọn được những người có trình độ nghiệp vụ tương xứng.
Thứ sáu: Thẩm tra các thủ tục kiểm soát để xác định tính thích hợp và ưu việt của nó. Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lý của quy chế kiểm soát nội bộ, đồng thời có kiến nghị hoàn thiện các quy chế này.
Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ đồng thời kiểm toán nội bộ phải thực hiện việc giám sát thực hiện các quy chế kiểm soát nội bộ đã đề ra, qua đó phát hiện những điểm chưa hợp lý để tham gia hoàn thiện chúng.
Mục đích của việc thẩm tra tính thích hợp của kiểm toán nội bộ để khẳng định rằng hệ thống kiểm toán nội bộ vận hành đều đặn và có hiệu quả, đáp ứng mọi mục tiêu đã định trước. Việc thẩm tra sẽ phơi bày mọi hành vi gian lận, không bình thường và gây lãng phí với bản chất lặp đi lặp lại nhằm ngăn chặn và giảm thiểu chúng.
Thứ bảy: Các nhiệm vụ đặc biệt khác.
Ngoài các nhiệm vụ chính trên, kiểm toán nội bộ có thể được giao bất cứ nhiệm vụ gì mà có ích cho Ban Giám đốc chẳng hạn như: điều tra về cá nhân, đại diện cho Ban giám đốc hoặc giám sát trong các thoả thuận, tham gia vào các chương trình đào tạo đơn vị.
Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên, kiểm toán nội bộ có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ kế toánvà các cán bộ nghiệp vụ khác có liên quan, đề xuất các quyết định quản lý, xử lý về tài chính kế toán và các nội dung xử lý khác.
Quyền hạn của kiểm toán nội bộ
Được quyền yêu cầu cung cấp tài liệu và thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ. Trường hợp cần thiết có quyền yêu cầu sự hỗ trợ về chuyên môn và nhân sự của các bộ phận chức năng.
Kiến nghị mang tính chất xây dựng đối với các cấp lãnh đạo, các bộ phận trong doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh và công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Có quyền bảo lưu ý kiến có liên quan đến kết quả kiểm toán.
Vị trí, ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán nội bộ.
Xét về vị trí của kiểm toán nội bộ trong cơ cấu tổ chức: Trong sơ đồ quản lý doanh nghiệp, trách nhiệm và nhiệm vụ càng lớn thì vị trí càng cao. Do tính chất đặc thù của hoạt động kiểm toán, đảm bảo tính khách quan trong công việc, bộ phận kiểm toán nội bộ cần được tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của (Tổng) Giám đốc hoặc HĐQT của doanh nghiệp.
ý nghĩa và tác dụng của kiểm toán nội bộ:
Kiểm toán nội bộ là một hoạt động nội kiểm sinh ra từ nhu cầu quản lý, nên trước hết hoạt động này có ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với các nhà quản lý. Thực vậy, kể từ khi chính thức ra đời đến nay có sự lớn mạnh nhanh chóng trong việc áp dụng kiểm toán nội bộ vào công việc quản trị Doanh nghiệp. Các đơn vị kinh tế cơ sở phát hiện ra rằng hệ thống kiểm toán nội bộ là phương tiện quản lý hiệu quả và ngày nay nó đã tìm được chỗ đứng vững chắc trong các cơ quan Chính phủ, các đơn vị sản xuất kinh doanh lớn nhỏ trên toàn cầu.
Đối với các kiểm toán viên độc lập: Họ thừa nhận kiểm toán nội bộ là công cụ quản lý hiệu quả và là sự bổ sung cần thiết cho công việc ngoại kiểm nên luôn khuyến khích khách hàng của mình thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ.
Trong hệ thống kiểm tra tài chính Nhà nước, hệ thống kiểm toán nội bộ trong các cơ quan hành chính sự nghiệp và các tổ chức kinh tế Nhà nước giữ vai trò hết sức quan trọng. Do kiểm toán nội bộ được đặt tại các đơn vị cơ sở nên giúp sớm phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các hành vi tiêu cực, gian lận trong quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế, tài chính, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý; hoàn thiện và đổi mới phong cách làm việc tại các cơ quan, đơn vị.
Về mặt lý thuyết, kiểm toán nội bộ là lực lượng độc lập trong đơn vị được lập ra để kiểm tra và đánh giá những hoạt động của đơn vị và các thành viên khác trong đơn vị đó. Trong những đơn vị nhỏ, chức năng kiểm toán nội bộ thuộc về một phần của vai trò quản lý và được người chủ sở hữu hoặc người quản lý trực tiếp thực hiện. Tuy nhiên, các hoạt động cụ thể tại các đơn vị rất đa dạng và phức tạp, hệ thống kiểm tra đã thiết lập từ trước khó đem lại cho ông chủ và các nhà quản lý cấp cao cái nhìn quán xuyến đối với hoạt động đã và đang diễn ra. Những quy tắc định ra có được tuân thủ hay không? Tài sản có được bảo vệ nguyên vẹn hay không? Công nhân viên làm việc có hiệu năng không? Những câu trả lời này phải giao cho một người hoặc một số người chịu trách nhiệm kiểm tra và đánh giá các hoạt động, sau đó báo cáo lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý. Kiểm toán viên nội bộ là người đảm nhận công việc này.
Tóm lại kiểm toán nội bộ hoạt động đúng với chức năng của mình sẽ có ý nghĩa và tác dụng to lớn đối với Doanh nghiệp mà trước hết là cho những nhà quản lý.
Các chuẩn mực nghề nghiệp đối với kiểm toán nội bộ.
Tuân thủ các chuẩn mực đạo đức
Kiểm toán viên nội bộ phải tuân thủ các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.
Kiểm toán viên phải là người trung thực và có lương tâm nghề nghiệp, trong sáng, công minh và không được phép để cho những định kiến thiên lệch lấn át tính khách quan trong quá trình kiểm toán.
Kiểm toán viên phải có thái độ vô tư, không bị những lợi ích vật chất chi phối.
Kiểm toán viên phải tự điều chỉnh cho phù hợp với uy tín của ngành nghề, uy tính bản thân của công ty, phải kiềm chế những cá tính có thể làm hại cho uy tín nghề nghiệp.
Kiểm toán viên phải có đức tính thận trọng, chu đáo trong tiến hành kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán. Kiểm toán viên không được đưa ra kết luận hoặc quyết định thiếu căn cứ hoặc bằng chứng không rõ ràng. Luôn luôn phải đánh giá các bằng chứng thu thập một cách cẩn thận, chu đáo, kỹ lưỡng.
Kiến thức, kỹ năng và kỷ luật
Kiểm toán viên nội bộ phải có kiến thức, kỹ năng và kỷ luật cần thiết để thực hiện công việc kiểm toán.
Mỗi một kiểm toán viên nội bộ phải có kiến thức kỹ năng sau đây:
Sự tinh thông nghiệp vụ trong việc áp dụng các chuẩn mực, thủ tục và kỹ thuật kiểm toán nội bộ là điều cần có để thực hiện các cuộc kiểm toán.
Tinh thông nguyên tắc và nghiệp vụ kế toán là yêu cầu phải có đối với kiểm toán viên nội bộ làm việc có tính bao quát với sổ sách và báo cáo tài chính.
Yêu cầu có hiểu biết nguyên tắc quản lý để nhận thức và đánh giá thực chất và tầm quan trọng của những sai lệch trong thực tế kinh doanh. Hiểu biết và tầm quan trọng của những sai lệch trong thực tế kinh doanh. Hiểu biết tức là có khả năng áp dụng kiến thức rộng vào những tình huống có thể gặp, nhận thức những chỗ sai lệch quan trọng và có thể tiến hành nghiên cứu cần thiết để có được những giải pháp hợp lý.
Yêu cầu nhận thức rõ những nguyên tắc cơ bản của các vấn đề kế toán, kinh tế luật thương mại, hệ thống thuế, tài chính, các phương pháp định lượng và hệ thống thông tin được chương trình hoá. Sự nhận thức rõ nghĩa là có khả năng nhận thức các vấn đề hiện tại hoặc những vấn đề tiềm ẩn để quyết định sự nghiên cứu tiếp theo để thực hiện hoặc sự hỗ trợ nhận được.
Quan hệ cá nhân và trao đổi ý kiến
Kiểm toán viên nội bộ phải khéo ứng xử khi tiếp xúc với các cá nhân khác và khi trao đổi ý kiến có hiệu quả.
Kiểm toán viên nội bộ phải nắm vững quan hệ cá nhân và duy trì mối quan hệ thoả đáng với những bộ phận được kiểm toán.
Kiểm toán nội bộ phải khéo ứng xử trao đổi ý kiến trực tiếp hoặc bằng văn bản để có thể truyền đạt rõ ràng và có hiệu quả những vấn đề như: mục tiêu kiểm toán, đánh giá, kết luận và kiến nghị.
Học tập không ngừng
Kiểm toán viên nội bộ phải duy trì trình độ thông thạo của mình thông qua việc không ngừng học tập.
Kiểm toán viên nội bộ phải có trách nhiệm học tập không ngừng học tập để duy trì trình độ thành thạo của mình. Họ phải hiểu biết được những cải tiến, những phát triển mới trong chuẩn mực, thủ tục và kỹ thuật kiểm toán nội bộ. Học tập không ngừng nhờ vào tư cách hội viên tham gia các hội nghề nghiệp, tham gia các buổi diễn thuyết, hội thảo, các lớp học nghiệp vụ, các chương trình tự huấn luyện và tham gia các công trình nghiên cứu khoa học.
Thận trọng nghề nghiệp
Kiểm toán viên nội bộ phải rèn luyện tính thận trọng nghề nghiệp đúng mực trong khi thực hiện kiểm toán nội bộ.
Tính thận trọng nghề nghiệp đúng mực đòi hỏi vận dụng tính cẩn trọng và kỹ năng cần có của một kiểm toán viên độc lập có trình độ và thận trọng hợp lý trong những tình huống như nhau hoặc tương tự. Do đó tính thận trọng nghề nghiệp phải thích ứng với sự phức tạp của nhiệm vụ kiểm toán cần thực hiện. Trong việc rèn luyện tính thận trọng nghề nghiệp đúng mực, kiểm toán viên nội bộ phải đề phòng khả năng xảy ra những hành động sai trái nhầm lẫn và bỏ sót, kém hiệu suất lãng phí, và những mâu thuẫn quyền lợi. Họ cũng phải đề phòng những điều kiện và những hoạt động mà sự bất hợp lệ có thể xảy ra. Họ còn phải xác định các trường hợp kiểm tra không đầy đủ và kiến nghị những tiền đề thúc đẩy việc tuân theo các thủ tục và những cách làm tốt đã được chấp nhận.
Tính thận trọng hàm ý cả tính thận trọng hợp lý và tài năng, không phải là cái gì tuyệt đối hay là thành tích phi thường. Tính thận trọng đúng mực đòi hỏi kiểm toán viên tiến hành xem xét đối chiếu trong phạm vi hợp lý mà không đòi hỏi kiểm toán tỉ mỉ tất cả các nghiệp vụ. Vì vậy, kiểm toán viên nội bộ không thể đảm bảo tuyệt đối là không có sự bất tuân thủ và bất hợp lệ. Tuy nhiên khả năng có sự bất tuân thủ hay bất hợp lệ cụ thể phải được lưu ý khi kiểm toán viên nội bộ nhận nhiệm vụ kiểm toán nội bộ.
Khi kiểm toán viên nội bộ nghi ngờ có hành động sai trái phải báo cho cấp lãnh đạo hữu quan trọng tổ chức biết. Khi đó, kiểm toán viên nội bộ có thể khuyến khích những điều tra nào là cần thiết trong hoàn cảnh này. Sau đó, kiểm toán viên phải theo dõi thực hiện để thấy rằng bộ phận kiểm toán nội bộ đã hoàn thành trách nhiệm.
Rèn luyện tính thận trọng nghề nghiệp có nghĩa là sử dụng sự khéo ứng xử và nhận định kiểm toán hợp lý khi thực hiện kiểm toán. Để đạt được như vậy, kiểm toán viên nội bộ cần lưu ý:
Mở rộng công việc kiểm toán cần thiết nhằm vào các mục tiêu kiểm toán.
Tầm quan trọng liên quan hoặc ý nghĩa của các vấn đề mà các thủ tục kiểm toán được áp dụng.
Tính đầy đủ và hiệu quả của kiểm soát nội bộ.
Chi phí kiểm toán so với lợi ích có thể mang lại.
Thận trọng nghề nghiệp đúng mực gồm việc tiến hành đánh giá các chuẩn mực tác nghiệp đã thiết lập và tiến hành xác định xem các chuẩn mực đó có được chấp nhận và đáp ứng không. Nếu những chuẩn mực đó còn mơ hồ, phải đưa ra sự giải thích đáng tin cậy. Nếu kiểm toán nội bộ phải giải thích hay lựa chọn các chuẩn mực tác nghiệp thì phải thảo luận với các bộ phận được kiểm toán về những chuẩn mực cần thiết cho việc đánh giá các thành tích nghiệp vụ.
Tổ chức hệ thống kiểm toán nội bộ
1.2.9.1 Nguyên tắc, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ.
Bộ máy kiểm toán bao gồm con người và các phương tiện chứa đựng các yếu tố cấu thành của kiểm toán để thực hiện chức năng của kiểm toán.
Tổ chức bộ máy kiểm toán chính là việc tạo ra các mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành kiểm toán, giữa các phân hệ trong hệ thống kiểm toán và chính giữa bản thân của hệ thống kiểm toán với các yếu tố khác trong môi trường hoạt động của kiểm toán. Chính từ việc tổ chức bộ máy kiểm toán mà các mối liên hệ được duy trì đảm bảo cho hệ thống thực hiện tốt chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến.
Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải đảm bảo:
Tính khoa học: Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải phù hợp với nguyên lý chung của lý thuyết kiểm toán. Tùy theo đặc điểm tổ chức của doanh nghiệp là tổ chức theo phương pháp chức năng hay trực tuyến tham mưu mà đưa ra mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ cho phù hợp.
Tính nghệ thuật: Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải chú ý tới nhân tố con người.
Trong sơ đồ tổ chức bộ máy kiểm toán cần phải phân công rõ ràng chức năng và nhiệm vụ của mỗi kiểm toán viên nhằm đạt hiệu quả và hiệu suất cao.
Phải bảo đảm đủ về số lượng nhân viên trong bộ phận kiểm toán cũng là một vấn đề quan trọng.
Số lượng nhân viên kiểm toán có thể được xác định qua công thức sau:
Số lượng nhân viên KTNB =
Trong đó:
+ ai: Thời gian cần thiết để tiến hành kiểm toán một hoạt động hoặc một bộ phần của doanh nghiệp bao gồm cả thời gian kiểm toán dự tính, thời gian đi lại nếu có.
+ t: Tần suất kiểm toán các bộ phận hoặc các hoạt động tương ứng/năm.
+ b: Thời gian dự kiến phát sinh cho các hoạt động đào tạo, nghỉ phép, hội họp.......
+ k: Thời gian làm việc trung bình của một kiểm toán viên /năm.
+ n: Tổng số bộ phận hoặc hoạt động cần được kiểm toán.
Điều quan trọng trong tổ chức kiểm toán nội bộ là phải xác định quy mô của doanh nghiệp: Doanh nghiệp có thực sự cần bộ máy kiểm toán nội bộ hay không, quy mô của doanh nghiệp như thế thì bộ máy kiểm toán nội bộ nên có quy mô như thế nào thì thích hợp...
Tùy theo cơ cấu của doanh nghiệp như thế nào mà tổ chức kiểm toán nội bộ cho phù hợp sao cho đem lại hiệu quả cao nhất, tốn chi phí ít nhất.
Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ: Tập trung dân chủ thích ứng với từng bộ phận kiểm toán.
Hệ hống bộ máy kiểm toán nội bộ bao gồm các mối liên hệ trong và ngoài khác nhau và phải phù hợp với nguyên lý chung của lý thuyết tổ chức và quy luật biện chứng về mối liên hệ.
Để tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ thì cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Phải xác định kiểu mô hình tổ chức phù hợp với đặc điểm, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
Xác định kiểu liên hệ trong từng mô hình.
Xây dựng mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành nên hệ thống kiểm toán nội bộ với kiểm toán viên.
Đó là những nguyên tắc và nhiệm vụ cần phải tuân thủ khi tiến hành tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ.
1.2.9.2 Mô hình tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
Bộ máy kiểm toán nội bộ là hệ thống tổ chức của các kiểm toán viên do đơn vị tự lập ra theo yêu cầu quản trị nội bộ và thực hiện nền nếp, kỷ cương quản lý.
Để tổ chức và quản lý hoạt động kiểm toán nội bộ, trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của đơn vị phải cử ra những người phụ trách công việc này. ở các nước có nền kinh tế phát triển, thường ở các Bộ, ngành có Uỷ ban kiểm toán nội bộ. Uỷ ban kiểm toán nội bộ được lập trong các Bộ, ngành thường do các quan chức cấp cao phụ trách còn trong các doanh nghiệp do các thành viên Hội đồng quản trị trực tiếp lãnh đạo. Theo yêu cầu đó, thông thường một Uỷ ban kiểm toán được lập ra do một tập thể thường bao gồm ba thành viên Hội đồng quản trị phụ trách. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng quản trị có thể quyết định thuê các chuyên gia kiểm toán tham gia hoặc tư vấn cho Uỷ ban.
Uỷ ban kiểm toán nội bộ vừa có trách nhiệm xây dựng và tổ chức hoạt động cho bộ máy kiểm toán nội bộ (nội kiểm), vừa có trách nhiệm tạo lập mối quan hệ với chủ thể kiểm toán bên ngoài (ngoại kiểm). Trong trường hợp không có Hội đồng quản trị, chủ đầu tư hoặc người được uỷ quyền sẽ chỉ đạo công tác kiểm toán. Tất nhiên, Uỷ ban kiểm toán hoặc người phụ trách chỉ có chức năng tổ chức, chỉ đạo thực hiện công việc kiểm toán. Người thực hiện kiểm toán nội bộ là những kiểm toán viên khônng chuyên nghiệp trong đơn vị hoặc chuyên gia (giám định viên kế toán) từ bên ngoài. Từ đó, có thể có hai loại hình tổ chức kiểm toán nội bộ cơ bản là Hội đồng nội kiểm (hay bộ phận kiểm toán nội bộ) và Hội đồng các Giám định viên kế toán (hoặc Giám sát viên Nhà nước).
Hội đồng nội kiểm hay bộ phận kiểm toán nội bộ là mô hình phổ biến đặc biệt ở các nước Bắc Mỹ. Thành viên của bộ phận này là các kiểm toán viên nội bộ. Số lượng và cơ cấu các thành viên tuỳ thuộc vào quy mô của đơn vị, vào nhiệm vụ kiểm toán nội bộ cụ thể trong từng thời kỳ. Hội đồng có nhiệm vụ thực hiện tất cả các công việc do Uỷ ban kiểm toán giao cho kể cả việc xây dựng hoặc hoàn thiện quy chế kiểm toán nội bộ (nếu có), tổ chức thực hiện đều đặn và có hiệu lực quy chế đã ban hành và cả công việc đột xuất khác.
Mô hình này có nhiều ưu điểm và rất thích hợp với các doanh nghiệp có quy mô lớn, Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để phát huy tính ưu việt này là chất lượng của đội ngũ kiểm toán viên.
Hội đồng giám định viên kế toán (hoặc Giám sát viên Nhà nước) là mô hình ứng dụng phổ biến ở các xí nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Trong trường hợp này, người thực hiện công việc kiểm toán có thể là kiểm toán viên chuyên nghiệp (hành nghề) thậm chí ở một số nước Tây Âu, kiểm toán viên Nhà nước trong các xí nghiệp công và doanh nghiệp Nhà nước được biên chế trong bộ máy kiểm toán Nhà nước.
Mô hình này rất phù hợp với các xí nghiệp công, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ không cần thiết biên chế kiểm toán viên nội bộ. Nó cũng thích hợp với các tổ chức kinh tế Nhà nước do tính độc lập của kiểm toán viên bên ngoài trong kiểm toán nội bộ doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho công việc của kiểm toán Nhà nước va phát huy được thế mạnh nghề nghiệp của các chuyên gia giỏi bên ngoài. Tuy nhiên, trong trường hợp này chi phí kiểm toán thường cao do phải thuê nhân viên và do đòi hỏi số lượng nhân viên phải lớn. Mặt khác, do công việc kiểm toán nội bộ cũng do một số ít chuyên gia giỏi đảm nhiệm do vậy việc đảm bảo được tính khách quan, trung thực trong quá trình kiểm toán cũng là một vấn đề đặt ra. Để giải quyết vấn đề này thì cần sử dụng thêm các biện pháp bổ sung như tăng cường kiểm tra chéo, định kỳ thay đổi nơi làm việc của các kiểm toán viên, tăng cường trách nhiệm của kiểm toán viên bên ngoài.
Thực tế tại một số nơi cho thấy bộ máy kiểm toán nội bộ được thiết lập tại các cơ quan và tổ chức kinh tế Nhà nước có thể là chân rết của các cơ quan hữu quan. Trong những trường hợp này bộ phận kiểm toán nội bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của cơ quan Tổng kiểm soát, kiểm toán Nhà nước, Bộ Tài chính. Kiểm toán viên nội bộ được Kiểm toán Nhà nước đào tạo, bổ nhiệm, quản lý và chỉ đạo hoạt động. Việc xây dựng mô hình như vậy có những ưu điểm là:
Thống nhất quản lý Nhà nước đối với hoạt động kiểm toán nội bộ trong các cơ quan và tổ chức kinh tế Nhà nước.
Tiêu chuẩn hoá được đội ngũ kiểm toán viên.
Công tác kiểm toán nội bộ sẽ được hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất.
Kiểm toán nội bộ sẽ trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho cơ quan kiểm toán Nhà nước trong việc thực hiện hoạt động kiểm tra, kiểm soát khi bộ máy kiểm toán Nhà nước mới hình thành với số lượng kiểm toán viên còn ít ỏi so với nhu cầu thực tế.
Từ những vai trò của kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp thì việc tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp là cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tùy theo quy mô của doanh nghiệp mà tổ chức bộ máy kiểm toán cho phù hợp. Bộ phận kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp nên được tổ chức như thế nào? Về vấn đề này, có 2 loại quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: Bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc HĐQT mà trực tiếp là chịu sự chỉ đạo của Ban kiểm soát. Có như vậy bộ phận kiểm toán nội bộ mới phát huy được tính độc lập, kết quả kiểm toán nội bộ mới có tính khách quan, khắc phục tình trạng " vừa đá bóng vừa thổi còi".
Mô hình 1: Mô hình bộ máy KTNB theo quan điểm này như sau
Hội đồng Quản trị.
Cán bộ quản lý cấp DN
Cán bộ quản lý cấp trung gian
Các bộ phận khác
Ban Giám đốc
Ban kiểm soát
Bộ phận KTNB
Quan hệ trực thuộc
Quan hệ kiểm tra
Luồng thông tin phản hồi
Mô hình trên được coi là mô hình lý tưởng, nó bảo đảm điều kiện về tính độc lập của kiểm toán nội bộ nhưng không có tính thực tế. Đó là vì Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát không trực tiếp điều hành và quản lý doanh nghiệp, hơn nữa, Hội đồng quản trị ở Tổng Công ty nhà nước hiện nay còn nhiều thành viên kiêm chức nên không đảm bảo được tính độc lập đặt ra.
Quan điểm thứ hai: Bộ phận KTNB nên đặt trực thuộc (Tổng) Giám đốc của doanh nghiệp.
Quan điểm này dựa trên cơ sở kiểm toán nội bộ là một bộ phận quan trọng của doanh nghiệp, đặt tại doanh nghiệp, tiếp cận thường xuyên, liên tục với mọi hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá kệ thống kiểm soát nội bộ và phát hiện kịp thời những sai sót, sơ hở, những điểm yếu để báo cáo kịp thời cho lãnh đạo để có các kiện pháp khắc phục, hoàn thiện. Để đạt được mục tiêu, vai trò của kiểm toán nội bộ cần phải đặt kiểm toán nội bộ trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất điều hành hoạt động của doanh nghiệp.
Mô hình 2: ktnb trực thuộc (Tổng) giám đốc của dn
Quan hệ trực thuộc
Quan hệ kiểm tra
Luồng thông tin phản hồi
Cán bộ quản lý cấp DN
Cán bộ quản lý cấp trung gian
Bộ phận KTNB
Hội đồng Quản trị
( HĐQT )
Tổng Giám đốc
( Giám đốc)
Cách tổ chức theo mô hình này phù hợp với điều kiện thực tiễn của các doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên để kiểm toán nội bộ thực sự có hiệu quả thì người đứng đầu bộ phận kiểm toán nội bộ phải được quyền tự do báo cáo kết quả kiểm toán với Ban kiểm soát của Hội đồng quản trị (nếu doanh nghiệp có Hội đồng quản trị).
Như vậy, qua việc phân tích những chức năng, đặc điểm của kiểm toán nội bộ thì việc hình thành kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển đa chiều, cạnh tranh gay gắt là một điều cần thiết để nâng cao tính hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp, chỉ ra các vấn đề, các hướng để hoàn thiện hệ thống chính sách, hệ thống kế toán trong doanh nghiệp, đồng thời tùy theo mỗi nhu cầu tự thân, mỗi điều kiện hoàn cảnh của các doanh nghiệp mà có cơ cấu tổ chức kiểm toán nội bộ cho phù hợp, đảm bảo tính hiệu quả của bộ phận này trong quá trình kiểm toán và kiến nghị chiến lược cho các nhà quản trị trong quá trình lãnh đạo doanh nghiệp ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
ở Việt Nam hiện nay, vấn đề kiểm toán nội bộ còn mới mẻ nên cần quan tâm trước hết đến việc xây dựng đội ngũ kiểm toán viên nội bộ, đặc biệt trong quá trình cải tiến quản lý Nhà nước và Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Ngay ở các đơn vị quốc doanh cũng phải tách biệt chức năng kiểm toán ra khỏi chức năng tổ chức kế toán, tài chính của kế toán trưởng.
1.2.9.3 Tuyển chọn, huấn luyện và phát triển đội ngũ kiểm toán viên nội bộ.
Công việc kiểm toán nội bộ được thực hiện bởi các kiểm toán viên nội bộ - thường là những người làm nghề kiểm toán không chuyên nghiệp, họ có thể là những kế toán viên giỏi, những nhà quản lý có kinh nghiệm, những kỹ thuật viên có hiểu biết về những lĩnh vực có liên quan đến kiểm toán đặc biệt là các loại hình công nghệ, các quy trình kỹ thuật, các định mức... Các kiểm toán viên nói chung, kiểm toán viên nội bộ nói riêng luôn phải tuân thủ những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp khắt khe. Chính vì vậy, những kiểm toán viên là những người có trình độ được tuyển chọn, sàng lọc, huấn luyện và thường xuyên được bồi dưỡng phát triển đáp ứng được các yêu cầu nghề nghiệp. Đội ngũ kiểm toán viên là linh hồn để vận hành hệ thống kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp, chính vì thế mà đối với vấn đề này trong tổ chức kiểm toán nội bộ có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Bàn về kiểm toán viên nội bộ ta đề cập đến khía cạnh sau:
Tuyển chọn nhân viên:
Đây là công việc quan trọng trong giai đoạn tổ chức hoạt động hệ thống kiểm toán nội bộ và có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng hoạt động sau này. Nhân viên kiểm toán nội bộ có thể được tuyển từ bên ngoài hay từ bên trong đơn vị.
Bên trong đơn vị: Nhân viên trong đơn vị được coi là quen thuộc với các nghiệp vụ và trình tự hoạt động của tổ chức và có thể được tuyển vào phòng kiểm toán nội bộ theo một trong các cách sau:
Đề bạt kiểm toán viên nội bộ: Phương pháp này được thực hiện nếu tiến hành đào tạo các nhân viên trong biên chế qua các chương trình huấn luyện và phát triển tích cực và có hiệu quả.
Thuyên chuyển nhân viên có kinh nghiệm từ các phòng (ban) khác: Phương pháp tuyển dụng này được sử dụng tương đối rộng rãi mà trong đó tư cách, trình độ thành thạo nghiệp vụ và những khả năng đặc biệt khác được xem là các chỉ tiêu để lựa chọn.
Sử dụng những người đang được huấn luyện quản lý: Trong một số tổ chức có những thành viên đã có trình độ trung cấp hoặc đại học và đang được đào tạo trong một chương trình huấn luyện quản lý. Theo chương trình này họ có cơ hội luân phiên qua nhiều phòng, ban khác nhau trước khi được giao nhiệm vụ thường xuyên. Những nhân viên này là một nguồn nhân lực có giá trị cho phòng kiểm toán nội bộ sau khi được bồi dưỡng thêm và tập dượt về các thể thức phân tích và đánh giá các công việc kiểm soát.
Tuyển dụng bên ngoài: Được tiến hành từ các nguồn khác nhau.
Kiểm toán viên độc lập: Theo lịch sử của kiểm toán nội bộ, các kiểm toán viên độc lập (kiểm toán viên công chứng CPA) luôn là nguồn dồi dào cho việc tuyển chọn. Kinh nghiệm của họ về thực hiện các trình tự kiểm toán và thu thập bằng chứng theo các chuẩn mực nghề nghiệp là một tài sản hữu dụng cho công việc kiểm toán.
Các trường đại học và trung học: Việc sử dụng những người mới tốt nghiệp ở các tổ chức giáo dục tuỳ thuộc một phần vào các chương trình huấn luyện bổ sung theo những hướng cụ thể. Những sinh viên xuất sắc có nhiều tiềm năng được tuyển chọn cho phòng kiểm toán nội bộ là một điều rất là cần thiết và quan trọng cho đội ngũ nhân viên kiểm toán viên nội bộ của doanh nghiệp.
Người không phải kiểm toán viên: Phạm vi rộng hơn của các hoạt động kiểm toán nội bộ đã tăng nhiều nhu cầu về những người có chuyên môn khác kiểm toán. Những người có trong mình sự kết hợp giữa giáo dục và kinh nghiệm thực tiễn rất cần cho kiểm toán nội bộ trong các lĩnh vực nghiệp vụ như: nghiệp vụ máy tính, sản xuất kinh doanh, xây dựng, kiểm tra chất lượng, pháp lý... Những bổ sung đó có thể tăng cường năng lực của nhóm kiểm toán nội bộ và giúp họ mở rộng phạm vi hoạt động của mình.
Nhân lực tuyển chọn cho phòng kiểm toán nội bộ từ tất cả các nguồn trên cũng cần có những yếu tố cá nhân phù hợp với các chức danh của phòng kiểm toán nội bộ theo những định hướng tuyển dụng cụ thể.
Huấn luyện và phát triển.
Hoạt động huấn luyện của phòng kiểm toán nội bộ dựa theo chuyên môn của nhân viên được tuyển chọn. Những hoạt động này thường là phương tiện lấp đi cái hố ngăn cách giữa kiến thức hiện tại và kiến thức cần thiết của nhân viên kiểm toán nội bộ. Một hệ thống kiểm toán nội bộ chỉ thực sự hiệu quả khi có một đội ngũ nhân viên có đủ trình độ năng lực và đạo đức nghề nghiệp đúng mức. Theo thời gian, năng lực, chuyên môn của kiểm toán viên nội bộ phải được thường xuyên cập nhật những kiến thức mới và nâng cao khả năng làm việc của mình trong môi trường mới, chính vì thế phải thường xuyên huấn luyện, đào tạo trình độ cho kiểm toán viên nội bộ cho phù hợp với điều kiện làm việc hiện tại.
Chương trình huấn luyện cần linh hoạt và đáp ứng được những điều kiện thay đổi. Tuy nhiên điều cốt lõi là việc huấn luyện trong công việc và ngoài công việc phải luôn cập nhật để đáp ứng yêu cầu hiện tại và mong muốn của nhân viên.
Các mục tiêu huấn luyện cá biệt: Được tiến hành cho các nhu cầu phát triển cá nhân (phát hiện qua những lần đánh giá) đối với các kiểm toán viên nội bộ. Việc huấn luyện tập trung vào các chủ đề cá biệt để nâng cao trình độ và đề bạt lên các chức danh cao hơn trong bộ phận kiểm toán nội bộ như: giám sát viên kiểm toán, người quản lý hoặc người kiểm toán trưởng.
Huấn luyện trên công việc: Cùng với nhu cầu giáo dục mở rộng và các lớp huấn luyện về thực tiễn kiểm toán nội bộ hiện đại, huấn luyện trên công việc vẫn có ý nghĩa riêng biệt. Mặc dầu các lớp học cố gắng làm như thực tế nhưng không thể thay thế những kinh nghiệm hàng ngày. Chính trên công việc, kiểm toán viên mới có cơ hội giải quyết các vấn đề dưới sự thúc bách của thời gian, thực tế với cơ chế hoạt động và làm việc với nhà quản lý và các bộ phận thực sự của một tổ chức.
Lập kế hoạch, giao nhiệm vụ phát triển: Với loại hình đào tạo này, những nhiệm vụ được giao không theo từng mảng riêng lẻ mà theo một kế hoạch dẫn tới sự phát triển không ngừng của kiểm toán viên cũng như việc hoàn thành đúng tiến độ các cuộc kiểm toán.
Đa dạng hoá nhiệm vụ kiểm toán: Thông qua tính đa dạng của các nhiệm vụ kiểm toán được giao, thành viên trong biên chế sẽ quen thuộc những vấn đề khác nhau trong mọi hoạt động của tổ chức. Để phát triển một người trong biên chế thành người có chức danh cao hơn hoặc thành nhà quản lý kiểm toán, việc huấn luyện phải đa dạng theo năng lực xử lý những vấn đề ngày càng phức tạp.
Giám sát và chỉ thị công việc: Trong quá trình lập kế hoạch, tổ chức và kiểm soát việc thực hiện các nhiệm vụ kiểm toán, giám sát viên luôn nhớ rằng mình chịu trách nhiệm về huấn luyện ở địa bàn của mình. Việc huấn luyện này có thể có nhiều hình thức như dạy kiến thức, thuyết minh, bình phẩm hay chỉ bảo.
Khuyên bảo: Tầm quan trọng của việc khuyên bảo phải được nhấn mạnh như một phương sách nhằm nâng cao và củng cố quá trình học tập trong việc huấn luyện trên công việc. Một chương trình khuyên bảo có hiệu lực giúp vạch ra những yếu kém của một cá nhân và gợi ý những cách làm để sửa chữa. Qua việc sử dụng nghệ thuật khuyên bảo có hiệu quả, người nhân viên nhờ đó mà được thúc đẩy hăng hái học tập và có khả năng tiến bộ.
Việc uỷ thác trách nhiệm: Chính nhờ đảm nhiệm thêm trách nhiệm mà kiểm toán viên chóng tiến bộ hơn. Các giám sát viên phải nắm được những chỗ mạnh, những điểm yếu của các nhân viên và luôn cố gắng giao việc khó hơn cho họ. Đến lượt mình, kiểm toán viên cần uỷ nhiệm công việc cho người thuộc quyền (trợ lý kiểm toán viên) để họ phát triển khả năng của mình.
Định kỳ đánh giá thành tích: Định kỳ đánh giá để thông tin cho các cấp quản lý về năng lực của các nhân viên và công việc mà họ hoàn thành. Những việc đánh giá như vậy là tài liệu quan trọng có liên quan đến việc nghiên cứu đề bạt, đãi ngộ, thuyên chuyển hay thôi việc. Đó cũng là công cụ có ích trong việc huấn luyện nhân viên thông qua: Xác định điểm mạnh, điểm yếu và nhu cầu huấn luyện cơ bản; dự định các phương pháp cải tiến công việc cho nhân viên; giúp đỡ, khuyên bảo nhân viên có khả năng đáp ứng các chuẩn mực thành tích; tránh việc hình thành một số hạn chế có thể phát sinh ở một vài kiểm toán viên nội bộ do công việc lặp đi lặp lại trong một địa bàn làm giảm khả năng sáng tạo và phát triển cá nhân hoặc việc gắn bó hơn với các nhân viên ở các bộ phận khác hay với người có quyền hành có thể xói mòn tính độc lập và tính khách quan của kiểm toán viên nào đó cá biệt.
1.2.9.4 Quy trình của một cuộc kiểm toán nội bộ.
Sau khi bộ phận kiểm toán nội bộ đã được thiết lập và có đầy đủ các nhân tố để vận hành hệ thống thì việc tổ chức thực hiện kiểm toán nội bộ là mục đích kế tiếp và cũng là mục đích chính của việc tổ chức hệ thống kiểm toán nội bộ. Sau khi xác định những yêu cầu của Ban Giám đốc về kiểm toán nội bộ, bộ phận kiểm toán sẽ xác định khối lượng công việc cần thực hiện để tiến hành cuộc kiểm toán theo quy trình kiểm toán.
Quy trình kiểm toán là một hệ thống phương pháp rõ ràng của quá trình tổ chức một cuộc kiểm toán nhằm giúp cho kiểm toán viên tập hợp đủ chứng cứ cần thiết để hoàn thành mục tiêu kiểm toán đã đề (hay khối lượng công việc cần thực hiện và mục đích công việc).
Quy trình của một cuộc kiểm toán bao gồm 4 bước sau:
Lập kế hoạch và thiết kế chương trình kiểm toán.
Tiến hành kiểm toán.
Lập các báo cáo kiểm toán và đưa ra các kiến nghị.
Các công việc sau kiểm toán (theo dõi việc thực hiện kiến nghị...).
Lập kế hoạch làm việc và thiết kế chương trình kiểm toán:
Kiểm toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán để trợ giúp cho công việc kiểm toán tiến hành có hiệu quả, đúng thời hạn. Kế hoạch kiểm toán thích hợp sẽ giúp cho kiểm toán viên xác định được các vấn đề trọng tâm cần tập trung, chú ý để tránh sai sót và công việc được giải quyết nhanh chóng; đồng thời tạo điều kiện tổ chức và phối hợp công việc giữa các thành viên tham gia kiểm toán cũng như sử dụng hiệu quả các kinh nghiệm của các chuyên gia.
Một kế hoạch làm việc là một kế hoạch hành động xác định phạm vi tổng thể và mức độ bao trùm của hoạt động kiểm toán nội bộ. Khi thiết lập kế hoạch làm việc cần xem xét các yếu tố:
Các mục đích cần đạt được của cuộc kiểm toán.
Phạm vi hoạt động của công việc kiểm toán.
Yêu cầu về nhân lực kiểm toán viên.
Chương trình làm việc (thời gian - tiến độ).
Sau khi thiết lập kế hoạch làm việc, người phụ trách kiểm toán nội bộ xây dựng cho mỗi hoạt động một chương trình kiểm toán thích hợp. Trong mỗi chương trình kiểm toán chứa đựng các mục tiêu, các nội dung và các thủ tục cần thiết để đạt được các mục tiêu và mỗi mục tiêu thì có thể liên quan đến một số thủ tục. Người ta xây dựng chương trình kiểm toán qua 2 bước: Nghiên cứu và xây dựng các thủ tục kiểm toán.
Nghiên cứu: Là khái quát các trách nhiệm, chức năng và các hình thức kiểm tra trong lĩnh vực được kiểm toán.
Xây dựng các thủ tục kiểm toán: Đây là bước cơ bản và là nhiệm vụ không dễ dàng trong việc lập một chương trình kiểm toán. Nó đòi hỏi những kiến thức duy lý và những kỹ năng cơ bản về kế toán và kiểm toán. Trên cơ sở các mục tiêu đã đề ra, căn cứ vào tình hình thực tế, kiểm toán viên nội bộ xây dựng các thủ tục là hệ thống các phương pháp, điều kiện cần thực hiện để đạt được mục tiêu đã đề ra và hoàn thành cuộc kiểm toán. Thông thường, trong một cuộc kiểm toán, các thủ tục được xây dựng thường bao gồm hai vấn đề là xây dựng các trắc nghiệm kiểm toán và xây dựng các thủ tục phân tích.
Thực hiện kiểm toán:
Thực hiện kiểm toán là giai đoạn thứ hai của quá trình kiểm toán. Trong giai đoạn này, các kiểm toán viên áp dụng các phương pháp kiểm toán để thu thập, đánh giá các bằng chứng kiểm toán.
Theo kế hoạch và chương trình kiểm toán vạch ra, giai đoạn này gồm các công việc sau:
Khảo sát kiểm soát và khảo sát nghiệp vụ.
Kiểm tra chi tiết số dư.
Khảo sát kiểm soát và khảo sát nghiệp vụ.
Mục đích của công việc này là để:
Thu thập bằng chứng chứng minh cho các chế độ và thể thức đặc thù có góp phần vào đánh giá mức rủi ro kiểm soát của kiểm toán viên (khảo sát kiểm soát).
Thu thập bằng chứng, chứng minh cho tính chính xác của các nghiệp vụ (khảo sát nghiệp vụ số dư).
Ví dụ: Bảng tổng hợp các nghiệp vụ chi tiền mặt.
Mục tiêu kiểm soát
Quá trình kiểm soát nội bộ chủ yếu
Các khảo sát kiểm soát phổ biến.
Các khảo sát nghiệp vụ chính thức phổ biến
Các khoản chi tiền mặt ghi sổ là của hàng hóa và dịch vụ thực tế nhận được.
Sự tách biệt thích hợp, trách nhiệm giữa kế toán ghi sổ các khoản các khoản phải trả với kế toán viết phiếu chi.
Kiểm tra các chứng từ chứng minh trước khi ký phiếu chi cho một nhân viên có quyền thực hiện.
Thảo luận với người liên quan và quan sát các hoạt động.
Thảo luận với người liên quan và quan sát các hoạt động.
Xem lại sổ Nhật ký tiền mặt, sổ cái và các sổ chi tiết. Thanh toán các khoản nợ phải trả.
Đối chiếu các phiếu chi đã lĩnh tiền với bút toán nhật ký mua và kiểm tra.
Có nghiệp vụ phải tiến hành đồng thời cả hai loại khảo sát trên.
Nếu quá trình kiểm soát không được xem là có hiệu lực thì lập tức được triển khai khảo sát chính thức (phương pháp kiểm toán cơ bản).
Kết quả của khảo sát nghiệp vụ là yếu tố quyết định chủ yếu phạm vi của cuộc kiểm tra chi tiết số dư.
Kiểm tra chi tiết số dư:
Mục đích của kiểm tra chi tiết số dư là để thu thêm bằng chứng cần thiết để xác định xem các số dư cuối kỳ và các ghi chú trên báo cáo tài chính có được nêu trung thực hay không?
ở giai đoạn công việc này thường áp dụng phương pháp: Phân tích và khảo sát chi tiết số dư. Ví dụ: Xác nhận các khoản nợ về khoản phải thu, phải trả, ý kiến xác nhận số dư các khoản nợ là đúng.
Quan sát hoặc tham gia kiểm kê thực tế các loại tồn kho để xác định số dư về hàng tồn kho, tài sản trên bảng cân đối kế toán là đúng.
Giai đoạn này rất quan trọng vì những bằng chứng thu được từ người thứ ba độc lập với đơn vị được kiểm toán hoặc trực tiếp do kiểm toán viên thu thập thì có giá trị cao hơn.
Toàn bộ công việc kiểm toán viên tiến hành trong giai đoạn thực hiện kiểm toán được thể hiện trên giấy tờ làm việc.
Giấy tờ làm việc phải thể hiện các nội dung sau:
Mục đích kiểm toán.
Phương pháp kiểm toán.
Kết quả kiểm toán.
Kết luận
Sau khi đã thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán có đủ cơ sở đưa ra ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính, các hoạt động, tính tuân thủ... của đơn vị (bộ phận) được kiểm toán thì giai đoạn thực hiện kiểm toán kết thúc. Bằng chứng kiểm toán được lưu trong hồ sơ tài liệu kiểm toán của đối tượng được kiểm toán (hồ sơ tài liệu năm).
Đối với các loại hình kiểm toán khác như: kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động thì công việc thực hiện kiểm toán có khác so với kiểm toán tài chính. ở hai loại hình kiểm toán này mục tiêu chủ yếu là đánh giá tính hiệu năng và hiệu quả, do đó công việc kiểm toán lại tập trung vào việc khảo sát nghiệp vụ và thực hiện các trắc nghiệm độ vững chãi và trắc nghiệm công việc, các thử nghiệm kiểm soát chứ không tập trung ở việc thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết số dư, đồng thời phạm vi kiểm toán thực hiện có thể rộng hơn so với kiểm toán tài chính. Như vậy, tùy theo mỗi loại hình kiểm toán thực hiện mà cuộc kiểm toán có những mục tiêu và công việc thực hiện khác nhau.
Lập báo cáo kiểm toán và đưa ra các kiến nghị:
Báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng của một cuộc kiểm toán, thể hiện ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về các nội dung kiểm toán; là một thông điệp của các kiểm toán viên nội bộ gửi tới Ban giám đốc hoặc những quan chức cấp trên. Do đó, việc lập báo cáo là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các kiểm toán viên nội bộ ở tất cả các cấp, đặc biệt là người phụ trách bộ phận kiểm toán nội bộ - người chịu trách nhiệm sau cùng về hiệu quả của toàn bộ chương trình kiểm toán nội bộ.
Các báo cáo được lập sau khi hoàn thành một nhiệm vụ kiểm toán. Nó có thể dưới dạng nói miệng hay dưới dạng văn bản như báo cáo tạm thời, báo cáo kiểu bảng câu hỏi, báo cáo viết hợp thức, báo cáo viết tóm tắt, phụ thuộc vào nội dung của thông tin báo cáo và yêu cầu của người nhận báo cáo. Trong các báo cáo trên thường chứa đựng các khoản tìm ra trong quá trình kiểm toán như các yếu điểm, những hoạt động không hiệu quả, những sai phạm và đưa ra những kiến nghị tương ứng để khắc phục.
Do được sử dụng trong phạm vi đơn vị nên báo cáo kiểm toán nội bộ không được chuẩn hóa như báo cáo kiểm toán bảng khai tài chính của các kiểm toán viên độc lập. Tuy nhiên, một bản báo cáo kiểm toán nội bộ thường bao gồm các phần chủ yếu sau;
Tiêu đề;
Địa chỉ gửi báo cáo;
Xác định đối tượng kiểm toán;
Xác định nội dung công việc kiểm toán;
ý kiến nhận xét và kiến nghị của kiểm toán viên;
Ký tên;
Ngày ký báo cáo;
Tiêu đề: Thường ghi theo nội dung kiểm toán .
Ví dụ: Báo cáo kiểm toán hoạt động, hoặc báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính, hoặc báo cáo kiểm toán tuân thủ (đối với hoạt động kiểm toán nội bộ).
Địa chỉ gửi báo cáo: Nêu rõ đối tượng nhận báo cáo là ai? (Giám đốc, Tổng giám đốc doanh nghiệp, hoặc đối tượng khác trong doanh nghiệp nếu có).
Xác định đối tượng được kiểm toán: Ghi theo đúng tên trong kế hoạch đã duyệt (Ví dụ: Đơn vị số 1 - Phòng Marketing).
Xác định nội dung kiểm toán: Kiểm toán về nội dung gì?
Trong phần này cần nêu rõ các quy định về chế độ kiểm toán mà kiểm toán viên tuân theo, ghi rõ chế độ làm căn cứ để tiến hành đánh giá, đối chiếu trong quá trình kiểm toán,.....
ý kiến nhận xét và các kiến nghị: Có 4 loại ý kiến:
ý kiến chấp nhận toàn phần (Đồng ý).
ý kiến chấp nhận từng phần.
ý kiến trái ngược (Phản đối).
ý kiến từ chối đưa ra ý kiến.
Tùy theo các kết quả của kiểm toán để kiểm toán viên đưa ra một trong bốn loại ý kiến trên.
Kiến nghị: Đây là nội dung quan trọng nhất của báo cáo kiểm toán nội bộ, nó giúp cho Giám đốc có cơ sở ra quyết định đúng đắn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp.
Ký tên: Trưởng kiểm toán và kiểm toán viên chịu trách nhiệm chính cùng ký sau khi lập xong báo cáo.
Ngày, tháng lập báo cáo: Sau khi hoàn tất công việc kiểm toán, báo cáo được lập xong, kiểm toán viên ghi rõ ngày, tháng, năm lập báo cáo kiểm toán.
Tóm lại trách nhiệm lập báo cáo kiểm toán thuộc về trưởng nhóm kiểm toán.
Thời hạn lập: Kết thúc kiểm toán sau khi đã trao đổi các ý kiến thống nhất trong tổ kiểm toán, trao đổi và nhận được các ý kiến khẳng định lại của lãnh đạo các bộ phận (đơn vị) được kiểm toán.
Các công việc sau kiểm toán.
Bổn phận của các kiểm toán viên nội bộ chưa kết thúc bằng việc đệ trình báo cáo kiểm toán. Các công việc tiếp theo của họ có thể là kiểm tra xu hướng các kết quả và kiến nghị đưa ra trong báo cáo kiểm toán tại một thời điểm muộn hơn. Do kiểm toán viên nội bộ không có quyền trực tiếp đưa ra các kiến nghị vào thực hiện nên việc này phụ thuộc vào các nhân viên chức năng hay Ban Giám đốc có ra các quyết định quản lý phù hợp hay không. Các công việc tiếp theo liên quan đến kiểm tra lại (còn gọi là phúc tra - phúc kiểm) có thể là bổn phận của kiểm toán viên hay Ban giám đốc hoặc cùng chia sẻ trách nhiệm.
Nhìn nhận chung ta thấy hoạt động kiểm toán nội bộ đã đạt đến trình độ chuyên môn nhà nghề và cung cấp những dịch vụ không thể thiếu cho các tổ chức. Nó đã tạo cho mình một chỗ một chỗ đứng vững chắc không chỉ trong các lĩnh vực kinh doanh và các ngành sản xuất mà còn ở trong các cơ quan Chính phủ và các tổ chức phi lợi nhuận. Sự phát triển của kiểm toán viên nội bộ không chỉ theo chiều rộng trong xã hội mà theo cả chiều sâu tại các cơ quan, đơn vị. Thật vậy, trong từng đơn vị cụ thể, kiểm toán nội bộ phát triển mạnh với xu hướng bao trùm lên toàn bộ các nghiệp vụ và các lĩnh vực hoạt động riêng lẻ. Sự phát triển không ngừng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu nói lên rằng cơ hội phát triển trong lĩnh vực này ngày càng mở rộng hơn theo thời gian. Hàng năm Viện các kiểm toán viên nội bộ và các phân viện nằm rải rác tại các châu lục tổ chức thi và cấp chứng chỉ cho các kiểm toán viên nội bộ. Khác với các kiểm toán viên công chứng (CPA), các kiểm toán viên nội bộ đã được cấp chứng chỉ (CIA) và được quyền hành nghề tại bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
1.2.10 Kinh nghiệm các nước trên thế giới trong việc áp dụng kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp.
Hoạt động kiểm toán đã xuất hiện từ lâu trên thế giới và đã khẳng định vị trí của mình trong hoạt động tài chính và kế toán. Cùng với đó, kiểm toán nội bộ đã hình thành trong các doanh nghiệp như một nhu cầu tất yếu tự thân và vị thân. Kiểm toán nội bộ ở các nước có nền kinh tế phát triển đã phát triển thành một ngành nghề độc lập. Kinh nghiệm áp dụng ở một số nước có kiểm toán nội bộ phát triển như ở Mỹ, Pháp, Canada… cho thấy:
Thứ nhất: Xây dựng mô hình kiểm toán nội bộ phù hợp. Đây là một trong những yếu tố cơ bản nhất đảm bảo cho tính hiệu quả của hệ thống kiểm toán nội bộ. Thông thường ở các nước này, bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị của tập đoàn, doanh nghiệp. Trong một số trường hợp, bộ phận này có thể trực thuộc sự điều hành của Tổng giám đốc. Với cơ cấu tổ chức như thế này tạo ra sự độc lập trong hoạt động của kiểm toán nội bộ, là một yếu tố đảm bảo tính khách quan, hiệu quả và độ tin cậy của thông tin mang lại.
Thứ hai: Kiểm toán nội bộ chỉ thực sự hoạt động có hiệu quả khi có một hệ thống hành lang pháp lý đầy đủ và phù hợp tạo cơ sở cho hoạt động của kiểm toán nội bộ. Cụ thể, là tại Hoa Kỳ đã thiết lập hệ thống chuẩn mực kiểm toán nội bộ và đã được thừa nhận rộng rãi. Bên cạnh đó, về mặt luật pháp, các báo cáo kiểm toán nội bộ cũng mang một giá trị to lớn, các kiểm toán viên nội bộ cũng phải chịu trách nhiệm về báo cáo kiểm toán của mình như trách nhiệm với báo cáo của các kiểm toán viên độc lập.
Thứ ba: ý thức của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đối với hệ thống kiểm toán nội bộ. Việc thành lập hệ thống kiểm toán nội bộ do nhu cầu tự thân của doanh nghiệp với mục đích tăng hiệu quả trong quản lý và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Chính vì thế ở các nước phương Tây như Mỹ, Pháp, Canada… các nhà lãnh đạo doanh nghiệp luôn có một sự quan tâm thích đáng tới hệ thống này, tạo các điều kiện tốt nhất cho bộ phận này hoạt động, tách ly trách nhiệm của bộ phận này với các bộ phận khác và các báo cáo kiểm toán nội bộ được các nhà quản lý xem xét và dùng để cân nhắc các quyết định quản lý nên có một ý nghĩa rất quan trọng. Chính vì lý do đó mà hoạt động của kiểm toán nội bộ thực sự mang lại hiệu quả, người ta không tổ chức bộ phận này với nghĩa là lập thêm một bộ phận chức năng mà với một ý nghĩa đích thực của kiểm toán nội bộ là giúp quản trị doanh nghiệp.
Thứ tư: Kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả do có một đội ngũ có trình độ chuyên môn cao và thường xuyên được đào tạo nâng cao trình độ năng lực. Đây là một ưu điểm riêng đối với các nước phát triển do có một đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên vững mạnh, chính điều này là một nhân tố quan trọng cho tính hiệu quả của hoạt động kiểm toán nội bộ, cũng chính vì vậy mà các báo cáo kiểm toán nội bộ được lập ra càng có độ tin cậy cao.
Thứ năm: ở các nước có nền kinh tế phát triển và kiểm toán nội bộ hoạt động mạnh mẽ thì các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp cũng phát triển. ở Hoa Kỳ có Viện kiểm toán viên nội bộ là tổ chức lớn nhất cho các kiểm toán viên nội bộ, là nơi đào tạo và cấp các chứng chỉ kiểm toán viên nội bộ (CIA). Chính việc chứng chỉ kiểm toán viên nội bộ được thừa nhận rộng rãi và được hành nghề kiểm toán nội bộ trên toàn thế giới càng làm cho hoạt động kiểm toán nội bộ ở các nước này có một ý nghĩa như một ngành nghề hơn.
Một hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động hiệu quả là mục tiêu của bất kỳ một nhà quản trị doanh nghiệp nào. Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ có thể học hỏi kinh nghiệm trên của các nước phát triển trên thế giới để bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt động hiệu quả và hiệu năng cao.
1.2.11 Chuẩn mực nghề nghiệp đối với kiểm toán nội bộ của Hoa Kỳ.
Kiểm toán nội bộ đã phát triển thành một ngành nghề độc lập, có phương pháp nghiên cứu riêng. Cũng giống như kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ hoạt động dựa trên những chuẩn mực nghề nghiệp về kiểm toán nội bộ. Chuẩn mực về kiểm toán nội bộ được xây dựng tùy theo đặc điểm và điều kiện của mỗi quốc gia. Một trong những chuẩn mực kiểm toán nội bộ được phổ biến rộng rãi và tương đối đầy đủ là chuẩn mực kiểm toán nội bộ của quốc gia Hoa Kỳ.
Trên cơ sở chuẩn mực kiểm toán nói chung, tháng 6 năm 1978 Viện kiểm toán viên nội bộ Hoa Kỳ thông qua “Những chuẩn mực nghề nghiệp đối với kiểm toán nội bộ” bao gồm 5 chuẩn mực chung. Đi theo những chuẩn mực chung đó là các chuẩn mực riêng và kèm theo mỗi chuẩn mực riêng là nguyên tắc chỉ đạo nói rõ cách làm thích hợp cho đúng chuẩn mực. Những chuẩn mực này không những làm thước đo chất lượng dịch vụ kiểm toán nội bộ mà còn dùng làm cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người muốn trở thành kiểm toán viên nội bộ.
Sau đây là tóm lược những chuẩn mực chung và chuẩn mực riêng đối với hoạt động kiểm toán nội bộ.
Chuẩn mực 1: Độc lập - Kiểm toán viên phải độc lập đối với những hoạt động mà họ kiểm toán.
1a/ Địa vị trong tổ chức:
Địa vị trong tổ chức của kiểm toán viên nội bộ phải tương xứng để cho phép hoàn thành nhiệm vụ kiểm toán được giao phó.
1b/ Khách quan:
Kiểm toán viên nội bộ phải khách quan khi làm kiểm toán.
Chuẩn mực 2: Tinh thông nghề nghiệp - Kiểm toán viên phải được đào tạo và bồi dưỡng nghề nghiệp.
- Bộ phận kiểm toán nội bộ:
2a/ Tuyển nhân viên:
Bộ phận kiểm toán nội bộ phải đảm bảo rằng nghiệp vụ thành thạo và quá trình đào tạo của kiểm toán viên nội bộ phải có đủ để thực hiện các cuộc kiểm toán.
2b/ Kỹ năng, kỹ xảo và kỷ luật:
Bộ phận kiểm toán nội bộ phải có được và đạt được những kỹ năng, kỹ xảo và kỷ luật cần thiết để làm nhiệm vụ kiểm toán.
2c/ Thẩm tra:
Bộ phận kiểm toán nội bộ phải đảm bảo rằng những lần kiểm toán đều được thẩm tra.
Kiểm toán viên nội bộ:
2d/ Tuân thủ chuẩn mực đạo đức:
Kiểm toán viên nội bộ phải tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.
2e/ Kỹ năng, kỹ xảo và kỷ luật:
Kiểm toán viên nội bộ phải có được kỹ năng, kỹ xảo và kỷ luật cần thiết cho việc thực hiện những cuộc kiểm toán.
2g/ Quan hệ nhân sự và trao đổi thông tin:
Kiểm toán viên nội bộ phải khéo léo tiếp xúc với quần chúng và trao đổi thông tin có hiệu quả.
2h/ Học tập không ngừng:
Kiểm toán viên nội bộ phải giữ được trình độ thông qua việc học tập không ngừng.
2i/ Thận trọng nghề nghiệp đúng mức:
Kiểm toán viên nội bộ phải thận trọng nghề nghiệp đúng mức khi thực hiện những cuộc kiểm toán nội bộ.
Chuẩn mực 3: Phạm vi công việc - Phạm vi kiểm toán nội bộ phải bao gồm việc xem xét và đánh giá đầy đủ hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, của tổ chức và chất lượng thành tích thực hiện nhiệm vụ được giao.
3a/ Kiểm tra tính chính đáng tin cậy và trung thực của thông tin:
Kiểm toán viên nội bộ phải thẩm tra tính chính đáng tin cậy và trung thực của thông tin tài chính, thông tin nghiệp vụ và các phương tiện sử dụng để định dạng, đo lường, phân loại và báo cáo thông tin đó.
3b/ Tuân thủ chủ trương, kế hoạch, trình tự, luật lệ và quy tắc:
Kiểm toán viên nội bộ phải thẩm tra những hệ thống đã thiết lập để đảm bảo sự tuân thủ các chủ trương, kế hoạch, trình tự, luật lệ và quy tắc có ảnh hưởng nhiều đến các nghiệp vụ và báo cáo, đồng thời xác định xem tổ chức có tuân thủ không?
3c/ Bảo vệ tài sản:
Kiểm toán viên nội bộ phải thẩm tra các phương tiện bảo vệ tài sản và khi cần có thể xem tài sản có thực hay không.
3d/ Sử dụng các nguồn lực tiết kiệm và có hiệu năng:
Kiểm toán viên nội bộ phải xác minh các nguồn lực được sử dụng có tiết kiệm và có hiệu năng hay không.
3e/ Hoàn thành tốt các mục tiêu đã xây dựng và những mục tiêu hướng tới cho các nghiệp vụ hoặc các công trình:
Kiểm toán viên nội bộ phải thẩm tra nghiệp vụ hoặc các công trình để chắc chắn là những kết quả đó có nhất quán với các mục tiêu và đích đã xây dựng không và các nghiệp vụ hay chương trình có thực hiện đúng kế hoạch không.
Chuẩn mực 4: Tiến trình công việc kiểm toán - Công việc kiểm toán phải bao gồm: Lập kế hoạch, xem xét và đánh giá thông tin, thông báo những kết quả và điều tra nghiên cứu kỹ.
4a/ Lập kế hoạch kiểm toán:
Kiểm toán viên nội bộ phải lập kế hoạch cho mỗi cuộc kiểm toán.
4b/ Xem xét và đánh giá thông tin:
Kiểm toán viên nội bộ phải thu thập, phân tích, diễn đạt thông tin và chuẩn bị tài liệu để chứng minh cho những kết quả đạt được.
4c/ Thông báo kết quả:
Kiểm toán viên nội bộ phải báo cáo kết quả công việc kiểm toán đã làm.
4d/ Điều tra nghiên cứu kỹ:
Kiểm toán viên nội bộ phải điều tra nghiên cứu để xác minh và có hoạt động thích hợp với những phát hiện kiểm toán đã báo cáo.
Chuẩn mực 5: Quản lý bộ phận kiểm toán nội bộ - Người phụ trách kiểm toán nội bộ phải quản lý đúng đắn bộ phận kiểm toán nội bộ.
5a/ Mục đích, quyền hạn và trách nhiệm:
Người phụ trách kiểm toán nội bộ phải có bản công bố mục đích, quyền hạn và trách nhiệm đối với bộ phận kiểm toán nội bộ.
5b/ Lập kế hoạch:
Người phụ trách kiểm toán nội bộ phải lập kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ của bộ phận kiểm toán nội bộ.
5c/ Chủ trương, đường lối và trình tự:
Người phụ trách kiểm toán nội bộ phải đưa ra những chủ trương, đường lối bằng văn bản để hướng dẫn cho nhân viên kiểm toán nội bộ.
5d/ Quản lý và phát triển nhân sự:
Người phụ trách kiểm toán nội bộ cần lập chương trình tuyển chọn và phát triển những nguồn nhân lực của bộ phận kiểm toán nội bộ.
5e/ Kiểm toán viên bên ngoài:
Người phụ trách kiểm toán nội bộ khi cần thiết phải biết kết hợp lực lượng kiểm toán viên bên trong và bên ngoài để đảm bảo tiến độ và chất lượng các cuộc kiểm toán.
5g/ Đảm bảo chất lượng:
Người phụ trách kiểm toán nội bộ phải lập và duy trì một chương trình đảm bảo chất lượng để đánh giá các nghiệp vụ của bộ phận kiểm toán nội bộ.
Ngoài những chuẩn mực nêu trên của Viện Kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ, một số nước khác cũng đã ban hành chuẩn mực kiểm toán nội bộ như Canada (Phụ lục 1).
Do các chuẩn mực nghề nghiệp của hoạt động kiểm toán nội bộ được dùng làm cơ sở chỉ đạo hoạt động và đo lường thành tích hoạt động kiểm toán nội bộ nên chúng có ý nghĩa thực tế đối với các tổ chức đã thiết lập hay đang định thiết lập chức năng này.
1.2.12 Những đặc điểm của quá trình đầu tư xây dựng ảnh hưởng tới kiểm toán nội bộ
Quá trình tổ chức xây dựng công trình hay thực hiện dự án, luôn phải chịu tác động và ràng buộc bởi những điểm nổi bật trong đầu tư xây dựng cơ bản. Chính những đặc điểm này tác động rất lớn và quyết định đến quy trình kiểm toán nội bộ:
Một là: Sản phẩm xây dựng cơ bản là những công trình, hạng mục công trình đơn chiếc có thiết kế và dự toán riêng, phương pháp thi công riêng, địa điểm thi công cũng khác nhau. Sản phẩm xây dựng thường có giá trị lớn, khối lượng cồng kềnh. Việc tổ chức thi công một công trình xây dựng phức tạp, liên quan đến nhiều chuyên ngành lĩnh vực.
Mặt khác, sản phẩm xây dựng thường được xác định về giá thanh toán và người bán trước khi có sản phẩm, đồng thời sản phẩm được tiêu thụ ngay tại chỗ, nên quá trình kiểm toán luôn đi từ thiết kế, dự toán đến hiện trường luôn được tiến hành riêng biệt, độc lập cho từng công trình với những quy định đặc thù riêng của nó. Các sản phẩm luôn phải tuân thủ theo một quy trình và quy định chặt chẽ về mọi mặt nên kiểm toán nội bộ luôn đi sâu vào kiểm toán tuân thủ là chủ yếu.
Hai là: Các công trình xây dựng có quy mô lớn thường sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, nên phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình đầu tư xây dựng, xét duyệt thẩm định thanh toán và có nhiều tổ chức liên quan tham gia vào quá trình quản lý. Các quá trình thường khó quản lý vì các vấn đề tiêu cực thường xảy ra, mà xét đến cùng cùng thì đều mang lại lợi ích cho các bên tham gia quản lý công trình song lại có hại cho nhà nước. Quá trình kiểm toán không đơn thuần là kiểm tra, xem xét báo cáo quyết toán và những tài liệu hợp pháp của các bên liên quan mà phải xem xét về độ tin cậy và tính tuân thủ của tài liệu này và nó phải chứng minh được bằng thực tế trên công trường và chất lượng sản phẩm xây dựng. Để làm được điều này đòi hỏi các kiểm toán viên nội bộ phải có kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc về lĩnh vực xây dựng và nắm chắc những quy định có liên quan đến các bên tham gia quản lý, thực hiện đầu tư xây dựng, cũng như phải hiểu rõ các hiện tượng tiêu cực phổ biến hay xảy ra trong quá trình đầu tư và xây dựng. Nội dung từng nguồn vốn đầu tư và những quy định cụ thể cho từng nguồn vốn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc lập kế hoạch kiểm toán, thực hành kiểm toán và việc áp dụng các phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ cụ thể trong công tác kiểm toán cho từng nội dung đặc biệt là tính tuân thủ về quy định cấp phát, thanh toán và việc nghiên cứu về hệ thống kiểm soát quá trình thanh toán và cấp phát cho từng nguồn vốn.
Ba là: Đặc điểm thứ 3 chi phối đến quá trình kiểm toán nội bộ đó là đặc thù của quá trình quản lý đầu tư xây dựng.
Để quản lý thực hiện các dự án, các công trình xây dựng có rất nhiều kiểu khác nhau. Mỗi kiểu đều có ưu nhược điểm riêng.
Về nội dung quản lý: tuy việc quản lý khác nhau về hình thức song nó tập trung vào quản lý những nội dung sau:
Quản lý về kỹ thuật và chất lượng công trình
Quản lý tiến độ thực hiện dự án, công trình
Quản lý khối lượng
Quản lý chi phí
Từ những điểm trên tác động rất lớn đến quá trình kiểm toán nội bộ ở những khía cạnh sau:
Thứ 1: ở khâu lập kế hoạch kiểm toán: kiểm toán viên phải có sự am hiểu về từng hình thức quản lý và đặc trưng của từng hình thức này để lập kế hoạch kiểm toán cho phù hợp. Đồng thời cũng phải biết được trình tự tiến hành và các thủ tục cần thiết cho từng công việc ở mỗi hình thức quản lý. Bên cạnh đó nó còn làm cơ sở để kiểm toán viên dự kiến về số lượng biên chế, chi phí và thời gian quản lý cần thiết.
Thứ 2: ở khâu thực hành kiểm toán, kiểm toán viên phải biết được những quy định có liên quan đến từng hình thức quản lý cụ thể hiện nay, về việc phê duyệt trình tự thực hiện và những tồn tại thường hay gặp...
Từ những đặc điểm trên ta thấy kiểm toán nội bộ trong xây dựng là một vấn đề phức tạp. Quy trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp xây dựng không giống như quy trình sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp được lặp đi lặp lại theo định kỳ, trong các doanh nghiệp này kiểm toán lần sau sẽ thuận lợi hơn lần trước đồng thời có thể sử dụng kết quả của việc kiểm toán lần trước cho lần sau.
1.2.13 Những đặc trưng cơ bản của quá trình kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp xây dựng
- Kiểm toán nội bộ trong xây dựng là sự kết hợp chặt chẽ giữa kiểm toán tài chính , kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động.
- Nét nổi bật của kiểm toán nội bộ trong xây dựng là kiểm toán tuân thủ: Trong xây dựng khác với các lĩnh vực khác, để tạo ra sản phẩm xây dựng phải trải qua nhiều quá trình khác nhau, mỗi quá trình được quy định một cách chặt chẽ bởi các quy định, tiêu chuẩn... về kỹ thuật cũng như về mặt pháp luật. Mặt khác, mọi chi phí đều phải đúng định mức, dự toán, đúng mục đích trình tự cấp phát thanh toán, cũng như đúng khối lượng thực tế đặc biệt tất cả các khoản chi phí đều được định mức, dự toán hoá đến mức cao. Do vậy, kiểm toán tính tuân thủ trong xây dựng là đặc điểm nổi bật nhằm đảm bảo chất lượng công trình và tiết kiệm vốn đầu tư.
- Kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp xây dựng đối với các công trình xây dựng không có khái niệm “Kiểm toán năm sau”
Trong đầu tư xây dựng, mỗi sản phẩm có thiết kế, dự toán riêng, có phương pháp thi công riêng, cũng như vị trí thi công hoàn toàn khác nhau. Chính điều này không cho phép chu kỳ sản xuất kinh doanh lặp đi lặp lại như sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp kinh doanh khác. Kiểm toán nội bộ trong xây dựng luôn là vấn đề mới đầy khó khăn, phức tạp và đặt ra yêu cầu cho kiểm toán viên phải luôn vận động, nắm bắt những cái mới và đi sâu vào nghiên cứu nắm vững những đặc điểm của từng công trình, hạng mục công trình bởi mỗi cuộc kiểm toán là một hệ thống các vấn đề mới nảy sinh đặt ra đòi hỏi kiểm toán viên phải đủ khả năng giải quyết.
- Nội dung của kiểm toán nội bộ trong xây dựng khác với kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác:
Chủ đạo trong kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp xây dựng là kiểm toán về việc tuân thủ các văn bản pháp quy về đầu tư xây dựng. Đồng thời, nội dung của kiểm toán báo cáo tài chính được phân theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và theo nội dung cấu thành báo cáo tài chính, còn trong xây dựng chỉ phân theo nội dung cấu thành báo cáo tài chính vì chu kỳ sản xuất kinh doanh của xây dựng không lặp lại. Và việc đánh giá tính trọng yếu của kiểm toán nội bộ trong xây dựng là khác so với các doanh nghiệp khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5luan vanI.doc