Tài liệu Một số vấn đề hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp: Mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong thập niên đổi mới vừa qua, nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên sự tồn tại và đan xen nhiều hình thức sở hữu đã bước đầu khơi dậy những nguồn lực của đất nước, tạo sự năng động trong hoạt động kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ tương đối cao. Đạt được những kết quả trên đây phải kể đến sự năng động của các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất đã biết cải tiến, phát huy các nguồn lực sẵn có tạo thế chủ động trong kinh doanh với mong muốn cuối cùng là tạo ra lợi nhuận để tự nuôi sống chính bản thân mình và làm giàu cho đất nước. Hơn ai hết, chính các doanh nghiệp đã tự ý thức được vấn đề này từ đó có những chính sách quản lí kinh tế phù hợp với qui mô hoạt động và trình độ của mình nhằm tối đa hoá lợi nhuận, tối thiểu hoá chi phí .
Trong các doanh nghiệp sản xuất đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thì chi phí lớn nhất chính là chi phí sản xuất sản phẩm. Vì vậy để hạ thấp chi...
93 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 991 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Một số vấn đề hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong thập niên đổi mới vừa qua, nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên sự tồn tại và đan xen nhiều hình thức sở hữu đã bước đầu khơi dậy những nguồn lực của đất nước, tạo sự năng động trong hoạt động kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ tương đối cao. Đạt được những kết quả trên đây phải kể đến sự năng động của các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất đã biết cải tiến, phát huy các nguồn lực sẵn có tạo thế chủ động trong kinh doanh với mong muốn cuối cùng là tạo ra lợi nhuận để tự nuôi sống chính bản thân mình và làm giàu cho đất nước. Hơn ai hết, chính các doanh nghiệp đã tự ý thức được vấn đề này từ đó có những chính sách quản lí kinh tế phù hợp với qui mô hoạt động và trình độ của mình nhằm tối đa hoá lợi nhuận, tối thiểu hoá chi phí .
Trong các doanh nghiệp sản xuất đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thì chi phí lớn nhất chính là chi phí sản xuất sản phẩm. Vì vậy để hạ thấp chi phí thì chi phí sản xuất là yếu tố đầu tiên cần được quan tâm hàng đầu. Hơn nữa đây cũng là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sau mỗi chu kì sản xuất. Cho nên công tác quản lí chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm luôn được coi trọng và đánh giá cao trong toàn bộ công tác kế toán của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, trong thời gian thực tập, tìm hiểu thực tế công tác kế toán tại công ty cổ phần khí công nghiệp, tôi đã đi sâu tìm hiểu về lĩnh vực này với đề tài:
"Một số vấn đề hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận tập trung chủ yếu vào các vấn đề về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Về bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, các cách phân loại chi phí, giá thành, các đối tượng hạch toán chi phí, giá thành, mối quan hệ giữa chi phí sản cxuất và giá thành sản phẩm.
Phạm vi nghiên cứu về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần khí công nghiệp giai đoạn hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận sử dụng phương pháp tổng hợp phân tích, thống kê chọn lọc với so sánh kết quả, trên cơ sở vận dụng phương pháp tư duy lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp sử dụng các phương pháp của khoa học quản lý kinh tế – tài chính
4. Mục đích nghiên cứu:
Khoá luận nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần khí công nghiệp: đề cập và phân tích những khái niệm, bản chất, nội dung kinh tế và các cách phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm; các đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành; các hình thức sổ kế toán áp dụng cho một hình thức kế toán cụ thể…
Trên cơ sở tập trungvào việc thu thập phân tích và đánh giá thực trạng về vấn đề chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, khoá luận đã đề xuất những giải pháp nâng cao để từng bước hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần khí công nghiệp.
5. Bố cục của khoá luận;
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận chuyên đề được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Lí luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
Chương 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp.
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình của PGS- TS Nguyễn Đình Hựu, sự giúp đỡ của các cán bộ kế toán Công ty Cổ phần khí công nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Chương 1
lí luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
1.1. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
1.1.1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất.
1.1.1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất.
Sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động cơ bản của xã hội loài người, là điều kiện tiên quyết, tất yếu và vĩnh viễn của sự tồn tại, phát triển trong mọi chế độ xã hội, mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế nói chung và trong nền kinh tế thị trường nói riêng, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thực chất là thực hiện việc sản xuất ra sản phẩm theo yêu cầu của thị trường nhằm mục đích kiếm lời.
Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp giữa sức lao động với tư liệu lao động và đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Trong giai đoạn này một mặt các doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản chi phí để tiến hành sản xuất, mặt khác các doanh nghiệp lại thu được một lượng kết quả sản xuất gồm thành phẩm và sản phẩm dở dang. Do vậy, để đảm bảo bù đắp được chi phí và có lãi đòi hỏi các doanh nghiệp phải áp dụng mọi biện pháp để tăng lượng kết quả thu được, giảm lượng chi phí chi ra, tính toán sao cho với lượng chi phí bỏ ra phải thu được kết quả cao nhất.
Do giá trị hàng hoá là một phạm trù kinh tế khách quan trên thị trường. Chính vì vậy chi phí sản xuất mà các doanh nghiệp hạch toán phải khớp với giá trị thực tế của tư liệu sản xuất dùng vào sản xuất kinh doanh và các khoản đã chi ra. Mặc dù các hao phí bỏ ra cho sản xuất bao gồm nhiều loại, nhiều yếu tố khác nhau nhưng trong điều kiện tồn tại quan hệ hàng hoá- tiền tệ, chúng cần được tổng hợp và biểu hiện dưới hình thức tiền tệ. Từ đó ta có thể đi dến một khái niệm chung nhất về chi phí sản xuất như sau:
Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất trong một thời kì nhất định.
Trong đó chi phí lao động sống bao gồm tiền lương, các khoản bảo hiểm. Chi phí lao động vật hoá gồm chi phí nguyên vật liệu, khấu hao TSCĐ...
Trong các doanh nghiệp sản xuất, ngoài những chi phí có tính chất sản xuất còn có những chi phí không có tính chất sản xuất. Vì vậy cần phải phân biệt chi phí và chi tiêu.
Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kì kinh doanh chứ không phải là mọi khoản chi ra trong kì, đó là những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kể nó được dùng vào mục đích gì ví dụ như chi mua sắm vật tư, chi cho sản xuất chế tạo sản phẩm, chi cho công tác văn hoá văn nghệ trong doanh nghiệp ...
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Song chúng lại khác nhau về lượng và thời gian. Chi tiêu có thể là chi phí như mua vật tư đưa ngay vào sản xuất hoặc cũng có thể chưa phải là chi phí sản xuất như mua vật tư về nhập kho chưa xuất dùng...Sở dĩ có sự khác nhau này là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kĩ thuật hạch toán chúng.
Việc phân biệt chi phí và chi tiêu có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu bản chất nội dung của chi phí. Nó đồng thời là cơ sở để các doanh nghiệp xác định phạm vi hạch toán chi phí sản xuất trong kì.
Về bản chất của chi phí sản xuất, các nhà kinh tế học thường quan niệm đó là các phí tổn phải chịu khi sản xuất hàng hoá hay dịch vụ trong kì kinh doanh. Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp thì chi phí sản xuất là toàn bộ các khoản tiền mà doanh nghiệp phải mua các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra sản phẩm nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp. Còn theo quan niệm của kế toán thì chi phí sản xuất như một khoản phải hy sinh hay một khoản bỏ ra để đạt được mục đích nhất định, nó được xem như một lượng tiền phải trả cho các hoạt động của doanh nghiệp trong việc tạo ra sản phẩm. Như vậy các quan điểm trên thực tế chỉ là sự nhìn nhận bản chất của chi phí sản xuất dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung nó đều là sự dịch chuyển vốn- dịch chuyển giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá.
Việc tìm hiểu rõ khái niệm chi phí sản xuất giúp các nhà quản lí doanh nghiệp có cái nhìn sâu hơn về bản chất của chi phí sản xuất, từ đó tìm ra biện pháp hạ thấp chi phí sản xuất đến mức thấp nhất.
1.1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất.
Một trong những thông tin quan trọng đối với các nhà quản trị doanh nghiệp là các thông tin về chi phí, vì mỗi khi chi phí tăng thêm sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Do vậy các nhà quản lí cần phải kiểm soát chặt chẽ các chi phí phát sinh trong doanh nghiệp. Để làm được điều này cần thiết phải làm rõ được các cách phân loại chi phí khác nhau, vì mỗi cách phân loại đều cung cấp thông tin ở mỗi góc độ khác nhau giúp cho nhà quản trị đưa ra được những quyết định thích hợp.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản xuất chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng chi phí của doanh nghiệp thì việc quản lí chi phí một cách chặt chẽ lại càng trở nên quan trọng. Quản lí chi phí sản xuất chính là quản lí việc sử dụng hợp lí, tiết kiệm các yếu tố cấu thành nên sản phẩm.
Trong thực tế, chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại khác nhau về nội dung kinh tế, về tính chất, về vị trí của nó trong việc tạo ra sản phẩm, về địa điểm phát sinh chi phí ... Hạch toán chi phí theo từng loại sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin kế toán, là cơ sở tin cậy cho việc phấn đấu giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế của chi phí. Tuỳ theo yêu cầu của công tác hạch toán và quản lí cũng như nhằm mục đích ra quyết định người ta phân loại chi phí theo những tiêu thức khác nhau nhằm phục vụ cho những mục đích riêng của mình.
1.1.1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí.
Mỗi yếu tố chi phí sản xuất được sử dụng trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp đều có những công dụng và mục đích riêng. Không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào người ta xếp chúng vào một nhóm với mục đích thuận lợi cho việc tính giá thành sau này. Theo cách phân loại này chi phí sản xuất được chia ra làm ra ba khoản mục: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
* Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm các chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng vào mục đích chế tạo sản phẩm.
* Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất và các khoản tính trích theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất( BHXH, BHYT, KPCĐ).
* Chi phí sản xuất chung: bao gồm những khoản chi phí sản xuất trực tiếp khác ngoài hai khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Như vậy nó bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp, các loại chi phí phân xưởng khác như: chi phí sửa chữa, bảo trì, khấu hao TSCĐ, dịch vụ mua ngoài...
Do đặc điểm của chi phí sản xuất chung không thể tính trực tiếp vào sản phẩm nên chúng được tính vào sản phẩm thông qua việc phân bổ theo các tiêu thức hợp lí.
Việc phân loại chi phí theo mục đích và công dụng của chi phí có tác dụng trong việc quản lí chi phí theo định mức, cung cấp số liệu cho công tác tính giá thành. Từ đó thấy được ảnh hưởng của từng loại khoản mục chi phí đến kết cấu của giá thành sản phẩm, giúp tập hợp chi phí sản xuất một cách đầy đủ, chính xác. Đồng thời nó cũng cung cấp những thông tin cần thiết để xác định phương hướng và biện pháp giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên cách phân loại này chưa cho ta thấy được chi phí sẽ "phản ứng" như thế nào khi có sự thay đổi xảy ra trong mức độ hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Để thấy được sự thay đổi này ta xem xét cách phân loại sau.
1.1.1.2.2. Phân loại chi phí theo cách "ứng xử" của chi phí.
Cách "ứng xử" của chi phí có nghĩa là các chi phí này tăng giảm như thế nào đối với sự thay đổi về mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi mức độ sản xuất tăng lên hay giảm đi thì chi phí có thể tăng, giảm hoặc giữ nguyên không đổi. Với mục đích lập kế hoạch người quản lí phải có khả năng thấy trước được điều gì sẽ xảy ra và nếu chi phí có thay đổi phải xác định được chúng sẽ thay đổi bao nhiêu. Để cung cấp cho thông tin này, chi phí được phân làm ba loại:
*Chi phí khả biến (biến phí):là những khoản chi phí thay đổi về tổng số, tỉ lệ với những biến đổi của mức độ hoạt động. Trong doanh nghiệp sản xuất chi phí khả biến bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và một số khoản chi phí sản xuất chung. Biến phí được chia làm 2 loại:
Biến phí tỉ lệ: là những khoản chi phí có quan hệ tỉ lệ thuận trực tiếp với biến động của mức độ hoạt động căn. Tổng chi phí biến đổi sẽ phụ thuộc vào sản lượng sản xuất. Do đó khi ta kí hiệu biến phí đơn vị là b, sản lượng sản xuất là x ta sẽ có phương trình biến phí là: y=bx.
Biến phí cấp bậc: là những khoản chi phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi nhiều và rõ ràng. Biến phí loại này không thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi ít. Nói cách khác biến phí cấp bậc cũng quan hệ tỉ lệ thuận với mức độ hoạt động nhưng không có tính tuyến tính. Thuộc loại này có thể kể đến như chi phí cho nhân viên bảo trì...
Đồ thị biểu diễn chi phí khả biến.
CF CF
y=bx b2
b1
bo
0 MĐHĐ MĐHĐ
*Chi phí bất biến (định phí): là những khoản chi phí không biến đổi hoặc biến đổi không đáng kể khi mức độ hoạt động thay đổi. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì định phí là những chi phí không thay đổi khi sản lượng sản xuất thay đổi và nó tồn tại ngay cả khi doanh nghiệp không tiến hành sản xuất. Tuy nhiên định phí vẫn giữ nguyên trong phạm vi giữa số lượng sản phẩm tối thiểu và tối đa mà doanh nghiệp dự định sản xuất. Khi doanh nghiệp thay đổi phạm vi tức là mở rộng hay thu hẹp sản xuất thì định phí cũng thay đổi, do đặc điểm của định phí là: Tổng định phí giữ nguyên khi sản lượng trong phạm vi phù hợp và định phí trong một sản phẩm thay đổi khi sản lượng thay đổi.
Định phí được chia làm hai loại: Định phí bắt buộc và định phí tuỳ ý, trong đó:
Định phí bắt buộc là định phí không thể thay đổi được một cách nhanh chóng vì chúng thường liên quan đến TSCĐ và cấu trúc của tổ chức cơ bản của một doanh nghiệp như tiền lương của ban giám đốc. Định phí bắt buộc có bản chất sử dụng lâu dài và không thể giảm đến số không được trong một thời gian ngắn. Thuộc loại này có thể kể đến như chi phí khấu hao TSCĐ...
Định phí tuỳ ý là định phí có thể được điều chỉnh tăng hoặc giảm một cách tương đối dễ dàng tuỳ thuộc vào qui mô của hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng thời kì, chẳng hạn như chi phí quảng cáo, chi phí đào tạo nhân viên...
Khái niệm định phí bắt buộc và định phí tuỳ ý chỉ là khái niệm tương đối, tuỳ thuộc vào nhận thức chủ quan của các nhà quản trị doanh nghiệp. Có những nhà quản trị nhìn nhận một khoản định phí nào đó là bắt buộc nên rất ngần ngại khi phải điều chỉnh. Ngược lại có những nhà quản trị lại cho rằng định phí nào đó là tuỳ ý nên thường xuyên xem xét lại và điều chỉnh khi có điều kiện.
Đồ thị biểu diễn định phí:
CF CF
y=A
0 MĐHĐ 0 MĐHĐ
Chi phí khả biến và chi phí bất biến chỉ mang tính chất tương đối. Chi phí bất biến chỉ có thể xác định khi qui mô sản xuất đã tương đối ổn định. Khi qui mô sản xuất thay đổi thì chi phí bất biến cũng thay đổi theo.
* Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí mà bản thân nó bao gồm cả yếu tố định phí lẫn yếu tố biến phí. ở mức độ hoạt động căn bản chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí còn quá mức độ đó lại thể hiện đặc tính của biến phí. Ví dụ chi phí sản xuất chung có đặc điểm của chi phí hỗn hợp, cụ thể: Tiền thuê máy móc, thiết bị hoặc chi phí điện thoại gồm 2 phần: Phần định phí hàng tháng và phần biến phí theo số giờ máy sử dụng.
Nhờ cách phân loại chi phí này, người ta có thể đánh giá chính xác hơn tính hợp lí của chi phí sản xuất chi ra, mặt khác nó là cơ sở quan trọng để xác định sản lượng hoà vốn và là cơ sở để xây dựng chính sách giá hợp lí, linh hoạt. Sự hiểu biết về cách "ứng xử" của chi phí là chìa khoá để ra quyết định trong các doanh nghiệp. Vì hiểu được chi phí "ứng xử" như thế nào thì người quản lí sẽ có khả năng tốt hơn trong việc dự toán các chi phí cho các trường hợp thực hiện khác nhau, từ đó tìm ra được biện pháp để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tận dụng năng lực sản xuất để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.1.1.2.3. Phân loại chi phí theo mối quan hệ và khả năng tập hợp cho các đối tượng chịu chi phí.
*Chi phí trực tiếp còn được gọi là chi phí có thể tách biệt, phát sinh một cách riêng biệt trong một hoạt động cụ thể của doanh nghiệp. Nó thay đổi tỉ lệ thuận với số lượng, chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Chi phí sản xuất trực tiếp bao gồm:
- Vật liệu chính, vật liệu phụ trực tiếp dùng vào sản xuất sản phẩm.
- Nhiên liệu, động lực dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm.
- Tiền lương, BHXH của lao động trực tiếp.
- Giá trị công cụ dụng cụ dùng cho sản xuất.
- Chi phí trực tiếp khác bằng tiền.
*Chi phí gián tiếp là loại chi phí không thể tách biệt cho một hoạt động cụ thể nào và cùng một lúc có liên quan đến nhiều hoạt động khác nhau. Cuối kì chi phí gián tiếp phải được phân bổ theo những phương pháp riêng. Thuộc loại này gồm có chi phí cho hoạt động quản lí của doanh nghiệp như: chi phí lương giám đốc, quản đốc, chi phí khấu hao TSCĐ...
Do mỗi loại chi phí có tác dụng khác nhau đến số lượng sản phẩm sản xuất ra nên việc hạch toán chi phí theo hướng phân định rõ ràng chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp là một việc làm có ý nghĩa thiết thực trong việc đánh giá tính hợp lí của chi phí sản xuất. Cách phân loại này có ý nghĩa lớn đối với việc xác định phương pháp kế toán tập hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng chịu chi phí một cách đúng đắn, hợp lí.
1.1.1.2.4. Một số các cách phân loại chi phí khác nhằm mục đích ra quyết định.
Trong doanh nghiệp việc đưa ra được một quyết định đúng đắn có ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đó. Một quyết định đúng sẽ đem lại hiệu quả kinh tế, ngược lại nếu quyết định sai có thể sẽ đưa doanh nghiệp đến bờ vực phá sản. Để đáp ứng yêu cầu này người ta phân chi phí sản xuất ra thành các loại như:
*Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được.
-Chi phí kiểm soát được ở một cấp quản lí nào đó là chi phí mà cấp đó có thẩm quyền ra quyết định. Như vậy các nhà quản lí cấp cao có phạm vi, quyền hạn rộng đối với chi phí hơn các nhà quản trị cấp thấp, họ có nhiều quyền kiểm soát và quyết định chi phí hơn.
-Ngược lại, những chi phí mà cấp đó không có thẩm quyền ra quyết định gọi là chi phí không kiểm soát được.
Việc phân loại này có tác dụng trong việc đưa ra các thông tin trên báo cáo lỗ lãi của các bộ phận chính xác hơn, có ý nghĩa hơn khi họ chỉ liệt kê vào báo cáo những chi phí kiểm soát được bởi bộ phận mình và loại bỏ những chi phí bộ phận mình không kiểm soát được.
* Chi phí chênh lệch (chi phí sai biệt).
Để thực hiện chức năng ra quyết định, nhà quản trị thường phải lựa chọn, so sánh nhiều phương án khác nhau. Mỗi phương án bao gồm những khoản chi phí riêng có thể khác nhau về qui mô và các yếu tố. Những khoản chi phí nào có mặt ở dự án này mà không có ở dự án khác hoặc chỉ có một phần thì được gọi là chi phí chênh lệch.
* Chi phí cơ hội.
Chi phí cơ hội là lợi ích bị mất khi lựa chọn phương án và hành động này thay vì phương án và hành động khác. Trong kinh doanh chi phí cơ hội không được phản ánh trên sổ sách kế toán nhưng lại rất quan trọng, cần được xem xét kĩ khi lựa chọn phương án kinh doanh.
* Chi phí chìm.
Đây là những khoản phí mà doanh nghiệp bắt buộc phải chịu khi lựa chọn phương án kinh doanh nào. Chi phí chìm thường liên quan đến khấu hao TSCĐ.
Trên đây là một số các cách phân loại chi phí phổ biến nhất hiện nay. Việc nghiên cứu xem xét các cách phân loại chi phí có tác dụng nâng cao tính chi tiết của thông tin hạch toán. Nhưng để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách có hiệu quả thì ngoài việc hiểu rõ bản chất, khái niệm, các cách phân loại chi phí điều quan trọng tiếp theo là phải nghiên cứu bản chất và các loại giá thành cũng như mối quan hệ giữa chi phí và giá thành là như thế nào.
1.1.2. Giá thành sản phẩm và các loại giá thành.
1.1.2.1. Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm.
Trong sản xuất, chi phí sản xuất mới chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí. Để đánh giá được chất lượng sản xuất kinh doanh của tổ chức kinh tế, chi phí phải được xem xét trong mối quan hệ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ bản của quá trình sản xuất đó là kết quả sản xuất thu được, quan hệ so sánh đó hình thành nên giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp thể hiện qua các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, là thước đo mức tiêu hao để bù đắp chi phí trong quá trình sản xuất, là một căn cứ xây dựng phương án giá thành sản phẩm của kì kế hoạch.
Giá thành được tính toán xác định cho từng loại sản phẩm, lao vụ cụ thể và chỉ tính toán với số lượng sản phẩm hoặc dịch vụ đã hoàn thành trong quá trình sản xuất (thành phẩm) hoặc kết thúc một giai đoạn sản xuất ( bán thành phẩm ).
Giá thành sản phẩm trong một chừng mực nhất định nó vừa mang tính chủ quan lại vừa mang tính khách quan. Vì vậy, chúng ta phải xem xét giá thành trên nhiều góc độ khác nhau nhằm sử dụng chỉ tiêu giá thành có hiệu quả nhất.
Giá thành là biểu hiện bằng tiền giá trị tư liệu sản xuất và sức lao động kết tinh trong một đơn vị sản phẩm hàng hoá, vì vậy nó mang tính khách quan do sự di chuyển và kết tinh này là tất yếu. Việc tính toán, đo lường và biểu hiện chúng bằng tiền chỉ là phản ánh của quản lí mà thôi.
Mặt khác giá thành là một đại lượng được tính toán trên cơ sở chi phí sản xuất chi ra trong kì nên nó là chỉ tiêu có sự dao động nhất định. Trên góc
độ này giá thành mang tính chủ quan. Đặc điểm chủ quan này thể hiện trên hai khía cạnh:
Thứ nhất giá thành là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu sản xuất và sức lao động đã hao phí để sản xuất ra một khối lượng sản phẩm nhất định. Vì vậy việc áp dụng các biện pháp đánh giá khác nhau ở từng doanh nghiệp cũng làm cho giá thành sản phẩm mang tính chủ quan nhất định.
Thứ hai giá thành được tính trên cơ sở chi phí sản xuất. Những chi phí được tập hợp vào giá thành phải tuân theo qui định chung của kế toán. Không phải bất cứ chi phí nào cũng được hạch toán vào chi phí sản xuất để tính giá thành sản phẩm. Chẳng hạn trước kia chi phí quản lí và chi phí bán hàng cũng được tập hợp vào giá thành giá thành nhưng từ năm 1995 trở lại đây theo chế độ kế toán mới thì hai khoản chi phí này được coi như những khoản phí tổn mà doanh nghiệp phải chịu, do vậy nó làm cho giá thành sản phẩm dao động theo. Như vậy bản chất của giá thành sản phẩm là việc dịch chuyển giá trị các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất vào sản phẩm đã hoàn thành.
Từ việc nghiên cứu bản chất của giá thành sản phẩm ta có thể đi đến một khái niệm chung nhất về giá thành sản phẩm như sau: Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
1.1.2.2. Các loại giá thành.
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lí, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau.Về lí luận cũng như trên thực tế tại các doanh nghiệp chỉ tiêu giá thành thường có ba loại:
1.1.2.2.1. Giá thành kế hoạch.
Việc tính toán xác định giá thành kế hoạch được tiến hành trước khi tiến hành quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm do bộ phận kế hoạch thực hiện. Giá thành kế hoạch được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và được xem là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp.
1.1.2.2.2. Giá thành định mức.
Cũng giống như giá thành kế hoạch, việc tính giá thành định mức cũng có thể thực hiện trước khi tiến hành sản xuất, chế tạo sản phẩm. Tuy nhiên khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên các định mức bình quân tiên tiến và không đổi trong suốt kì kế hoạch thì giá thành định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kì kế hoạch nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành. Giá thành định mức luôn được xem như là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, tiền vốn trong doanh nghiệp, để đánh giá các giải pháp mà doanh nghiệp đã áp dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí.
1.1.2.2.3. Giá thành thực tế.
Khác với hai loại giá thành trên, giá thành thực tế của sản phẩm, lao vụ chỉ được xác định khi quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm đã hoàn thành và dựa trên cơ sở số liệu sản xuất thực tế đã phát sinh tập hợp được trong kì.
Giá thành thực tế của sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế - tổ chức kĩ thuật để thực hiện quá trình sản xuất, là cơ sở để xác định giá trị sản phẩm, giá bán thành phẩm và để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ba loại giá thành chủ yếu trên đây thì còn có cả giá thành phân xưởng( giá thành công xưởng, giá thành sản xuất) và giá thành toàn bộ( giá thành tiêu thụ) trong đó:
Giá thành công xưởng là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất ( chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung).
Giá thành toàn bộ là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (chi phí sản xuất, chi phí quản lí và chi phí bán hàng).
Việc nghiên cứu chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cho ta thấy được mối quan hệ của chúng trong quá trình sản xuất
1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Chi phí là biểu hiện mặt hao phí còn giá thành biểu hiện mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của một quá trình, vì vậy chúng giống nhau về mặt chất. Tuy nhiên do bộ phận chi phí sản xuất giữa các kì không đều nhau nên giá thành và chi phí sản xuất lại khác nhau về lượng. Được tính vào chỉ tiêu giá thành sản phẩm chỉ có những chi phí gắn liền với sản phẩm hay khối lượng công việc đã hoàn thành không kể chi phí sản xuất đã chi ra trong kì kinh doanh nào.
Do lượng chi phí sản xuất kì trước chuyển sang kì này thường không nhất trí với lượng chi phí sản xuất kì này chuyển sang kì sau nên tổng giá thành kì này thường không bằng tổng chi phí đã chi ra trong kì đó.
Trên góc độ biểu hiện bằng tiền, chi phí sản xuất cũng khác với giá thành sản phẩm. Đặc biệt trong các doanh nghiệp sản xuất, không bao gồm những chi phí đã chi ra trong kì nhưng còn chờ phân bổ dần cho kì sau, đồng thời phải cộng thêm các khoản chi phí thực tế chưa phát sinh trong kì nhưng được tính trước vào giá thành và chi phí đã chi ra kì trước chưa phân bổ kết chuyển sang.
Như vậy chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm không chỉ khác nhau về nội dung này còn khác nhau về thời điểm phát sinh chi phí hình thành nên chúng.
Do đó công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp có vai trò nhiệm vụ đặc biệt quan trọng
1.1.4. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán với việc quản lí chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, việc đưa ra được những thông tin chính xác, kịp thời là điều kiện tiên quyết giúp nhà quản trị điều hành công việc của mình. Kế toán chính là công cụ của quản lí giúp đưa ra những con số biết nói, nắm bắt lợi thế cạnh tranh trong sản xuất, đặc biệt là cạnh tranh giá bán sản phẩm từ đó đưa ra được các quyết định đúng đắn khi kí kết các hợp đồng sản xuất hay đơn đặt hàng.
Để làm tốt điều này kế toán phải tổ chức hạch toán một cách khoa học hợp lí, kiểm tra kiểm soát thường xuyên, liên tục có hệ thống nguyên tắc tiết kiệm trong sản xuất. Để thực hiện tốt chức năng cung cấp thông tin cho việc quản lí chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm kế toán phải thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
- Tập hợp và phân bổ chính xác, kịp thời các loại chi phí sản xuất theo các đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành. Trên cơ sở đó, kiểm tra tình hình thực hiện các định mức và dự toán chi phí sản xuất.
- Tính toán chính xác giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) của sản phẩm dịch vụ hoàn thành. Đồng thời phản ánh lượng sản phẩm, dịch vụ hoàn thành, nhập kho hay tiêu thụ (chi tiết từng hoạt động, từng mặt hàng).
1.2. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và các phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
1.2.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Để hạch toán chi phí sản xuất được chính xác, kịp thời đòi hỏi công việc đầu tiên mà các nhà quản lí phải làm là xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Đây là nội dung quan trọng nhất trong việc tổ chức hạch toán chi phí sản xuất.
Vậy xác định đối tượng chi phí sản xuất là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí. Để xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cần phải dựa vào những căn cứ sau đây:
* Tính chất qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm: Tuỳ thuộc doanh nghiệp áp dụng hình thức nào sản xuất giản đơn hay phức tạp. Đối với sản xuất giản đơn, thì đối tượng tập hợp chi phí là sản phẩm hoặc toàn bộ quá trình sản xuất. Đối với sản xuất phức tạp thì đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm.
* Loại hình sản xuất: Sản xuất đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ, sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn. Trong sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt, đối tượng hạch toán chi phí trong các trường hợp này là các đơn đặt hàng riêng biệt được mở theo số lượng qui định trước của những sản phẩm giống nhau hoặc khối lượng công việc hoàn thành nhất định. Đối với sản xuất hàng loạt và sản xuất với khối lượng lớn, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ...
* Đặc điểm tổ chức sản xuất: doanh nghiệp tổ chức sản xuất theo kiểu có phân xưởng hay không có phân xưởng. Việc tổ chức này nhằm phục vụ cho nhu cầu chỉ đạo sản xuất và quản lí kinh tế nhạy bén có hiệu quả hơn trong từng loại hình doanh nghiệp cụ thể. Đối với các doanh nghiệp có tổ chức phân xưởng thì các phân xưởng đó có thể đồng thời là đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Việc tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng phục vụ cho việc phân tích và kiểm tra các chi phí ở phân xưởng, tạo điều kiện cho kết quả hạch toán nội bộ của doanh nghiệp được đúng đắn.
*Yêu cầu và trình độ quản lí, tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Còn đối với trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại.
Tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng có tác dụng tốt cho việc tăng cường quản lí sản xuất, tăng cường công tác hạch toán chi phí nội bộ, phục vụ tốt cho việc tính giá thành. Tuy nhiên để tính được giá thành sản phẩm một cách chính xác thì đòi hỏi phải xác định đối tượng tính giá thành phù hợp.
1.2.2. Nội dung hạch toán các khoản mục chi phí sản xuất chủ yếu.
1.2.2.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ,...) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp này đòi hỏi phải tổ chức tốt công tác hạch toán ban đầu theo đúng đối tượng tập hợp các số liệu chứng từ kế toán trực tiếp theo từng đối tượng liên quan để ghi vào các tài khoản, tiểu khoản hoặc chi tiết theo đúng đối tượng chịu chi phí với mức độ chính xác nhất.
Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng liên quan. Việc lựa chọn tiêu thức phân bổ hoàn toàn phụ thuộc vào từng loại chi phí cần phân bổ và đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với chi phí nguyên vật liệu, tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng sản phẩm ...Công thức phân bổ như sau:
=
x
Chi phí vật liệu phân bổ Tổng chi phí vật liệu Tỷ lệ(hay hệ số) cho từng đối tượng cần phân bổ phân bổ
Trong đó:
=
Tỷ lệ(hay hệ số) Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
Phương pháp hạch toán cụ thể như sau:
* Trường hợp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên:
Theo hình thức này để theo dõi chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán sử dụng tài khoản 621"chi phí nguyên vật liệu trực tiếp" theo dõi chi tiết cho từng đối tượng.
Bên Nợ: Giá trị nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm.
Bên Có: Kết chuyển nguyên vật liệu trực tiếp vào TK154 và giá trị vật liệu xuất dùng không hết nhập lại kho.
Tk621 cuối kì không có số dư.
Nội dung hạch toán cụ thể được thể hiện qua sơ đồ sau:
TK 152
TK 621
TK 152
Giá ttế của NVL xuất kho
cho sản xuất trực tiếp
TK 111, 112, 311, 331
NVL mua ngoài đưa vào SXTT
(0 qua kho kho)
TK 133
TK 154cb, 411, 336
Giá ttế NVL chế biến xong được
cấp, góp, đi vay, đưa vào SXTT
Giá ttế của NVL dùng
không hết, chưa hết
TK 154
C.kỳ k/c g.trị số NVL
đã sd trong kỳ cho đ/tượng về TK tổng hợp của nó
*Trường hợp áp dụng phương pháp kiểm kê định kì:
Để phản ánh các chi phí vật liệu đã xuất dùng cho sản xuất, kinh doanh, kế toán sử dụng TK 621. Các chi phí phản ánh trên TK621 không ghi theo từng chứng từ xuất dùng nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ mà được ghi một lần vào cuối kì hạch toán, sau khi tiến hành kiểm kê và xác định được giá trị nguyên vật liệu, dụng cụ tồn kho và hàng mua đi đường. Nội dung phản ánh của TK621 khác với phương pháp kê khai thường xuyên.
Bên Nợ: Giá trị vật liệu, công cụ dụng cụ đã xuất dùng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong kì.
Bên Có: Kết chuyển chi phí vật liệu, CCDC vào giá thành, dịch vụ, lao vụ.
Cuối kì TK621 không có số dư và nó được mở theo từng đối tượng hạch toán chi phí.
Nội dung hạch toán cụ thể được thể hiện qua sơ đồ sau:
TK331,111... TK611 TK621 TK 631
Giá trị VL tăng trong kì Giá trị NVL dùng K/c CPNVLTT
chế tạo SP
TK151,152,153 TK151,152,153
Giá trị VL tồn đầu kì Gtrị VL tồn kho
và đi đường c.kì
1.2.2.2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp:
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản tiền phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương. Ngoài ra chi phí nhân công còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quỹ BHXH,BHYT,KPCĐ do chủ doanh nghiệp chịu và được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất.
Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 622"CPNCTT". Tài khoản này không có số dư và được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí.
Bên Nợ: chi phí nhân công trực tiếp thực tế phát sinh.
Bên Có: kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp.
Phương pháp hạch toán cụ thể của cả hai phương pháp kiểm kê định kì và kê khai thường xuyên là giống nhau, chỉ khác ở bút toán cuối kì.
Với phương pháp kê khai thường xuyên: Cuối kì kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào TK 154 theo từng đối tượng tập hợp chi phí. Còn với phương pháp kiểm kê định kì thì cuối kì kế toán tiến hành kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào TK631 theo từng đối tượng.
Trường hợp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên:
TK334 TK622 TK154
Tiền lương và phụ cấp K/c CPNCTT vào giá thành
phải trả cho CNTT sản phẩm
TK338
Các khoản đóng góp theo
tỷ lệ với TL của CNTTSX
thực tế phát sinh
Trường hợp áp dụng phương pháp kiểm kê định kì
TK334,338 TK622 TK631
Lương, phụ cấp, BH K/c CPNC vào giá thành
BHYT,KPCĐ trích theo .... sản phẩm
1.2.2.3. Hạch toán chi phí trả trước:
Chi phí trả trước là các khoản đã thực tế phát sinh trong kì nhưng chưa sử dụng cho cả các kì sau. Sau đó hàng kì phân bổ dần chi phí này cho bộ phận sử dụng nó. Các chi phí này khi phát sinh được tập hợp vào TK1421" chi phí trả trước chờ phân bổ"
Bên Nợ: Các khoản chi phí trả trước phát sinh.
Bên Có: Các khoản chi phí trả trước đã phân bổ vào chi phí kinh doanh.
Dư Nợ: Các khoản chi phí trả trước thực tế phát sinh nhưng chưa phân bổ vào chi phí kinh doanh.
Sơ đồ hạch toán chi phí trả trước như sau:
TK627,641,642,241
TK111,112,331,334
TK 142
Phân bổ dần CP trả trước vào các kỳ hạch toán
phát sinh
CP trả trước tt
phát sinh
TK641,642
TK911
K/cCPBH,CPQL vào
TK xác định kết quả
k/c CPBH,CPQL
1.2.2.4. Hạch toán chi phí phải trả:
Chi phí phải trả còn gọi là chi phí trích trước là những khoản chi phí thực tế chưa phát sinh nhưng được ghi nhận là chi phí của kì hạch toán. Đây là những khoản chi phí trong kế hoạch của đơn vị mà do tính chất hoặc yêu cầu quản lí nên được tính trước vào chi phí kinh doanh cho các đối tượng chịu chi phí nhằm bảo đảm cho giá thành sản phẩm, lao vụ, chi phí bán hàng, chi phí quản lí khỏi đột biến tăng khi những khoản chi phí này phát sinh. Chi phí phải trả trong doanh nghiệp thường bao gồm: Tiền lương phép của công nhân sản xuất (với các doanh nghiệp sản xuất mang tính chất thời vụ), chi phí sửa chữa TSCĐ trong kế hoạch, thiệt hại về ngừng sản xuất trong kế hoạch....
Các khoản chi phí này được theo dõi, phản ánh trên TK335" Chi phí phải trả"
Bên Nợ: chi phí phải trả thực tế phát sinh.
Bên Có: Các khoản chi phí phải trả được ghi nhận(đã tính trước) vào chi phí trong kì kế hoạch.
Dư Có: Các khoản chi phí phải trả đã tính vào chi phí kinh doanh nhưng thực tế chưa phát sinh.
Về nguyên tắc TK335 cuối năm không có số dư (trừ trường hợp một số khoản chi phí phải trả có liên quan đến nhiều niên độ kế toán như chi phí sửa chữa TSCĐ, lãi tiền vay dài hạn...được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận).
Nội dung hạch toán cụ thể được thể hiện trong sơ đồ sau:
TK334 TK335 TK622
Tiền lương phép, lương Trích trước lương phép,lương
ngừng việc t.tế phải trả ngừng việc của CNSX
TK241,331,111,112 TK627,641,642
Các CP phải trả khác Trích trước CP phải trả
thực tế phát sinh khác vào chi phí kinh doanh
1.2.2.5.Hạch toán các khoản thiệt hại trong sản xuất.
1.2.2.5.1.Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng.
Sản phẩm hỏng là những sản phẩm không thoả mãn các tiêu chuẩn chất lượng và đặc điểm kĩ thuật của sản xuất về mầu sắc, kích cỡ, trọng lượng, cách thức lắp ráp...Tuỳ theo mức độ hư hỏng mà sản phẩm hỏng được chia làm 2 loại:
- Sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được là những sản phẩm hỏng mà về mặt kĩ thuật có thể sửa chửa được và việc sửa chữa đó có lợi về mặt kinh tế.
- Sản phẩm hỏng không sửa chữa được là những sản phẩm mà về mặt kĩ thuật không thể sửa chữa được hoặc có thể sửa chữa được nhưng không có lợi về mặt kinh tế.
Trong quan hệ với công tác kế hoạch, hai loại sản phẩm hỏng trên lại được chi tiết thành sản phẩm hỏng trong định mức và sản phẩm hỏng ngoài định mức.
- Sản phẩm hỏng trong định mức là những sản phẩm hỏng mà doanh nghiệp dự kiến xảy ra trong quá trình sản xuất. Đây là những sản phẩm hỏng được xem là không tránh khỏi trong sản xuất nên phần chi phí cho những sản phẩm này được coi là chi phí sản xuất chính phẩm.
- Sản phẩm hỏng ngoài định mức là những sản phẩm hỏng nằm ngoài dự kiến của nhà sản xuất do các nguyên nhân bất thường. Vì thế các chi phí của chúng không được cộng vào chi phí sản xuất chính phẩm mà thường được xem như là một khoản phí tổn thời kì phải trừ vào thu nhập.
Thiệt hại về sản phẩm hỏng trong định mức bao gồm giá trị sản phẩm hỏng không sửa chữa được và phần chi phí sửa chữa sản phẩm tái chế trừ đi giá trị phế liệu thu hồi (nếu có). Toàn bộ phần thiệt hại này tính vào chi phí sản xuất sản phẩm và được hạch toán như đối với chính phẩm. Đối với giá trị thiệt hại của những sản phẩm ngoài định mức, kế toán phải theo dõi riêng. Đồng thời xem xét từng nguyên nhân gây ra sản phẩm hỏng để có biện pháp xử lí. Toàn bộ giá trị thiệt hại có thể theo dõi riêng trên một trong các tài khoản như 1381,154,627,1421(chi tiết sản phẩm hỏng ngoài định mức), sau khi trừ đi một số phế liệu thu hồi và bồi thường (nếu có), thiệt hại thực về sản phẩm hỏng sẽ được tính vào chi phí bất thường.
Sơ đồ hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng ngoài định mức.
TK152,153,334
338,241,... TK 1381.SPHNĐM TK 821,415
Chi phí sửa chữa Giá trị thiệt hại thực
về SPHNĐM
TK154,155,157,632 TK1381,152...
Giá trị sản phẩm hỏng Giá trị phế liệu thu hồi
không sửa chữa được và các khoản bồi thường
1.2.2.5.2. Thiệt hại về ngừng sản xuất:
Trong thời gian ngừng sản xuất vì những nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan (thiên tai, dịch hoạ, thiếu nguyên vật liệu...), các doanh nghiệp vẫn phải bỏ ra một khoản chi phí để duy trì hoạt động như tiền công lao động, khấu hao TSCĐ, chi phí bảo dưỡng....Những khoản chi phí chi ra trong thời gian này được coi là thiệt hại về những sản xuất. Với những khoản chi phí về ngừng sản xuất theo kế hoạch dự kiến, kế toán sẽ theo dõi ở TK335. Trường hợp ngừng sản xuất bất thường, các chi phí bỏ ra trong thời gain này do không được chấp nhận nên phải theo dõi riêng trên một trong các tài khoản tương tự như hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng ngoài định mức (TK154,627,1421,1381...chi tiết thiệt hại về ngừng sản xuất). Cuối kì, sau khi đã trừ vào thu hồi (nếu có, do bồi thường), giá trị thiệt hại thực tế sẽ trừ vào thu nhập như khoản chi phí thời kì. Cách hạch toán có thể được phản ánh qua sơ đồ sau:
Sơ đồ hạch toán tổng hợp thiệt hại ngừng sản xuất ngoài kế hoạch.
TK334,338,152,214... TK1421.THNSX TK821,415...
Thiệt hại thực
Tập hợp CP chi ra trong
thời gian ngừng sản xuất TK1381,111
Giá trị bồi thường
1.2.2.6.Hạch toán chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất của doanh nghiệp. Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng tài khoản 627, mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ phận sản xuất, dịch vụ.
Bên Nợ: Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ.
Bên Có: -Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung.
- Kết chuyển (hay phân bổ) chi phí sản xuất chung vào chi phí sản phẩm hay lao vụ, dịch vụ.
Tài khoản 627 cuối kỳ không có số dư do đã kết chuyển hay phân bổ hết cho các loại sản phẩm, dịch vụ, lao vụ và được chi tiết thành 6 tiểu khoản.
Do chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trong phân xưởng nên cần thiết phải phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng theo các tiêu thức phù hợp. Trong thực tế, các tiêu thức thường được sử dụng phổ biến để phân bổ chi phí sản xuất chung là phân bổ theo định mức, theo giờ làm việc thực tế của công nhân trực tiếp sản xuất, theo tiền lương công nhân sản xuất...
Công thức phân bổ:
Mức CPSXC
phân bổ cho từng đối tượng
=
Tổng CPSXC
x
Tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
Tổng tiêu thức phân bổ
Trong kỳ kinh doanh tập hợp chi phí từ các tài khoản liên quan vào bên Nợ TK 627. Cuối kỳ phân ra các khoản ghi giảm chi phí vào các tài khoản thích hợp còn lại phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng chịu chi phí. Với phương pháp kê khai thường xuyên kết chuyển chi phí vào tài khoản 154. Với phương pháp kiểm kê định kì kết chuyển chi phí vào TK631.
Trình tự hạch toán cụ thể thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất chung.
TK334,338 TK627 TK111,112,152...
CP nhân viên PX Các khoản ghi giảm CPSXC
(phế liệu thu hồi,
TK152,153 vật tư xuất dùng không hết...)
TK 154, 631
CP vật liệu, dụng cụ
TK1421,335
CP trả trước, phải trả tính
vào chi phí SXC Phân bổ(hoặc kết chuyển)
TK 214 chi phí sản xuất chung
Chi phí khấu hao TSCĐ
TK111,112,331...
CP mua ngoài và
CP bằng tiền khác
1.2.2.7.Tổng hợp chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang
1.22.7.1. Tổng hợp chi phí sản xuất:.
Các phần trên đã nghiên cứu cách hạch toán và phân bổ các loại chi phí sản xuất. Công việc tiếp theo của kế toán là tổng hợp các chi phí đó vào bên Nợ TK 154"chi phí sản xuất kinh doanh dở dang"(đối với các trường hợp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên) và bên Nợ TK 631"giá thành sản phẩm"(với trường hợp kiểm kê định kì), nhằm mục đích phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm toàn doanh nghiệp.
Tài khoản 154 được sử dụng để tổng hợp chi phí sản xuất trong kỳ, nó được kết cấu như sau:
Bên Nợ: Tập hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Bên Có: Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất.
Giá thành sản phẩm thực tế của sản phẩm hoàn thành.
Dư Nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm chưa hoàn thành.
Tài khoản 154 được mở chi tiết theo từng ngành sản xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay từng loại sản phẩm, nhóm sản phẩm, ... của các bộ phận sản xuất. Khi tập hợp chi phí, tất nhiên không phải tất cả chi phí đưa vào bên Nợ TK 154 đều là tổng giá thành, mà ta phải trừ đi các khoản ghi giảm chi phí sản xuất sản phẩm như: Phế liệu thu hồi, giá trị sản phẩm hỏng ngoài định mức không sửa chữa được... và tính ra được giá thành thực tế của sản phẩm hoàn thành.
Trình tự hạch toán được thể hiện trong "Sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất" sau:
TK621 TK 154 TK152,138
CP nguyên vật liệu trực tiếp Các khoản ghi giảm CP
TK622 TK155
CP nhân công trực tiếp Nhập kho
TK627 TK157 Gửi bán
Chi phí sản xuất chung ồZ t.tế SP
TK632
Tiêu thụ thẳng
Trường hợp áp dụng phương pháp kiểm kê định kì:
Để phục vụ cho việc tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, kế toán sử dụng tài khoản 631"giá thành sản phẩm". TK này được hạch toán chi tiết theo địa điểm phát sinh chi phí và theo loại nhóm sản phẩm, chi tiết sản phẩm của các bộ phận sản xuất kinh doanh được hạch toán vào TK 631 gồm 3 loại chi phí: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
Nội dung phản ánh của tài khoản 631:
Bên Nợ: Phản ánh giá trị sản phẩm dở dang đầu kì và các chi phí sản xuất phát sinh trong kì có liên quan đến chế tạo sản phẩm.
Bên Có: Kết chuyển trị giá sản phẩm dở dang cuối kì vào tài khoản 154.
Tổng giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành.
Tài khoản 631 cuối kì không có số dư.Trình tự hạch toán cụ thể được thể hiện qua sơ đồ dưới đây:
TK154 TK631 TK154
K/c giá trị SPDD đầu kì K/c giá trị SPDD cuối kì
TK621 TK632
K/c CPNVLTT Tổng giá thành SX của
sản phẩm hoàn thành.
TK622
K/c CPNCTT
TK 627
K/c(hoặc phân bổ) CPSXC
1.2.2.7.2. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang:
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang, công việc này được thực hiện như nhau cho cả 2 trường hợp kiểm kê định kỳ và kê khai thường xuyên.
Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của sản phẩm mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau:
Phương pháp 1: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu chính.
Theo chi phí này, toàn bộ chi phí chế biến được tính hết cho thành phẩm. Do vậy, trong sản phẩm dở dang chỉ bao gồm giá trị vật liệu chính mà thôi.
Chi phí cho sản phẩm dở dang cuối kỳ được tính theo công thức sau:
Chi phí sản phẩm Chi phí phát
Chi phí sản dở dang đầu kỳ + sinh trong kỳ Số lượng
phẩm dở dang = x sản phẩm dở
cuối kỳ Số lượng + Số lượng sản phẩm dang cuối kỳ
thành phẩm dở dang cuối kỳ
Phương pháp 2: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương.
Theo phương pháp này chi phí cho sản phẩm dở dang cuối kỳ gồm 2 phần:
Phần1 : Trị giá nguyên vật liệu chính( hay nguyên, vật liệu trực tiếp) nằm trong sản phẩm dở dang cuối kỳ. Trị giá vật liệu chính này tính theo số lượng sản phẩm dở dang không quy đổi như phương pháp 1
Phần 2: Chi phí chế biến được tính theo phương pháp ước lượng sản phẩm tương đương. Theo công thức sau:
Chi phí chế biến nằm trong sản phẩm dở dang (theo từng loại)
=
Chi phí chế biến trong + chi phí chế biến
sản phẩm dở dang đầu kỳ phát sinh trong kỳ
x
Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ quy đổi ra thành phẩm
Số lượng thành phẩm
+
Số lượng sản phẩm dở dang quy đổi ra thành phẩm
Giá trị vật liệu chính nằm trong sản phẩm dở dang
=
Số lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ
x
Toàn bộ giá trị vật liệu chính xuất dùng
____________________________
Số lượng thành phẩm
+
Số lượng thành phẩm dở dang
Phương pháp 3: Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến.
Để đơn giản cho việc tính toán đối với những loại sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí, kế toán thường sử dụng phương pháp này. Thực chất đây là một dạng của phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương, trong đó giả định sản phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức độ 50% so với thành phẩm.
Giá trị sản phẩm dở dang chưa hoàn thành
=
Giá trị NVL chính nằm trong sản phẩm dở dang
+
50% chi phí chế biến
1.3. Đối tượng tính giá thành và các phương pháp tính giá thành chủ yếu
1.3.1.Đối tượng tính giá thành.
Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành sản phẩm. Trong doanh nghiệp sản xuất đối tượng tính giá thành là kết quả sản xuất thu được từ những sản phẩm, công việc, lao vụ nhất định đã hoàn thành. Việc xác định đối tượng tính giá thành phải căn cứ vào đặc điểm cơ cấu tổ chức sản xuất, đặc điểm qui trình công nghệ, kĩ thuật sản xuất sản phẩm, đặc điểm tính chất của sản phẩm, yêu cầu về trình độ hạch toán và quản lí kinh tế của doanh nghiệp.
Qui trình công nghệ cũng ảnh hưởng nhất định đến việc xác định đối tượng tính giá thành. Nếu qui trình công nghệ sản xuất giản đơn thì sản phẩm hoàn thành ở cuối qui trình sản xuất chính là đối tượng tính giá thành. Nếu qui trình công nghệ phức tạp kiểu liên tục thì đối tượng tính giá thành là sản phẩm ở giai đoạn cuối cùng hoặc nửa thành phẩm đã hoàn thành ở từng giai đoạn. Nếu qui trình công nghệ phức tạp kiểu song song thì đối tượng tính giá thành là sản phẩm đã lắp ráp hoàn chỉnh và cả một số bộ phận,chi tiết của sản phẩm nữa.
Trên cơ sở đối tượng tính giá thành đã xác định được, phải căn cứ vào chu trình sản xuất sản phẩm, đặc điểm tổ chức sản xuất, tính chất sản phẩm mà xác định kì tính giá thành cho hợp lí nhằm cung cấp thông tin kịp thời phục vụ cho công tác tính giá thành.
1.3.2.Các phương pháp tính giá thành:
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là các cách thức, các phương pháp tính toán, xác định giá thành đơn vị của từng loại sản phẩm hoàn thành. Tuỳ theo đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm cũng như yếu cầu và trình độ của công tác quản lí, công tác kế toán của từng doanh nghiệp, từng loại sản phẩm cụ thể, kế toán có thể sử dụng một trong các phương pháp tính giá thành mang tính kỹ thuật- nghiệp vụ sau:
1.3.2.1.Phương pháp trực tiếp
Phương pháp này thường được sử dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc có rất ít.
Giá thành sản phẩm theo phương pháp này được tính bằng cách lấy trực tiếp tổng số chi phí sản xuất sản phẩm cộng trừ chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ so với cuối kỳ chia cho số lượng sản phẩm hoàn thành.
Giá thành công xưởng t.tế của số TPHT trong kỳ
=
Giá trị số SP DD đầu kỳ
+
CPSX trong kỳ
-
Giảm trừ CP
(nếu có)
-
Giá trị số SP DD cuối kỳ
Giá thành công xưởng thực tế của mộtđơn vị sản phẩm
=
Giá thành công xưởng t.tế của số TPHT trong kỳ
Số thành phẩm hoàn thành trong kỳ
1.3.2.2.Phương pháp tổng cộng chi phí
áp dụng đối với với các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc theo giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm được tính bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm.
Tổng giá thành thành phẩm = Z1 + Z2 + Z3 +....+ Zn.
Trong đó: Z1,Z2,Z3,Zn là giá thành của mỗi chi tiết, bộ phận trong thành phẩm đó.
1.3.2.3.Phương pháp hệ số
Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên vật liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập trung cho cả quá trình sản xuất. Theo phương pháp này trước hết kế toán cần căn cứ vào hệ số quy đổi các loại sản phẩm về sản phẩm gốc rồi từ đó dựa vào tổng số chi phí liên quan đến các loại sản phẩm đã tập hợp để tính giá thành sản phẩm gốc và giá thành sản phẩm từng loại.
i=1
n
Qgốc= ồ qi x Hi
Trong đó: Qgốc: Số sản phẩm gốc được quy đổi từ các loại sản phẩm trong nhóm.
qi: Số lượng sản phẩm loại i
Hi: Hệ số quy đổi của sản phẩm loại i về sản phẩm gốc.
ồ Z công xưởng của nhóm
=
Giá trị nhóm SP DD đầu kỳ
+
CPSX trong kỳ của nhóm
-
Giá trị nhóm SP
DD cuối kỳ
1.3.2.4.Phương pháp tỷ lệ
Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo.... để giảm bớt khối lượng hạch toán kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch( hoặc định mức) kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm cùng loại.
=
x
Giá thành thực tế Giá thành kế hoạch (hoặc định mức) Tỷ lệ
đơn vị sp từng loại đơn vị sản phẩm từng loại chi phí
=
x 100
Tỷ lệ Tổng giá thành thực tế của các loại sản phẩm
chi phí Tổng Z kế hoạch (định mức) của các loại sp
1.3.2.5.Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ
Đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu được còn có thể thu được những sản phẩm phụ. Để tính được giá trị sản phẩm chính kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ ra khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể được xác định theo nhiều phương pháp như giá có thể sử dụng được, giá ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu...
= + - -
1.3.2.6.Phương pháp liên hợp
Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp hoá chất , dệt kim, đóng giầy, may mặc... Trên thực tế kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí, tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ sản phẩm phụ...
1.3.3.Phương pháp tính giá thành sản phẩm trong một số loại hình doanh nghiệp chủ yếu.
Trên cơ sở các phương pháp chung để tính giá thành sản phẩm, kế toán cần lựa chọn và áp dụng vào từng loại hình doanh nghiệp cho phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất, đặc điểm quy trình công nghệ cũng như vào đối tượng hạch toán chi phí.
1.3.3.1. Phương pháp tính giá thành đối với doanh nghiệp sản xuất giản đơn.
Doanh nghiệp sản xuất giản đơn thường là những doanh nghiệp chỉ sản xuất một hoặc một số ít mặt hàng với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc có không đáng kể như các doanh nghiệp khai thác than, quặng. hải sản...; các doanh nghiệp sản xuất động lực như điện, nước, hơi nước, khí nén, khí đốt... Do số lượng mặt hàng ít nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất được tiến hành theo sản phẩm, mỗi mặt hàng sản xuất được mở một số ( hoặc thẻ ) hạch toán chi phí sản xuất. Công việc tính giá thành thường được tiến hành vào cuối tháng theo phương pháp trực tiếp hoặc phương pháp liên hợp.
1.3.3.2. Phương pháp giá thành đối với doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất theo các đơn đặt hàng của khách hàng, kế toán tiến hành tập hợp chi phí theo từng đơn. Đối tượng tính giá thành sản phẩm của từng đơn đặt hàng. phương pháp tính giá thành tuỳ theo đặc điểm, tính chất sản phẩm của từng đơn vị mà xác định phương pháp phù hợp.
Đặc điểm của việc tập hợp chi phí trong các doanh nghiệp này là toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh đề được tập hợp theo từng đơn đặt hàng, không kể số lượng sản phẩm của đơn đặt hàng đó nhiều hay ít, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm giản đơn hay phức tạp. Đối với các chi phí thị trường phát sinh trong kỳ liên quan đến đơn đặt hàng nào thì hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó theo các chứng từ gốc ( hay bảng phân bổ chi phí ). Đối với chi phí sản xuất chung, sau khi tập hợp xong sẽ phân bổ cho từng đơn theo tiêu chuẩn phù hợp như giờ công sản xuất, nhân công trực tiếp. Việc tính giá thành ở trong các doanh nghiệp này chỉ tiến hành khi đơn đặt hàng hoàn thành nên kỳ tính giá thành không nhất trí với kỳ báo cáo. Đối với những đơn đặt hàng đến kỳ báo cáo chưa hoàn thành thì toàn bộ chi phí tập hợp theo đơn đó đều coi là sản phẩm dở dang cuối kì chuyển kì sau. Với những đơn đặt hàng đã hoàn thành thì tổng chi phí đã tập hợp theo đơn đó chính là tổng giá thành sản phẩm của đơn và giá thành đơn vị sẽ được tính bằng cách lấy tổng giá thành sản phẩm của đơn chia cho số lượng sản phẩm trong đơn.
Tuy nhiên trong một số trường hợp cần thiết theo yêu cầu của công tác quản lí cần xác định khối lượng công việc hoàn thành trong kì thì đối với những đơn đặt hàng chỉ mới hoàn thành một phần việc xác định sản phẩm dở dang của đơn có thể dựa vào giá thành kế hoạch (hay định mức) hoặc theo mức độ hoàn thành của đơn.
1.3.3.3. Phương pháp tính giá thành đối với doanh nghiệp áp dụng hệ thống hạch toán định mức:
Trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự toán về chi phí sản xuất chung kế toán sẽ xác định giá thành định mức của từng loại sản phẩm. Đồng thời hạch toán riêng các thay đổi, các chênh lệch so với định mức phát sinh trong kì thành 3 loại: Theo định mức, chênh lệch do thay đổi định mức và chênh lệch so với định mức. Từ đó tiến hành xác định giá thành thực tế của sản phẩm bằng cách:
Giá thành thực tế sản phẩm
=
Giá thành định mức sản phẩm
±
Chênh lệch do thay đổi
±
Chênh lệch so với định mức
1.3.3.4. Phương pháp tính giá thành đối với doanh nghiệp có tổ chức bộ phậnsản xuất kinh doanh phụ:
Sản xuất phụ là ngành được tổ chức ra để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính. Sản phẩm, lao vụ của sản xuất kinh doanh phụ được sử dụng phục vụ cho các nhu cầu của sản xuất kinh doanh chính, phần còn lại có thể cung cấp cho bên ngoài.
Phương pháp tính giá thành sản phẩm của sản xuất kinh doanh phụ tuỳ thuộc vào đặc điểm công nghệ và mối quan hệ giữa các bộ phận sản xuất phụ trong doanh nghiệp, cụ thể:
Trường hợp không có sự phục vụ lẫn nhau giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh phụ hoặc giá trị và khối lượng phục vụ không đáng kể. Chi phí sản xuất sẽ được tập hợp riêng theo từng bộ phận, từng hoạt động sản xuất kinh doanh phụ. Giá thành sản phẩm của từng bộ phận sẽ được tính theo phương pháp trực tiếp.
Trường hợp có sự phục vụ lẫn nhau đáng kể giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh phụ. Với các doanh nghiệp có tổ chức nhiều bộ phận sản xuất phụ và giữa chúng có sự phục vụ lẫn nhau thì có thể áp dụng một trong các phương pháp khác tính giá thành sau đây:
Phương pháp đại số: Là phương pháp xây dựng và giải phương trình đại số để tính giá thành sản phẩm của sản xuất kinh doanh phụ phục vụ các đối tượng.
Phương pháp phân bổ lẫn nhau theo giá thành ban đầu: Theo phương pháp này, trước hết tính giá thành đơn vị ban đầu của từng bộ phận sản xuất kinh doanh phụ và xác định giá trị phục vụ lẫn nhau giữa chúng.
Phương pháp phân bổ lẫn nhau theo giá thành kế hoạch:
Trình tự tính giá thành tương tự như phương pháp trên, chỉ khác thay giá thành đơn vị ban đầu bằng giá thành đơn vị kế hoạch để tính giá trị phục vụ lãn nhau gữa các phân xưởng sản xuất kinh doanh phụ. Tiếp theo xác định giá trị phục vụ cho các đối tượng khác theo giá thành đơn vị mới. 1.3.2.5.Phương pháp tính giá thành đối với doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục:
Doanh nghiệp sản xuất phức tạp theo kiểu chế biến liên tục là doanh nghiệp có quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm bao gồm nhiều bước(giai đoạn) nối tiếp nhau theo một trình tự nhất định, mỗi bước tạo ra một loại bán thành phẩm và bán thành phẩm của bước trước là đối tượng (hay nguyên liệu ) chế biến của bước sau. Trong những doanh nghiệp này, phương pháp hạch toán chi phí thích hợp nhất là hạch toán theo bước chế biến (giai đoạn công nghệ). Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh thuộc giai đoạn nào sẽ được tập hợp cho giai đoạn đó. Riêng đối với chi phí sản xuất chung sau khi được tập hợp theo phân xưởng sẽ được phân bổ cho các bước theo tiêu thức phù hợp.
Tuỳ theo tính chất hàng hoá của bán thành phẩm và yêu cầu công tác quản lí, chi phí sản xuất có thể được tập hợp theo phương án có bán thành phẩm và phương án không có bán thành phẩm. Phương pháp tính giá thành thường là phương pháp trực tiếp kết hợp phương pháp tổng cộng chi phí hoặc hệ số( hoặc tỷ lệ).
Sơ đồ trình tự hạch toán CPSX và tính giá thành theo phương án phân bước có tính giá thành bán thành phẩm
CP nguyên vật liệu chính
CP chế biến bước 1
Giá trị SPDD bước 1
giá thành bán thành phẩm bước 1
Giá thành bán thành phẩm bước 2
Giá trị SPDD bước 2
CP chế biến bước 2
Giá thành bán thành phẩm bước 1
Giá thành bán thành phẩm bước (n-1)
CP chế biến bước n
Giá trị SPDD bước n
Tổng giá thành thành phẩm
+
-
=
=
-
+
-
=
+
....
Sơ đồ trình tự hạch toán CPSX và tính giá thành theo phương án phân bước không tính giá thành bán thành phẩm.
Chi phí vật liệu chính tính cho thành phẩm
Chi phí bước 1 tính cho thành phẩm
Chi phí bước 2 tính cho thành phẩm
Chi phí bước ... tính cho thành phẩm
Chi phí bước n tính cho thành phẩm
Tổng
giá thành
sản phẩm
1.4.Tổ chức hệ thống sổ hạch toán chi phí sản xuất trong một hình thức kế toán cụ thể
Để phù hợp với việc tìm hiểu thực tế hệ thống sổ hạch toán chi phí sản xuất tại công ty cổ phần khí công nghiệp tôi chọn hình thức kế toán nhật ký chứng từ để nghiên cứu. Hình thức này hệ thống sổ sách với nội dung kết cấu, quan hệ và phương pháp ghi sổ của phần hành hạch toán chi phí sản xuất bao gồm:
- Bảng phân bổ nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ
- Bảng phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội
- Bảng tính và phân bổ khấu hao tài sản cố định
- Các nhật ký chứng từ có liên quan (số 1, số 2, số 5, số 7)
- Các bảng kê (số 4, số 5, số 6).
- Sổ cái tài khoản (621, 622, 627; 154, 152; 153; 334; 338; 214).
- Thẻ tính giá thành sản phẩm
- Sổ chi phí sản xuất, kinh doanh.
1.5. Phân tích thông tín chi phí cho việc ra quyết định kinh doanh
Như đã nêu trên chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra đó liên quan đến hoạt động sản xuất trong một thời kỳ nhất định. Nên việc phân tích thông tin chi phí là rất cần thiết cho việc ra quyết định kinh doanh.
Muốn phân tích được thông tin đòi hỏi cần phải nắm được hệ thống chỉ tiêu phân tích và phương pháp xác định các nhân tố ảnh hưởng đến đối tượng phân tích.
1.5.1. Hệ thống chỉ tiêu phân tích
Chỉ tiêu kinh tế có nhiều loại khác nhau. Mục đích và nội dung phân tích ở đây là các khoản mục chi phí sản xuất gồm:
- Khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- Khoản mục chi phí nhân công trực tiếp
- Khoản mục chi phí sản xuất chung.
Nên ta lựa chọn những chỉ tiêu phân tích sau:
* Theo tính chất:
+ Lựa chọn chỉ tiêu chất lượng: Phản ánh hiệu suất sử dụng các yếu tố sản xuất như lao động tiền vốn, vật tư.
+ Lựa chọn chỉ tiêu số lượng: Phản ánh quy mô của kết quả hay điều kiện kinh doanh.
* Theo phương pháp tính toán:
+Lựa chọn chỉ tiêu tương đối: thường dùng trong phân tích các quan hệ kinh tế giữa bộ phận ( cơ cấu ) hay xu hướng phát triển của chỉ tiêu ( tỷ lệ )
+Lựa chọn chỉ tiêu tuyệt đối : Thường dùng để đánh giá quy mô sản xuất và kết quả kinh doanh tại thời gian và không gian cụ thể.
ở đây chỉ tiêu số lượng sản phẩm sản xuất và ba khoản mục chi phí: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung chịu ảnh hưởng của các nhân tố: Nguyên vật liệu, nhiên liệu động lực, tiền lương và các khoản phụ cấp, khấu hao tài sản cố định, chi phí dịch vụ mua ngoài, yếu tố chi phí bằng tiền khác
Muốn biết được ảnh hưởng của các nhân tố trên đến tổng chi phí sản xuất thì phải có phương pháp xác định các nhấn tố ảnh hưởng.
1.5.2. Phương pháp xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khoản chênh lệch các khoản mục chi phí
Phương pháp loại trừ: Loại trừ là phương pháp xác định và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả sản xuất bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác. Muốn vậy, có thể trực tiếp dựa vào mức biến động ở từng nhân tố hoặc phép thay thế lần lượt từng nhân tố. Cách thứ nhất gọi là “số chênh lệch “, còn cách thứ hai gọi là “ thay thế liên hoàn”
Công thức tính “ số chênh lệch “
ảnh hưởng của nhân tố số lượng
=
Chênh lệch của nhân tố số lượng
x
Trị số nhân tố chất lượng ở kỳ gốc
Df(x) = ( x1 - x0 ) y0
ảnh hưởng của nhân tố chất lượng
=
Chênh lệch của nhân tố chất lượng
x
Trị số nhân tố số lượng ở kỳ gốc
Df(y) = ( y1 - y0 ) x1
Tổng hợp ảnh hưởng các nhân tố nhờ phép cộng đại số:
Df(xy) = Df(x) + Df(y) +....
- Cách thứ hai: “ thay thế liên hoàn”
Có thể xác định ảnh hưởng của các nhân tố qua thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố để xác định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó, lấy kết quả trừ đi chỉ tiêu khi chưa có biến đổi của nhân tố nghiên cứu sẽ xác định được ảnh hưởng của nhân tố này.
Công thức: Nếu có f(x,y,z...) = x,y,z...
Thì f( x0, y0, z0) = x0, y0, z0... và
f(x) = f( x1 y0 z0) - f( x0 y0 z0) = x1 y0 z0- x0 y0 z0
f(y) = f( x1 y1 z1) - f( x1 y0 z0) = x1 y1 z0- x0 y0 z0
f(z) = f( x1 y1 z1) - f( x1 y1 z0) = x1 y1 z1- x1 y1 z0
1.5.3. Các biện pháp quản lí chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm
Nghiên cứu phương hướng tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm giúp cho công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện kế hoạch chi phí trong doanh nghiệp được tốt hơn. Căn cứ vào các nhân tố ảnh hưởng, doanh nghiệp cần áp dụng một số phương hướng chủ yếu sau đây:
Một là: Tận dụng đến mức cao nhất khả năng của TSCĐ. Trong doanh nghiệp sản xuất, TSCĐ là cơ sở vật chất kỹ thuật thể hiện năng lực và trình độ kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp. Bảo dưỡng và sử dụng tốt TSCĐ, trước hết khai thác hết công suất của những máy móc chủ yếu, có ý nghĩa quyết định đến việc tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí tăng thu nhập của doanh nghiệp. Khai thác hết khả năng của TSCĐ chính là phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều sâu của nó.
Hai là: Tăng năng suất lao động, tăng hiệu suất công tác, tiết kiệm quỹ lương giảm chi phí tiền lương trong một đơn vị sản phẩm hoặc đơn vị công tác.
Muốn vậy, doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến công tác tổ chức và quản lí lao động, chăm lo đời sống vật chất và văn hoá của người lao động, không ngừng nâng cao tay nghề, trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn, tôn trọng kỷ luật lao động. Khuyến khích người lao động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, thực hiện tốt chế độ tiền lương, tiền thưởng nhằm thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng hiệu suất công tác, tiết kiệm quỹ lương.
Cần chú ý rằng, chi phí tiền lương trong mỗi đơn vị sản phẩm hoặc công tác giảm xuống nhiều hay ít còn phụ thuộc vào mối quan hệ giữa tốc độ tăng năng suất lao động với tốc độ tăng tiền luơng bình quân. Bởi vậy khi xây dựng và quản lí quỹ lương cần quán triệt nguyên tắc: Tốc độ tăng năng suất lao động phải nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân.
Ba là: Tiết kiệm vật tư sử dụng. Vật tư sử dụng cho sản xuất bao gồm nhiều loại: vật liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế...Chi phí vật tư là chi phí cơ bản chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Tiết kiệm hao phí vật tư có ý nghĩa quan trọng đến việc tiết kiệm chi phí sản xuất trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tiết kiệm hợp lí vật tư trong tất cả các khâu: cung cấp, bảo quản, sử dụng vật tư.
Chi phí sản xuất là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phân đấu tiết kiệm chi phí là một việc làm cần thiết giúp hạ giá thành sản phẩm, cạnh tranh giá bán trên thị trường, từ đó tăng thu nhập của doanh nghiệp.
Thông qua chương 1 chúng ta hiểu được những vấn đề cơ bản về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất, về bản chất nội dung kinh tế, các cách phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Đồng thời xem xét mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cùng với vai trò nhiệm vụ của kế toán với việc quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Thêm vào đó chúng ta còn tìm hiểu về đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành; các phương pháp hạch toán chi phí và tính giá thành chủ yếu; hệ thống sổ hạch toán chi phí sản xuất; phân tích thông tin chi phí cho việc ra quyết định kinh doanh. đặc biệt là xem xét nghiên cứu các biện pháp quản lý chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm.
Từ những lý luận cơ bản đó ta có thể đi sâu tìm hiểu về thực tế tổ chức công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp ở chương 2 bằng cách vận dụng những lý thuyết đã trình bày nhằm soi sáng thực tiễn của đơn vị. Chương 2
thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần khí công nghiệp
2.1. Tình hình đặc điểm chung của công ty cổ phần khí công nghiệp.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần khí công nghiệp
Công ty cổ phần khí công nghiệp có trụ sở tại Đức Giang_ Long Biên_ Hà Nội, là đơn vị tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp nhân và chịu sự quản lí của thành phố Hà Nội. Tiền thân của công ty cổ phần khí công nghiệp là doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà Máy Dưỡng Khí Yên Viên, được thành lập vào năm 1960 thuộc Cục Khai Khoáng Hoá Chất, có nhiệm vụ cung cấp dưỡng khí cho các ngành công nghiệp, y tế, quốc phòng...
Ngày 15 tháng 3 năm 1995 công ty được đổi tên thành Công Ty Cổ Phần Khí Công Nghiệp theo quyết định số 210 QĐ/TCCBĐT của Bộ Công Nghiệp.
Tháng 4 năm 1999, đáp ứng yêu cầu của Đảng và Nhà Nước về cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, công ty chính thức trở thành Công Ty Cổ Phần Khí Công Nghiệp. Để hoàn thiện đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty, nhằm nâng cao trình độ tay nghề cũng như trình độ chuyên môn, hàng năm công ty thường mở các khoá đào tạo chuyên môn, tổ chức các cuộc thi giữa các bộ phận trong công ty đã góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới công ty. Vượt qua khỏi những lúng túng ban đầu khi bước vào cơ chế mới, công ty đã tìm cho mình một hướng đi đó là phát triển sản xuất kinh doanh theo hướng đa dạng hoá sản phẩm . Hiện nay công ty đã tiếp cận thị trường với hơn 10 loại sản phẩm bao gồm các sản phẩm về khí công nghiệp và các thiết bị áp lực, đáp ứng được nhu cầu của thị trường đồng thời bảo toàn và phát triển được đồng vốn của mình.
Sau nhiều năm áp dụng chế độ hạch toán kinh tế độc lập, lấy thu bù chi, đảm bảo có lãi và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà Nước, tình hình sản xuất kinh doanh của công ty được thể hiện qua các chỉ tiêu năm 2002, 2003, 2004 như sau(Biểu 1):
Chỉ tiêu
ĐVT
2002
2003
2004
Doanh thu thuần
Đồng
27.331.968.257
35.085.805.536
38.643.333.363
Nộp ngân sách
Đồng
507.667.424
654.267.738
1.037.562.103
Lợi nhuận
Đồng
1.339.585.288
2.462.725.823
3.163.620.825
Thu nhập bình quân
Đồng
1.250.000
1.500.000
1.730.000
Số lượng CNV
Người
225
220
218
Tình hình trên cho thấy kết quả sản xuất kinh doanh của công ty có chiều hướng phát triển.
Doanh thu năm sau cao hơn năm trước.Thực tế cho thấy Công ty ngày càng mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của cán bộ công nhân viên trong công ty.
2.1.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất của Công ty cổ phần khí công nghiệp
Đúng với tên gọi của mình, công ty sản xuất các loại khí công nghiệp, ngoài ra còn sản xuất các thiết bị áp lực. Vì vậy qui trình công nghệ sản xuất của công ty với những sản phẩm khác nhau là khác nhau, qui trình công nghệ sản xuất khí khác với sản xuất các thiết bị áp lực.
Với sản xuất khí công nghiệp có thể thấy đây là qui trình công nghệ sản xuất giản đơn chỉ sản xuất một số ít các loại khí với khối lượng lớn, chu kì sản xuất ngắn, không có sản phẩm dở dang .
Với sản xuất các thiết bị áp lực, đây là loại hình sản xuất theo kiểu chế tạo liên tục qua nhiều bước và có sản phẩm dở dang cuối kì. Với mỗi loại hình đòi hỏi kĩ thuật sản xuất riêng với những qui trình sản xuất khác nhau.
Có thể khái quát qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm của công ty như sau:
Sơ đồ : Qui trình sản xuất khí
Lọc khí
Giãn khí
Nén khí
Đầu vào (Khí)
Nạp thành phẩm
Phân ly khí
Từ sơ đồ trên ta thấy qui trình sản xuất các sản phẩm tại công ty là hoàn toàn khác nhau, chúng độc lập riêng biệt do đó chi phí tiêu hao ở từng qui trình là khác nhau. Và cho dù ở bất cứ qui trình sản xuất nào việc giảm chi phí cũng dẫn tới việc tăng kết quả và ngược lại. Do đó công ty luôn tìm biện pháp để giảm chi phí đến mức thấp nhất trong những điều kiện có thể
2.1.3. Đặc điểm tổ chức quản lí của công ty
Bộ máy quản lí của công ty được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, khép kín, thống nhất từ giám đốc tới các phòng ban, phân xưởng.
Bộ máy quản lí của công ty cổ phần khí công nghiệp được thể hiện qua sơ đồ sau:
Hội đồng quản trị
Ban giám đốc
Khối hành chính
Khối phân xưởng
Phòng TM
Phòng kinh tế
Phòng kĩ thuật
Phòng tổ chức hành chính
FX khí
FX thiết bị áp lực
FX cơ điện
Chức năng và nhiệm vụ của từng bộ phận được tóm tắt như sau:
Hội đồng quản trị gồm 5 người, một chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc công ty, một phó chủ tịch và 3 thành viên. Hội đồng quản trị là bộ phận phải chịu trách nhiệm cao nhất trong công ty về những sai phạm trong quản lí, vi phạm điều lệ, vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho công ty đồng thời phải chịu trách nhiệm trước tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty.
Ban giám đốc gồm 3 người trong đó có 1 giám đốc và 2 phó giám đốc là phó giám đốc kĩ thuật và phó giám đốc kinh doanh. Họ thay mặt hội đồng quản trị tổ chức quản lí điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong công ty thông qua việc giám sát các phòng ban, phân xưởng. Phó giám đốc là người giúp việc cho giám đốc có nhiệm vụ cố vấn, tham mưu cho giám đốc điều hành công việc sản xuất kinh doanh của công ty.
Phòng kinh tế bao gồm phòng kế toán và phòng kế hoạch
Phòng kế toán có 5 người, có chức năng tổ chức, theo dõi tình hình tài chính của công ty. Bảo đảm hạch toán đúng đắn, theo dõi sát sao sự vận động tiền_ hàng của công ty. Ngoài ra còn làm nhiệm vụ thanh toán lương, thưởng, chi trả cổ tức cho công nhân viên và các cổ đông, giúp người lao động ổn định cuộc sống, yên tâm công tác.
Phòng kế hoạch gồm 9 người do trưởng phòng phụ trách có nhiệm vụ vạch ra các kế hoạch sản xuất và các vấn đề có liên quan đến chất lượng sản phẩm.
Phòng thương mại do phó giám đốc kinh doanh kiêm trưởng phòng điều hành, có trách nhiệm theo dõi việc tiêu thụ sản phẩm, gồm tổ vận chuyển và bộ phận bán hàng. Tổ lái xe có nhiệm vụ chuyên chở hàng hoá theo yêu cầu của khách hàng. Bộ phận bán hàng ghi chép, theo dõi việc tiêu thụ sản phẩm. Bộ phận này tập hợp hoá đơn bán hàng, cuối ngày giao cho phòng kế toán để ghi sổ.
Phòng kĩ thuật do phó giám đốc kĩ thuật kiêm trưởng phòng kĩ thuật trực tiếp quản lí. Phòng kĩ thuật thường xuyên nghiên cứu cải tiến kĩ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn lao động
Phòng tổ chức hành chính phụ trách các công việc tuyển chọn lao động, giải quyết các chế độ lao động, phụ trách chung về hành chính và một số công việc có liên quan khác. Phòng này bao gồm tổ bảo vệ có nhiệm vụ bảo đảm an toàn cho công ty, nhà ăn chuyên phục vụ ăn ca cho cán bộ công nhân viên trong toàn công ty.
Khối phân xưởng được chia làm 3 phân xưởng: 2 phân xưởng sản xuất chính là phân xưởng sản xuất khí công nghiệp, phân xưởng sản xuất các thiết bị áp lực và phân xưởng cơ điện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ riêng theo đúng tên gọi của mình.
Ngoài ra công ty còn có tổ bốc vác, lao công, văn thư hoạt động theo đúng chức năng nằm trong tên gọi. Việc phân cấp quản lí từ trên xuống đã tạo điều kiện cho các bộ phận hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp giúp cho các phân xưởng sản xuất hoạt động liên tục, không bị gián đoạn, đạt hiệu quả cao, phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty.
Một bộ máy quan trọng cung cấp mọi thông tin về tình hình tài chính của công ty phải kể đến là bộ máy kế toán
2.1.4. Tổ chức bộ máy kế toán của công ty
Lựa chọn được một hình thức tổ chức công tác kế toán phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức bộ máy quản lí của công ty đóng một vai trò quan trọng. Do đặc điểm tổ chức sản xuất và quản lý gọn nhẹ nên Công ty đã chọn mô hình tổ chức bộ máy kế toán tập trung. Theo hình thức này công ty chỉ bố trí một phòng kế toán, mọi công việc về kế toán của công ty đều được thực hiện tại đây từ khâu thu nhận thông tin, xử lí thông tin cho đến tổng hợp thông tin trên báo cáo tài chính. Hình thức này giúp cho việc theo dõi tình hình tài chính của công ty chính xác nhờ thông tin kế toán được cung cấp một cách nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên mô hình này đòi hỏi đội ngũ cán bộ kế toán phải có trình độ nghiệp vụ, có kinh nghiệm và lòng nhiệt tình.
Sơ đồ : Mô hình tổ chức bộ máy kế toán của công ty
Kế toán trưởng
Thủ quỹ kiêm thống kê
Kế toán vốn bằng tiền và thanh toán công nợ, kế toán lương, BHXH
Kế toán TSCĐ, vật tư, thành phẩm hàng hoá
Kế toán bán hàng
Kế toán t.h CF, tính giá thành kiêm tổng hợp
Nhiệm vụ, chức năng của từng cán bộ trong bộ máy kế toán của công ty được tổ chức như sau:
Kế toán trưởng kiêm kế toán tổng hợp là người chịu trách nhiệm tổng hợp ghi chép các số liệu, thực hiện các nghiệp vụ hạch toán cuối cùng, xác định kết quả kinh doanh của công ty để vào sổ kế toán tổng hợp, đồng thời phân tích các kết quả kinh doanh đạt được giúp giám đốc lựa chọn phương án kinh doanh và đầu tư có hiệu quả cao. Là người đôn đốc, kiểm tra việc hạch toán của các kế toán viên, giám sát tình hình sử dụng vốn và nội dung hạch toán toàn công ty.
Kế toán TSCĐ và vật tư, theo dõi sự vận động tăng, giảm của vật tư, TSCĐ của công ty, hàng ngày lấy phiếu nhập kho, xuất kho tại kho đối chiếu với thủ kho để ghi sổ, đồng thời hàng tháng trích khấu hao TSCĐ, báo nợ toàn bộ số vật tư xuất cho các phân xưởng sản xuất trong tháng rồi chuyển số liệu cho kế toán chi phí và tính giá thành để lên tài khoản 621 vào cuối tháng.
Kế toán tiền lương, BHXH làm nhiệm vụ chấm lương và bảo hiểm đồng thời tiến hành phát lương cho cán bộ công nhân viên. Cuối tháng chuyển số liệu cho kế toán chi phí và tính giá thành để lên tài khoản 622.
Kế toán vốn bằng tiền và thanh toán công nợ kiêm kế toán bán hàng, thực hiện việc ghi chép theo dõi tình hình bán hàng và thanh toán các khoản nợ của công ty đồng thời quản lí sự vận động của khối lượng tiền, lập phiếu thu, phiếu chi tiền mặt gửi cho kế toán tổng hợp để xác định hiệu quả kinh doanh.
Kế toán chi phí và tính giá thành lấy số liệu từ các phân xưởng, cùng với kế toán TSCĐ và vật tư đối chiếu thẻ kho để tập hợp chi phí sản xuất phục vụ cho công tác tính giá thành.
Thủ quĩ là người quản lí quĩ tiền mặt của công ty, thu, chi tiền mặt theo chứng từ, cuối ngày lập báo cáo quĩ.
Việc bố trí, sắp xếp nhân sự ở phòng kế toán như vậy đã tạo cho bộ máy kế toán của công ty hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp.
Để phù hợp với đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của công ty, hiện nay công ty sử dụng hình thức ghi sổ kế toán là hình thức nhật kí chứng từ. Hình thức này đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa kế toán chi tiết và kế toán tổng hợp để đảm bảo cung cấp thông tin nhanh, chính xác. Hình thức, kết cấu sổ cũng như hệ thống kế toán mà công ty sử dụng nói chung đều theo đúng qui định của Bộ Tài chính. Hiện nay công ty hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên, nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ.
Trình tự ghi sổ kế toán của công ty được thể hiện bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ: Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức nhật kí chứng từ
Chứng từ gốc
Bảng phân bổ
Nhật kí chứng từ
Sổ chi tiết
Bảng tổng hợp chi phí
Sổ cái
Bảng kê
Báo cáo tài chính
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
2.2.Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần Khí công nghiệp.
Như đã trình bày ở trên, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty rất đa dạng, phong phú. Do đối tượng phục vụ gồm nhiều ngành khác nhau( y tế, quốc phòng, công nghiệp...) nên khối lượng sản xuất không phải là nhỏ. Trong phạm vi báo cáo này tôi chỉ xin đề cập đến việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của một loại sản phẩm đặc trưng tiêu biểu của công ty về thiết bị áp lực đó là sản phẩm nồi hơi. Đây là một loại sản phẩm cơ khí, chiếm tỉ lệ cao trong toàn bộ hợp đồng sản xuất thiết bị áp lực của công ty. Mặt khác việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm này có tính đại diện cho nhiều loại sản phẩm khác mà hiện tại công ty đang sản xuất như bình khí nén, bình phân tích ...
2.2.1. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất tại công ty cổ phần khí công nghiệp.
2.2.1.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên và đặc biệt quan trọng trong toàn bộ công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phải căn cứ vào đặc điểm qui trình công nghệ sản xuất, loại hình sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lí tổ chức sản xuất, kinh doanh của công ty. Từ đặc điểm qui trình công nghệ của mình, để đáp ứng yêu cầu công tác quản lí, công tác hạch toán công ty tập hợp chi phí sản xuất cho từng sản phẩm nên đối tượng tập hợp chi phí sản xuất ở đây là tập hợp theo từng loại sản phẩm riêng biệt. Thích ứng với đối tượng đó, công ty áp dụng hình thức ghi sổ là hình thức nhật kí chứng từ kết hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. Chi phí sản xuất được tập hợp theo các khoản mục sau:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
- Chi phí nhân công trực tiếp
- Chi phí sản xuất chung: gồm khấu hao TSCĐ, chi phí nhân viên phân xưởng và các chi phí chung khác trong phạm vi phân xưởng.
2.2.1.2. Nội dung và trình tự hạch toán .
Hiện nay toàn bộ công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của công ty được tiến hành theo các quy định chung của hình thức sổ nhật ký chứng từ kết hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho là phương pháp kê khai thường xuyên. Chi phí sản xuất của Công ty được tập hợp theo các khoản mục sau :
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
+ Chi phí nhân công trực tiếp
+ Chi phí sản xuất chung gồm: khấu hao tài sản cố định, chi phí nhân viên gián tiếp và các chi phí chung khác trong phạm vi phân xưởng. Trình tự hạch toán cụ thể như sau :
2.2.1.2.1. Kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nguyên vật liệu chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất kinh doanh nhất định, nó bao gồm nhiều loại khác nhau và được chia thành ba loại chủ yếu: nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, và nhiên liệu.
Để tổ chức hạch toán nguyên vật liệu kế toán sử dụng TK 152, 153: Nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ và các TK có liên quan như TK 621, 627, 641, 642. Việc hạch toán chi tiết nguyên vật liệu công cụ dụng cụ tại Công ty được tiến hành theo phương pháp thẻ song song và có trình tự hạch toán như sau:
Phiếu nhập kho
Thẻ kho
Phiếu xuất kho
Thẻ chi tiết
vật liệu
Bảng tổng hợp
Nhập-xuất- tồn
vật liệu
Kế toán
tổng hợp
Ghi từng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
Ghi chú:
Khi có nhu cầu về nhập vật tư, bộ phận cung ứng vật tư tham khảo giá thị trường rồi lập báo giá và đưa lên giám đốc và kế toán trưởng duyệt sau đó mua nguyên vật liệu về nhập kho, tại công ty vật liệu nhập kho được phản ánh theo giá thực tế. Giá của vật liệu xuất trong kì được tính theo phương pháp bình quân gia quyền, nghĩa là căn cứ vào giá thực tế vật liệu tồn đầu kì và nhập trong kì, kế toán xác định giá bình quân một đơn vị vật liệu. Căn cứ vào lượng vật liệu xuất trong kì và giá đơn vị bình quân để xác định giá thực tế của vật liệu xuất trong kì.
=
= x
Xét một nghiệp vụ: Từ phiếu xuất kho nguyên vật liệu và công cụ dụng cụ cho sản xuất, kế toán phải tính giá xuất kho cho nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ này.
Theo công thức trên ta có giá một số loại vật tư tháng 12 năm 2004 như sau:
Thép CT3 8ly: 6900đ/ kg
Que hàn CT3 2,6 ly:10.900đ/ kg
Thép CT3 2ly: 3619đ/kg
Que hàn CT3 3,2 ly:9000đ/ kg
Đá cắt: 7500đ/ viên
Đá mài: 7000đ/ viên
Sơn: 15000đ/ kg
Van Dy 20: 234.840đ/ kg
phiếu xuất kho
Ngày 3 tháng 12 năm 2004
Số:102
Họ và tên người nhận hàng: Chị Vân - phân xưởng thiết bị áp lực Nợ:
Lý do xuất kho: sản xuất nồi hơi Có:
Xuất tại kho:
( Biểu 2)
STT
Mặt hàng
ĐVT
Số yêu cầu
Thực xuất
Đơn giá
Thành tiền
1
Thép CT3 8 ly
kg
500
500
6900
3.450.000
2
Que hàn CT3 3,2 ly
kg
25
25
9000
225.000
3
Đá mài
viên
45
45
7000
315.000
4
Đá cắt
viên
40
40
7500
300.000
Cộng
4.290.000
Viết bằng chữ: Bốn triệu hai trăm chín mươi nghìn đồng chẵn.
Thủ trưởng đơn vị Người nhận Thủ kho Kế toán trưởng
(Kí tên) (Kí tên) (Kí tên) (Kí tên)
Cuối tháng, căn cứ vào phiếu xuất kho xuất cho các phân xưởng để sản xuất mỗi loại sản phẩm kế toán vật tư giá trị nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ xuất kho trong tháng của từng phân xưởng được thể hiện trên " Bảng phân bổ nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ "(Biểu số3).Cuối tháng kế toán chuyển lên cho kế toán giá thành để tập hợp vào các tài khoản có liên quan.
Bảng phân bổ nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ
Tháng 12 năm 2004
(Phân xưởng TBAL)
( Biểu 3)
STT
Ghi có TK
Đối tượng
sử dụng (Ghi Nợ TK)
TK 152
TK 153
1.
TK 621 " CFNVLTT"
186.711.600
PX khí
1.152.000
PX TBAL
Nồi hơi
Bình áp lực
185.559.600
51.666.000
133.893.600
2.
TK 627 "CF vật liệu phân xưởng "
32.242.621
7.852.183
PX khí
30.117.225
7.505.069
PX TBAL
Nồi hơi
Bình áp lực
2.125.396
140.276
1.985.120
347.114
22.910
324.204
3.
TK 641" CF vật liệu bán hàng"
180.004
14.459.952
4.
TK 642" CF vật liệu quản lí "
203.418
509.418
Cộng
219.337.643
21.821.553
Trên cơ sở bảng tổng hợp TK 152, kế toán vào nhật ký chung và sổ cái TK 621, 152:
Nợ TK 621: 186.711.600
(PX khí: 1.152.000
PX TBAL: 185.559.600)
Có TK 152 : 186.711.600
Cuối kỳ kết chuyển Chi phí NVLTT vào TK 154 để tính giá thành sản phẩm. Kế toán ghi sổ nhật ký chung và sổ cái TK 154, 621
Nợ TK 154: 186.711.600
Có TK 621: 186.711.600
Cụ thể đối với SP nồi hơi:
Nợ TK 154: 51.666.000
Có TK 621( Nồi hơi): 51.666.000
2.2.1.2.2. Kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp.
Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp trong các doanh nghiệp sản xuất là một công việc phức tạp trong việc tập hợp chi phí sản xuất, bởi vì cách trả thù lao cho người lao động thường không thống nhất, có thể trả theo thời gian làm việc, có thể trả theo sản phẩm sản xuất ra kết hợp với chế độ phụ cấp, tiền thưởng...
Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp có vị trí quan trọng, là cơ sở để xác định giá thành sản phẩm đồng thời nó còn là căn cứ để xác định các khoản nộp ngân sách (nếu có).
Tuỳ theo đặc điểm hoạt động sản xuất, tính chất công việc và trình độ quản lí mà việc tính trả lương theo các hình thức khác nhau. Hiện nay công ty cổ phần khí công nghiệp áp dụng hình thức trả lương theo thời gian cho cả bộ phận trực tiếp sản xuất và bộ phận gián tiếp. Chứng từ sử dụng để hạch toán lao động theo hình thức này là "Bảng chấm công". Bảng này được lập riêng cho từng phòng ban, phân xưởng .. trong đó ghi rõ ngày làm việc, nghỉ việc của từng người lao động do trưởng phòng, quản đốc phân xưởng trực tiếp theo dõi, để nơi công khai cho các thành viên theo dõi, giám sát thời gian lao động của mình.
Hình thức trả lương theo thời gian được công ty cổ phần khí công nghiệp áp dụng cho người lao động theo thời gian làm việc, theo ngành nghề và trình độ thành thạo kĩ thuật chuyên môn của người lao động. Tuỳ theo ngành nghề cụ thể mà có thang lương riêng. Trong mỗi thang lương lại tuỳ theo trình độ kĩ thuật chuyên môn mà chia làm các bậc lương khác nhau với những mức lương nhất định. Hình thức trả lương theo thời gian: Ngoài tiền lương chính trả theo sản phẩm, công nhân sản xuất còn được hưởng các khoản lương phụ trong thời gian nghỉ phép, nghỉ lễ, hội họp…
Kế toán căn cứ vào số ngày công và cấp bậc lương để tính ra số tiền lương phải trả
Tiền lương phải trả trong tháng
=
Mức lương 1 ngày
x
Số ngày được hưởng lương thời gian
Mức lương ngày
=
Mức lương tháng theo cấp bậc
Số ngày làm việc trong tháng theo chế độ
Lương công nhân hưởng theo cấp bậc
=
Mức lương tối thiểu
x
Hệ số lương theo cấp bậc
Lao động trực tiếp tại công ty được hưởng lương theo số ngày lao động và được xác định như sau:
Bảng phân bổ lương và BHXH
Tháng 12 năm 2004 ( Biểu 4)
Stt
Ghi Có TK
Ghi Nợ TK
TK 334
TK 338- Phải trả, phải nộp khác
Tổng cộng
KPCĐ
BHXH
Cộng Có TK 338
1.
TK
622"CPNCTT"
PX khí
PX áp lực
Nồi hơi
Bình áp lực
94.684.998
74.701.178
19.983.820
12.490.052
7.493.768
3.397.600
3.397.600
11.538.750
11.538.750
14.936.350
14.936.350
109.621.348
2.
TK 627"CPSXC"
PX khí
PX áp lực
Nồi hơi
Bình áp lực
32.025.099
27.665.231
4.359.868
2.160.544
2.199.324
32.025.099
3.
TK 641"CPBH"
4.739.760
4.739.760
4.
TK 642"CPQL"
38.430.119
38.430.119
Cộng
169.879.976
3.397.600
11.538.750
14.936.350
184.816.326
Ngày..5. tháng..1. năm 2005
Người lập bảng Kế toán trưởng
Để hạch toán chi phí nhân công trực tiếp Công ty sử dụng TK 622: Chi phí nhân công trực tiếp.
Dựa vào bản phân bổ tiền lương và bảo hiểm xã hội kế toán định khoản như sau:
Nợ TK 622( Nồi hơi): 7.493.768
Có TK 334 : 7.493.768
Cuối kỳ kế toán kết chuyển vào TK 154 để tính giá thành sản phẩm
Nợ TK 154 : 7.493.768
Có TK 622 ( Nồi hơi): 7.493.768
2.2.1.2.3. Kế toán tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng . Tại công ty cổ phần khí công nghiệp, chi phí sản xuất chung bao gồm các khoản:
Chi phí nhân viên phân xưởng cho quản đốc, phó quản đốc, lao công... bao gồm tiền lương, phụ cấp, các khoản BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỉ lệ với tiền lương phát sinh... chi phí này được phân bổ cho các sản phẩm theo tỉ lệ nhất định.
Chi phí vật liệu xuất dùng để phục vụ ở phân xưởng như giấy bút, văn phòng phẩm...
Chi phí về dụng cụ sản xuất dùng để phục vụ ở phân xưởng như xà phòng, khẩu trang, găng tay, khăn mặt... được tập hợp trên cơ sở các phiếu xuất kho vật liệu và công cụ dụng cụ phục vụ sản xuất tại phân xưởng .
Chi phí dịch vụ mua ngoài bao gồm những chi phí như chi phí điện, thuê ngoài sửa chữa máy móc... được tập hợp dựa vào hoá đơn tiền điện, các hoá đơn thuê ngoài sửa chữa được phân bổ cho từng sản phẩm .
Chi phí nhân viên phân xưởng được tập hợp và phân bổ như đã trình bày ở phần chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí bằng tiền khác như chi phí hội nghị phân xưởng vào cuối tháng, chi phí cho nhân viên bảo vệ trông xe... tập hợp trên cơ sở các phiếu chi, ví dụ như hàng tháng công ty thường tổ chức cho các phân xưởng hội nghị tổng kết thi đua khen thưởng và được công ty trích cho khoản tiền nhất định. chi phí này được tập hợp thông qua các phiếu chi như sau:
phiếu chi
Ngày 15 tháng 12 năm 2004
Nợ :... Có:...
Họ tên: Trần Thị Ngọ- FX khí
Lí do chi: Hội nghị phân xưởng
Số tiền: 500.000đ
Viết bằng chữ: Năm trăm nghìn đồng chẵn.
Kế toán trưởng Người lập phiếu Thủ quĩ Ngưòi nhận tiền Căn cứ vào phiếu chi, kế toán vốn bằng tiền vào sổ quỹ và phản ánh lên nhật ký chứng từ số 1
Định khoản:
Nợ TK627"Nồi hơi": 500.000đ
Có TK 111: 500.000đ
Số liệu trên được phản ánh vào nhật ký chứng từ số 1 sau
Nhật ký chứng từ số 1
Ghi có TK 111 tiền mặt
Tháng 12 năm 2004
( Trích nhật ký chứng từ số 1 )
( Đơn vị : Đồng ) ( Biểu 5)
Stt
Ngày
Ghi có TK 111, ghi nợ các TKhoản
Công có TK 111
112
131
...
...
...
627
(nồi hơi)
15/12/04
500.000
500.000
:.
Cộng
..
...
...
.
500.000
500.000
Chi phí khấu hao TSCĐ: phản ánh số khấu hao TSCĐ của các phân xưởng như máy móc, thiết bị, kho tàng... TSCĐ của công ty cổ phần khí công nghiệp tại các phân xưởng rất đa dạng gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng có giá trị lớn. Trong quá trình sử dụng các TSCĐ này bị hao mòn dần, phần giá trị hao mòn này được chuyển dần vào giá trị sản phẩm làm ra dưới hình thức trích khấu hao. Để theo dõi tình hình hiện có và biến động TSCĐ, kế toán công ty sử dụng tài khoản 214- hao mòn TSCĐ. Chi phí khấu hao TSCĐ được hạch toán trực tiếp vào bên Nợ tài khoản 627và được theo dõi trên sổ theo dõi chi tiết TSCĐ.( Biểu số6)
Phương pháp trích khấu hao được sử dụng ở công ty cổ phần khí công nghiệp là phương pháp bình quân.
Mức khấu hao phải trích tháng này
=
Mức khấu hao đã trích tháng trước
+
Mức khấu hao tăng trong tháng
-
Mức khấu hao giảm trong tháng
Mức
khấu hao một năm =
Mức
khấu hao một tháng =
* Ví dụ: Kế toán tiến hành trích khấu hao cuốn tôn Trung Quốc.
Nguyên giá: 250.000.000đ
Số năm sử dụng: 10 năm.
Mức khấu hao TSCĐ một năm = = 25.000.000
Mức khấu hao tháng : = 2.083.333đ
Số khấu hao đã trích. Số liệu trên được lấy từ "Bảng tính và phân bổ khấu haoTSCĐ"(biểu số 6).
Bảng phân bổ số 3
Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ.
Tháng 12 /2004.
( trích bảng phân bổ KHTSCĐ ) ( đ.vị : đồng )
( Biểu 6)
Số TT
Chỉ tiêu
Năm SD
Toàn DN\Nơi sở dụng
TK627 - chi phí sản xuất chung
TK
641
TK
642
TK...
Nguyên giá
Khấu hao năm
FX khí
FX nồi hơi
1.
......
Trích khấu hao tháng này
TSCĐ và các đối tượng sử dụng
Máy cuốn tôn TQ
10
250.000.000
25.000.000
2.038.333
Cộng
250.000.000
25.000.000
2.083.333
...
...
..
Định khoản. Nợ TK 627 ( nồi hơi ): 2.083.33
Có TK 214 : 2.083.333
Bảng phân bổ số 3 sẽ được kế toán giá thành lấy làm căn cứ để tập hợp và phân bổ chi phí khấu hao cho từng sản phẩm khi tính giá thành.
Cuối tháng kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung vào TK 154 để tính giá thành. Kế toán ghi sổ nhật ký chung và sổ cái TK 154, 627.
Nợ TK 154: 4.907.063
Có TK 627( nồi hơi): 4.907.063
2.2.1.2.4. Tổng hợp chi phí sản xuất và đánh giá sản phẩm dở dang
ở các phần trên đã nghiên cứu hạch toán và phân bổ các loại chi phí sản xuất sản phẩm. Các chi phí này cuối cùng đều được tổng hợp vào bên nợ TK 621, 622, 627 để phục vụ cho việc tính toán doanh nghiệp.
Cuối tháng sau khi các kế toán chi tiết chuyển nhật ký của từng phần hành cho kế toán giá thành. Kế toán giá thành không mở sổ chi tiết theo dõi mà chỉ căn cứ vào bảng phân bổ số 1,2,3.
Các bảng số 6, các nhật ký chứng từ số 1,2,5 để vào sổ cái, từ sổ cái mới tổng hợp toàn bộ chi phí sản xuất theo từng tháng. Theo số liệu của công ty tháng 12 năm 2004 tổng chi phí sản xuất : 424.828.230đ để sản xuất các sản phẩm: Nồi hơi, khí, van.
Khái quát sơ đồ hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty cổ phần khí công nghiệp.
NKCT 1,2,5
Sổ cái
Báo cáo TC
Bảng kê 6
Bảng phân bổ số 1,2,3
Báo
Cáo NVL
Sổ chi tiết
Phiếu xuất kho - Phiếu nhập kho
và các chứng từ gốc liên quan.
cáo
* Kiểm kê đánh giá sản phẩm dở dang
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế tạo, còn đang nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm hàng tháng công ty phải tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang.
Tại công ty cổ phần khí công nghiệp, do tính chất sản phẩm của công ty là các mặt hàng cơ khí nên chi phí về nguyên vật liệu chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số chi phí sản xuất. Mặt khác, chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp bỏ một lần ngay từ đầu quá trình sản xuất. Xuất phát từ đặc điểm đó công ty áp dụng phương pháp xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, tức là giá trị sản phẩm dở dang sẽ được xác định như sau:
DdNVLTT + CNVLTT
SHT + SLD
x
SLD
Dc =
Trong đó:
Dc là giá trị sản phẩm dở dang cuối kì.
Dd là giá trị sản phẩm dở dang đầu kì.
Cnvltt là chi chí nguyên vật liệu trực tiếp phát sinh trong kì.
SHT là số lượng sản phẩm hoàn thành trong kì.
SLD là số lượng sản phẩm dở dang.
Phần giá trị sản phẩm dở dang được theo dõi trên "báo cáo sản xuất" vào cuối tháng.( Xem biểu 7)
Báo cáo sản xuất
Tháng12 năm 2004
PX: TBAL
SP: Nồi hơi. SL: 63. Qui cách sản phẩm: 1m3. (Biểu 7)
STT
Diễn giải
ĐVT
Số lượng sản xuất
Số lượng
Đơn giá
Thành tiền
1
Thép CT3 8 ly
kg
5650
6900
38.985.000
2
Que hàn CT3 3,2 ly
kg
250
9.000
2.250.000
3
Sơn các loại
kg
477
15.000
7.155.000
4
Gioăng
cái
252
4.000
1.008.000
5
Lò xo
cái
252
9.000
2.268.000
6
Cộng
51.666.000
7
Tồn tháng 1
5
4.562.000
8
Hoàn thành tháng 2
51
45.376.000
9
Tồn chuyển tháng 3
12
10.852.000
Ngày 29 tháng 12 năm 2004
Kế toán giá thành Quản đốc phân xưởng
2. 2.2.Tổ chức công tác tính giá thành tại công ty cổ phần khí công nghiệp.
2.2.2.1. Đối tượng tính giá thành .
Như đã trình bày ở phần lí luận, xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành. Kế toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp, của loại sản phẩm và qui trình công nghệ vào loại hình sản xuất để xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp. Xuất phát từ thực tế trên nên đối tượng tính giá thành của công ty được xác định là sản phẩm cuối cùng. Đối tượng tính giá thành này hoàn toàn phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định ở phần trước.
2.2.2.2. Kì tính giá thành và phương pháp tính giá thành .
Kì tính giá thành là thời kì kế toán giá thành cần tiến hành công việc tính giá thành cho từng đối tượng tính giá thành. Xác định kì tính giá thành thích hợp giúp cho việc tính giá thành được khoa học, hợp lí, đảm bảo cung cấp số liệu giá thành thực tế được kịp thời, phát huy đầy đủ chức năng giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của công ty. Xuất phát từ thực tế và đặc điểm tổ chức sản xuất cũng như chu kì sản xuất sản phẩm, công ty cổ phần khí công nghiệp đã xác định kì tính giá thành là hàng tháng, tức là mỗi tháng kế toán tiến hành tính giá thành sản phẩm một lần.
Như đã trình bày trong phần sơ đồ qui trình công nghệ sản xuất nồi hơi. Để phù hợp với qui trình công nghệ, cũng như đáp ứng yêu cầu quản lí chi phí sản xuất, quản lí giá thành và phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí là sản phẩm riêng nên công ty sử dụng phương pháp tính giá thành là phương pháp giản đơn (phương pháp trực tiếp ).
Theo phương pháp này giá thành sản phẩm được tính bằng cách trực tiếp lấy tổng số chi phí sản xuất tập hợp được chia cho số lượng sản phẩm hoàn thành sau khi đã cộng trừ chênh lệch giá trị sản phẩm dở dang đầu kì và cuối kì.
Giá thành sản phẩm (Z) =
Trong đó: C là chi phí sản xuất phát sinh trong kì.
Dđk, Dck là giá trị sản phẩm dở dang đầu kì và cuối
S là số lượng sản phẩm hoàn thành.
2.2.2.3. Trình tự tính giá thành
Cuối tháng, căn cứ vào các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung đã được tập h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K2849.Doc