Một số vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay

Tài liệu Một số vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 278-280 278 MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY Nguyễn Thị Quê - Nguyễn Thị Toan Trường Đại học Sư phạm Kĩ thuật Hưng Yên Ngày nhận bài: 05/12/2018; ngày sửa chữa: 18/12/2018; ngày duyệt đăng: 20/01/2019. Abstract: The article mentions on: 1) Conflict between tradition and modernity, inherritance and innovation in traditional ethical education for Vietnamese students today; 2) Conflict between the higher and higher requirements for educating traditional moral values for Vietnamese students with shortcomings in the education of moral values today; 3) Conflict in preserving traditional moral values with negative impacts from the reverse side of globalization. Research results can be used in teaching students. Keywords: Conflict, tradition, modern, education, traditional ethical value. 1. Mở đầu Mâu thuẫn giữa ...

pdf3 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 624 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 278-280 278 MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CHO SINH VIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY Nguyễn Thị Quê - Nguyễn Thị Toan Trường Đại học Sư phạm Kĩ thuật Hưng Yên Ngày nhận bài: 05/12/2018; ngày sửa chữa: 18/12/2018; ngày duyệt đăng: 20/01/2019. Abstract: The article mentions on: 1) Conflict between tradition and modernity, inherritance and innovation in traditional ethical education for Vietnamese students today; 2) Conflict between the higher and higher requirements for educating traditional moral values for Vietnamese students with shortcomings in the education of moral values today; 3) Conflict in preserving traditional moral values with negative impacts from the reverse side of globalization. Research results can be used in teaching students. Keywords: Conflict, tradition, modern, education, traditional ethical value. 1. Mở đầu Mâu thuẫn giữa “truyền thống” với “hiện đại” phát sinh một khi “truyền thống” xa rời, không gắn với “hiện đại” đưa đến sự bảo thủ; ngược lại, nếu “hiện đại” không đưa ra một nội dung có ý nghĩa cho cuộc sống thực tiễn, làm nghèo nội dung nhân bản của con người thời “hiện đại” sẽ bị đào thải và loại bỏ ra ngoài tính liên tục, không thể trở nên “truyền thống” cho tương lai. Vì vậy, bài viết tập trung nghiên cứu về: - Mâu thuẫn giữa truyền thống với hiện đại, kế thừa và đổi mới trong giáo dục giá trị đạo đức (GTĐĐ) truyền thống cho sinh viên (SV) Việt Nam hiện nay; - Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao đối với việc giáo dục GTĐĐ truyền thống cho SV Việt Nam với những bất cập trong công tác giáo dục GTĐĐ truyền thống hiện nay; - Mâu thuẫn trong việc giữ gìn GTĐĐ truyền thống với những tác động tiêu cực từ mặt trái của quá trình toàn cầu hóa. Bài viết nghiên cứu về một số vấn đề đặt ra trong công tác giáo dục GTĐĐ truyền thống cho SV Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Mâu thuẫn giữa truyền thống với hiện đại, kế thừa với đổi mới trong giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay Toàn cầu hoá đã làm thay đổi nhiều giá trị đã từng được xem là chuẩn mực trong đời sống cộng đồng. Nhiều người không ý thức được rằng, các GTĐĐ văn hoá truyền thống của mỗi dân tộc đều có sức sống riêng, tạo nên bản sắc, tính đa dạng và sự khác biệt của chính dân tộc ấy; vì vậy, nhiều người đã tiếp thu các tư tưởng văn hoá ngoại bang một cách ồ ạt, không có chọn lọc “gạn đục, khơi trong”. Hậu quả dẫn đến dễ quên lãng truyền thống, mất phương hướng, lối sống gấp gáp, không tình nghĩa, không còn lí tưởng... Điều đó trái với truyền thống văn hoá dân tộc. Thực tế cuộc sống đặt ra cho công tác giáo dục GTĐĐ truyền thống cho SV hiện nay là ngoài yêu cầu trang bị kiến thức chuyên ngành đủ sức giải quyết mọi vấn đề trong lĩnh vực của mình, cũng cần phải giáo dục những GTĐĐ truyền thống để giúp SV có đủ bản lĩnh vượt qua mọi thử thách để không trở thành “bóng mờ”, “sao chép” của người khác. Một trong những nội dung quan trọng của công tác giáo dục GTĐĐ là kết hợp việc giáo dục các GTĐĐ truyền thống với yếu tố hiện đại một cách biện chứng, hợp lí; qua đó, xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bởi lẽ, đạo đức như một cơ thể sống, luôn diễn ra sự vận động biến đổi do hai yếu tố nội sinh và ngoại sinh; trong đó, yếu tố nội sinh là chủ yếu, còn yếu tố ngoại sinh là quan trọng. Nếu một nền giáo dục bị khép kín, không giao lưu với bên ngoài giống như không có sự trao đổi chất thì sớm hay muộn sẽ trở thành nền giáo dục lụi tàn và cuối cùng “biến” khỏi nền giáo dục nhân loại. Nhiệm vụ của những người làm công tác giáo dục là kế thừa và phát huy các GTĐĐ truyền thống dân tộc; đồng thời tiếp thu và kết hợp với những giá trị hiện đại của thời đại (cả của trong nước và từ nước ngoài). Điều đó giúp chúng ta vừa bảo tồn và phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc, vừa làm chúng phong phú và lớn mạnh hơn nhờ sức mạnh ngoại sinh; đào tạo nên một lớp người mới có đủ khả năng và bản lĩnh thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Hoạt động văn hoá chính là hoạt động của con người. Thông qua giáo dục mà văn hoá và các quy tắc, chuẩn mực đạo đức được cá nhân nhận thức đầy đủ, góp phần điều chỉnh hành vi của con người phù hợp với chuẩn mực VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 278-280 279 đạo đức xã hội. Do đó, cần phải làm cho môi trường văn hóa trong sạch và lành mạnh, bởi hiệu quả giáo dục văn hoá liên quan trực tiếp đến môi trường văn hoá. Ngoài ra, các yếu tố như: điều kiện KT-XH, cách thức tổ chức giáo dục, mức độ tự giác của chủ thể... cũng là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả giáo dục. Vì một khi chủ thể tự nhận thức, tự đánh giá đúng mục đích, yêu cầu, nội dung của quá trình giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân và cộng đồng có được những hành vi ứng xử có đạo đức và văn hoá đúng đắn. Có thể hiểu, giáo dục là động lực, con đường cơ bản nhất cho sự hình thành, phát triển nhân cách, phát triển năng lực sáng tạo của SV; là cầu nối chuyển tải tri thức cho tuổi trẻ bước vào các nền văn minh của nhân loại. Vì vậy, chăm lo giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ là vấn đề trung tâm của sự phát triển nhân văn, nhằm gia tăng tốc độ phát triển đất nước. Giáo dục GTĐĐ, văn hoá truyền thống cho SV trong bối cảnh toàn cầu hoá là giúp họ “định vị” mình trong không gian văn hoá cộng đồng, đặt họ vào môi trường văn hoá lành mạnh; từ đó có sự định hướng, giáo dục đúng cho sự phát triển, hoàn thiện nhân cách bản thân. Nhận thức rõ điều này, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây dựng và phát huy nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tại Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Đảng ta đã khẳng định: “Trong thời kì mới, kế thừa, bảo tồn một cách có chọn lọc các giá trị truyền thống là tất yếu; đồng thời phải tập trung xây dựng những giá trị mới, những thành tựu mới đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. Kế thừa và phát huy trong văn hoá luôn gắn chặt với quá trình mở cửa, hội nhập, tiếp nhận các giá trị của thế giới đương đại, để làm giàu các giá trị dân tộc, nâng cao trình độ phát triển của văn hoá Việt Nam lên tầm cao mới” [1; tr 57]. Tinh thần đó một lần nữa tiếp tục được Đại hội lần thứ XI khẳng định: “Giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hoá, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ” [2; tr 223]; đồng thời phải “mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá” [2; tr 226]. 2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam với những bất cập trong công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống hiện nay Giáo dục GTĐĐ truyền thống cho SV trong bối cảnh toàn cầu hoá đòi hỏi phải toàn diện. Sẽ là sai lầm khi nghĩ rằng: chỉ cần trang bị kiến thức chuyên môn, thao tác kĩ thuật, nghiệp vụ mà không chú trọng giáo dục nhân cách cho SV. Giáo dục GTĐĐ truyền thống cho SV không phải chỉ là vấn đề đơn giản mà riêng nhà trường có thể tiến hành được, lại càng không phải “nhất thành bất biến”. Đạo đức của con người không “tự nhiên sẵn có” mà phải được rèn luyện có hệ thống, có quá trình; trong đó, điều kiện chủ yếu phải thông qua lao động, nếu không dựa trên lao động thì không thể phân biệt rạch ròi các tiêu chuẩn cái đẹp, cái xấu; nhờ đó mà tư tưởng con người ngày càng thêm phong phú. Có lao động thì con người mới có cơ sở để xác định những giá trị hay phản giá trị nhất trong đạo đức và văn hoá. Trong bối cảnh công tác giáo dục GTĐĐ truyền thống cho SV còn nhiều bất cập hiện nay, mặc dù chúng ta vẫn nói giáo dục GTĐĐ là quan trọng; tuy nhiên, môn học này vẫn chưa phải là môn học bắt buộc; giáo trình “chuẩn” lại không có; đội ngũ giáo viên không được đào tạo cơ bản, nên SV còn tồn tại ý nghĩ thờ ơ, xem nhẹ. Những bất cập, yếu kém này đã và đang là lực cản lớn đối với công tác giáo dục GTĐĐ truyền thống cho SV Việt Nam hiện nay. 2.3. Mâu thuẫn trong việc giữ gìn giá trị đạo đức truyền thống với những tác động tiêu cực từ mặt trái của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và kinh tế tri thức, toàn cầu hoá đã trở thành xu thế khách quan, có tác động mạnh mẽ không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà còn ở các lĩnh vực chính trị, xã hội, văn hoá giáo dục. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Cụ thể: 2.3.1. Toàn cầu hoá tạo ra sự bất công và phân hoá giàu nghèo ở các nước phát triển và đang phát triển Do xuất phát điểm của các nước khác nhau, các nước giàu, phát triển chiếm ưu thế mạnh về vốn và công nghệ khiến các nước nghèo không có khả năng cạnh tranh bởi công nghệ lạc hậu và hàng hoá, dịch vụ không đa dạng, phong phú. Đây là một “sân chơi” không công bằng do sự định sẵn của kẻ mạnh dành cho kẻ yếu và vô hình chung làm cho các nước nghèo lại càng nghèo thêm. Chính vì thế, nhiều nước châu Phi, khu vực Mĩ Latinh, thậm chí cả những nước châu Âu phản ứng quyết liệt và đòi tẩy chay toàn cầu hoá. Trong lĩnh vực kinh tế: P.G. Petrat, một nhà báo, nhà kinh tế học Mêhicô đã thông tin: “... trong 500 xí nghiệp lớn nhất thế giới, có 224 của Mĩ, 46 của Nhật Bản, 23 của Đức. Nếu tính cả châu Âu con số cũng chỉ là 138” [3; tr 48]. Vì vậy, với những nước kém và đang phát triển thì nguy cơ lệ thuộc về kinh tế, văn hoá, chính trị rất dễ xảy ra. 2.3.2. Các giá trị văn hoá tinh thần, đạo đức truyền thống có nguy cơ bị biến dạng và xu hướng hình thành lối sống thực dụng, vị kỉ, lai căng gia tăng Hội nhập quốc tế là một nhu cầu khách quan, đòi hỏi tất cả các quốc gia phải “mở cửa”, giao lưu với cộng đồng thế giới để đón nhận và tiếp thu những giá trị mới, tiến bộ của nhân loại. Việt Nam cũng không nằm ngoài thông lệ VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 278-280 280 này. Xét trên góc độ bản sắc văn hoá, đã xuất hiện những dấu hiệu đáng lo ngại, sự du nhập ồ ạt của những ấn phẩm độc hại, các quan niệm sai trái, lối sống vị kỉ, lai căng... đã đầu độc không ít nhận thức và thẩm mĩ trong thế hệ trẻ và gây nên những “biến thái” về nhân cách, lối sống. Nó chứa đựng nguy cơ phá vỡ hoặc làm băng hoại những giá trị văn hoá đạo đức truyền thống đã được tích tụ và tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc. Chuẩn mực để đánh giá về cái đẹp trong tư tưởng, đạo đức, lối sống, trong đời sống văn hoá xã hội nói chung, SV nói riêng không tránh khỏi những “nhiễu loạn”, thậm chí có sự xuất hiện những xu hướng tiêu cực đi ngược lại các GTĐĐ truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương Nguyễn Khoa Điềm đã từng nói: “Nếu không xác định bản sắc văn hoá của dân tộc và không tổ chức tốt quản lí quá trình văn hoá hiện đại thì bất cứ sự hội nhập văn hoá nào cũng mang sẵn nguy cơ của bản giao ước với quỷ Mê-phi-xtô” [4; tr 76]. Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hoá còn làm “nghèo nàn hoá” ngôn ngữ, bởi một khi dân tộc bị đồng hoá vào văn hoá quốc gia và lớn hơn là văn hoá toàn cầu thì ngôn ngữ bản địa sẽ dần biến mất và thay vào đó là ngôn ngữ chung của cộng đồng. Ngôn ngữ là cái thể hiện bản sắc của dân tộc, ngôn ngữ mất đi thì những thông tin quý giá về dân tộc cũng sẽ bị biến mất. Theo các nhà ngôn ngữ học, từ xưa đến nay có khoảng 30.000 ngôn ngữ bị biến mất. Tại Australia có 250 ngôn ngữ (cuối thế kỉ XVIII) nay chỉ còn lại 20 ngôn ngữ; hàng năm, trên thế giới có 10 ngôn ngữ bị tiêu vong cùng với nền văn hoá dân tộc. Ngôn ngữ mất đi thì giá trị truyền thống dân tộc cũng sẽ “cáo chung” theo. Như vậy, trong tương lai, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc đã, đang và sẽ còn trở thành vấn đề nan giải đối với các quốc gia, dân tộc chậm phát triển, trong đó có chúng ta. 2.3.3. Khuynh hướng coi nhẹ các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Một hệ quả khác mà toàn cầu hoá mang lại là thị trường hàng hoá với số lượng lớn, giá rẻ và đa dạng về chủng loại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho mọi tầng lớp trong xã hội và làm thay đổi tâm lí, nhân cách sống của không ít người, đặc biệt là giới trẻ. Tâm lí coi trọng các giá trị vật chất, xem nhẹ các giá trị tinh thần dẫn đến việc hình thành lối sống hưởng thụ, thực dụng, xa hoa, lãng phí. Lối sống chạy theo những giá trị vật chất dẫn đến nảy sinh tâm lí hướng ngoại, sính ngoại...; từ đó, hình thành một bộ phận thanh, thiếu niên có lối sống buông thả, bạo lực, tình dục... xa lạ, trái ngược với những giá trị nhân văn của dân tộc, xa rời bản sắc văn hoá dân tộc. Một thực tế đáng lo ngại nữa là xu hướng chạy theo đồng tiền, vì tiền mà làm nhiều việc phạm pháp, buôn gian bán lận, coi nhẹ cuộc sống gia đình. Thực tế gần đây cho thấy, tình trạng tội phạm hình sự ở nước ta vừa qua gia tăng đến mức nghiêm trọng cả về số lượng và tính chất nguy hại so với trước đó, như: khủng bố cá nhân, bắt cóc trẻ em, tống tiền, buôn bán phụ nữ, môi giới mại dâm... và đặc biệt là phụ nữ phạm tội ở lứa tuổi vị thành niên có chiều hướng gia tăng. Đó chính là những vấn đề đã và đang đòi hỏi những người làm giáo dục phải quan tâm. 3. Kết luận Việc kế thừa và phát huy những GTĐĐ truyền thống trong giai đoạn hiện nay đang là bài toán chưa có lời giải chính thức cho những người làm giáo dục. Đây thực sự là một bài toán khó đòi hỏi toàn xã hội phải chung tay, có sự phối hợp chặt chẽ giữa “Gia đình - Nhà trường - Xã hội” với mục tiêu cao cả là khôi phục lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc. Tất cả những yếu tố trên đang là trở ngại rất lớn cho việc giáo dục GTĐĐ truyền thống cho SV. Đó là những mâu thuẫn giữa lí luận và thực tiễn; giữa trang sách với cuộc đời; giữa mục tiêu, định hướng giáo dục của Đảng, Nhà nước với những bất cập mà thực tế đặt ra đối với công tác giáo dục GTĐĐ truyền thống cho SV Việt Nam hiện nay. Tài liệu tham khảo [1] Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004). Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [2] Đảng cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [3] Hồ Sỹ Vịnh (2008). Giao lưu văn hóa thời hội nhập. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [4] Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên, 2002). Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [5] Đảng cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [6] Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2002). Văn hóa với thanh niên - Thanh niên với văn hóa - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [7] Phạm Ngọc Trung (2010). Văn hóa thời đại toàn cầu. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [8] Thành Duy (2002). Vai trò văn hóa đạo đức trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường Việt Nam. Tạp chí Triết học, số tháng 8, tr 25-29. [9] Thái Duy Tuyên (2007). Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới. NXB Giáo dục.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf59nguyen_thi_que_nguyen_thi_toan_6373_2148429.pdf
Tài liệu liên quan