Một số tiến bộ kỹ thuật nổi bật thích ứng với biến đổi khí hậu phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp cho vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên

Tài liệu Một số tiến bộ kỹ thuật nổi bật thích ứng với biến đổi khí hậu phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp cho vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên: Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 61 MỘT SỐ TIẾN BỘ KỸ THUẬT NỔI BẬT THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU PHỤC VỤ TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP CHO VÙNG ĐÔNG NAM BỘ VÀ TÂY NGUYÊN Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Là hai vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất nước, Tây Nguyên và Đông Nam bộ có điều kiện tự nhiên khá tương đồng về đất đai, khí hậu và vì vậy cũng tương đồng về các loại cây trồng chính. Các cây trồng có giá trị kinh tế cao của hai vùng này có thể kể đến là: cà phê, hồ tiêu, ca cao, điều, bơ v.v. Đây là những cây trồng đã góp phần lớn trong việc tạo ra nông sản và đem lại nguồn kim ngạch xuất khẩu đáng kể cho Việt Nam. Ba loại cây trồng có đóng góp lớn nhất là: cà phê, hồ tiêu, điều. Theo số liệu thống kê, tính đến hết năm 2015, diện tích cà phê của cả hai vùng là khoảng 645 ngàn ha, chiếm 98% diện tích cả nước với kim ngạch xuất khẩu là 2,6...

pdf4 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số tiến bộ kỹ thuật nổi bật thích ứng với biến đổi khí hậu phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp cho vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 61 MỘT SỐ TIẾN BỘ KỸ THUẬT NỔI BẬT THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU PHỤC VỤ TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP CHO VÙNG ĐÔNG NAM BỘ VÀ TÂY NGUYÊN Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Là hai vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn nhất nước, Tây Nguyên và Đông Nam bộ có điều kiện tự nhiên khá tương đồng về đất đai, khí hậu và vì vậy cũng tương đồng về các loại cây trồng chính. Các cây trồng có giá trị kinh tế cao của hai vùng này có thể kể đến là: cà phê, hồ tiêu, ca cao, điều, bơ v.v. Đây là những cây trồng đã góp phần lớn trong việc tạo ra nông sản và đem lại nguồn kim ngạch xuất khẩu đáng kể cho Việt Nam. Ba loại cây trồng có đóng góp lớn nhất là: cà phê, hồ tiêu, điều. Theo số liệu thống kê, tính đến hết năm 2015, diện tích cà phê của cả hai vùng là khoảng 645 ngàn ha, chiếm 98% diện tích cả nước với kim ngạch xuất khẩu là 2,6 tỷ USD, hồ tiêu là 332 ngàn ha, chiếm hơn 96% với kim ngạch xuất khẩu khoảng 1,2 tỷ USD, điều là 277 ngàn ha, chiếm gần 95% với kim ngạch xuất khẩu khoảng 2,3 tỷ USD (Cục Trồng trọt và Trung tâm Tin học và Thống kê - Bộ NN và PTNT, 2016). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp ở Tây Nguyên phải đối diện nhiều vấn đề như giá cả bấp bênh, giá nhân công và vật tư đầu vào tăng, đặc biệt là những các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như hạn hán, điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Trong thực tế, việc phân bố lượng mưa không đều, tổng lượng mưa năm sụt giảm, các điều kiện khí hậu khắc nghiệt gia tăng trong mùa khô đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp bền vững ở Tây Nguyên, đặc biệt là đối với cây cà phê. Ảnh hưởng rõ nét nhất là hiện tượng mùa mưa kết thúc sớm làm cho cây cà phê phân hóa mầm hoa sớm, kết hợp với các cơn mưa muộn làm cho cây cà phê nở hoa sớm và không tập trung ảnh hưởng đến năng suất và kéo dài mùa khô. Thêm vào đó, tình hình hạn hán, thiếu nước tưới cho cà phê trong mùa khô ngày càng trở nên nghiêm trọng. Mùa khô niên vụ cà phê 2016-2017, theo thống kê sơ bộ, diện tích cà phê ở Tây Nguyên không có nước tưới lên đến 100.000 ha, nghiêm trọng nhất là ở Đăk Lăk và Gia Lai với gần 40% diện tích cà phê bị ảnh hưởng bởi thiếu nước tưới (VICOFA, 2016). Đối với hồ tiêu, tuy mức ảnh hưởng được đánh giá là ít nghiêm trọng hơn do đặc điểm mùa vụ khác so với cà phê nhưng hạn hán kéo dài và thiếu nước tưới cũng gây nên việc sụt giảm năng suất vườn cây. Ngoài ra, việc tập trung mưa quá nhiều trong một giai đoạn ngắn cũng là nguyên nhân chính cho việc phát sinh các dịch bệnh nguy hiểm như chết nhanh, chết chậm ở hồ tiêu. Đối với cây điều và cây cà phê, việc gia tăng nhiệt độ cực đoan trong mùa khô cũng làm ảnh hưởng lớn đến khả năng thụ phấn, thụ tinh và đậu quả. Để ứng phó với các tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là việc thiếu nước tưới trong mùa khô nhằm phát triển nông nghiệp bền vững hơn cho vùng Tây Nguyên và Đông Nam bộ, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam đã thực hiện nhiều nhiệm vụ KHCN trong đó tập trung vào các hướng giải pháp về giống, tưới nước tiết kiệm và canh tác tổng hợp. II. TIẾN BỘ KỸ THUẬT NỔI BẬT THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU PHỤC VỤ TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP CHO VÙNG TÂY NGUYÊN VÀ ĐÔNG NAM BỘ 2.1. Tiến bộ kỹ thuật nổi bật 2.1.1. Các giống cây trồng mới Ngoài các yêu cầu về năng suất cao, nghiên cứu các giải pháp về giống chín muộn cho cà phê, giống có khả năng chịu hạn, sâu bệnh cho cà phê và hồ tiêu, các giống có tính thích ứng rộng và chín sớm cho điều được xác định là những giải pháp có tính chiến lược và triệt để nhất để ứng phó với biến đối khí hậu và tái cơ cấu ngành nông nghiệp. VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 62 Đối với cây cà phê, thông qua đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu chọn tạo giống cà phê vối chất lượng cao cho Tây Nguyên” đã chọn tạo được hai giống cà phê TR14 và TR15 với các đặc điểm vượt trội: năng suất trung bình của các dòng từ 5 - 5,5 tấn nhân/ha, cao hơn có ý nghĩa so với dòng đối chứng TR6; khối lượng 100 nhân: 18,6 - 23,0 g; tỷ lệ hạt trên sàng 16 (loại 1 theo TCVN) đạt 92,6 - 97,4%. Đặc biệt đây là hai giống kháng cao với bệnh gỉ sắt và chín muộn vào thời điểm gần giữa mùa khô nên ít bị ảnh hưởng của các đợt mưa muộn. Qua nghiên cứu cho thấy các giống chín muộn này tưới muộn hơn so với giống đại trà 25 ngày và chu kỳ tưới kéo dài 35 ngày vẫn không ảnh hưởng đến sự ra hoa, đậu quả, năng suất và chất lượng quả hạt. Cây hồ tiêu cũng được Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên nghiên cứu qua các đề tài hợp tác với các đơn vị và địa phương, đặc biệt là các đề tài, dự án cấp tỉnh ở Gia Lai và Đăk Nông. Từ kết quả nghiên cứu, WASI đã xác định và khuyến cáo sử dụng các giống tiêu có khả năng cho năng suất cao, chất lượng khá tốt, ít mẫn cảm với sâu bệnh hại như Vĩnh Linh, Phú Quốc, Lộc Ninh, v.v. Đây có thể xem là các bước đầu tiên, cần thiết để đáp ứng tính cấp thiết trong sản xuất hồ tiêu. Đối với cây điều, việc chọn tạo giống được thực hiện bởi Viện Khoa học Kỹ thuạt Nông nghiệp miền Nam. Giống điều PN1 với đặc điểm thích nghi rộng cho các tỉnh Đông Nam bộ và Tây Nguyên đã được công nhận tạm thời và đang được Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây điều - Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam và Hiệp hội Điều Việt Nam trình Bộ Nông nghiệp và PTNT để công nhận chính thức. Ngoài ra, hai giống AB29 và AB05-08 đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận là giống sản xuất thử cho vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên. Đây là những giống thích ứng rộng với điều kiện sinh thái vùng và rất có triển vọng: năng suất hạt bình quân 2 - 3 tấn/ha, cá biệt đạt 5 tấn/ha, tỷ lệ nhân 28-33%, kích cỡ hạt từ 140-170 hạt/kg. Giống điều PN1 phát chồi trung bình, ít phân chồi nách, thích hợp cho phương pháp ghép chồi. Khả năng chống chịu các đối tượng dịch hại chính như bọ xít muỗi và bệnh thán thư ở mức độ trung bình. 2.1.2. Kỹ thuật tưới tiết kiệm nước Ngoài việc thử nghiệm và điều chỉnh các công nghệ tưới nước tiết kiệm của nước ngoài, việc phát triển công nghệ tưới tiết kiệm “phun mưa cục bộ” của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên với việc sử dụng các nguyên vật liệu trong nước nhằm giảm giá thành và phù hợp hơn với điều kiện và tập quán sản xuất của Việt Nam đã được chứng minh là rất hiệu quả. Công nghệ phun mưa cục bộ cũng được Viện Khoa học Thủy Lợi và Tổng cục Thủy lợi công nhận như một trong những phương thức tưới tiết kiệm cho cây trồng cạn ở Việt Nam. Đối với cây cà phê, kỹ thuật tưới nước tiết kiệm và bón phân qua nước được nghiên cứu từ năm 2009 tại Đăk Lăk và Gia lai, kỹ thuật tưới phun mưa tại gốc của Viện cho thấy có nhiều ưu điểm so với phương thức tưới nước và bón phân truyền thống: giảm lượng nước tưới đến 40%, tăng hiệu quả sử dụng phân bón đến 20-30%, giảm công lao động tưới nước và bón phân đến 90%. Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên cũng đã nghiên cứu và bước đầu chuyển giao công nghệ tưới nước tiết kiệm kết hợp với bón phân qua nước cho nông dân trồng hồ tiêu ở Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Đối với cây điều, mặc dù là cây thích ứng với điệu kiện khô hạn nhưng để ứng phó với điều kiện khí hậu khặc nghiệt gần đây do biến đổi khí hậu, trong khuôn khổ của chương trình khuyến nông quốc gia, các diện tích điều được áp dụng các phương thức tưới nước tiết kiệm “phun mưa cục bộ” đã cho thấy có những tác động tốt đến sinh trưởng phát triển của vườn cây, tỷ lệ ra hoa đậu quả được cải thiện hơn 10-20%, đặc biệt giúp cây chống chịu tốt trong giai đoạn cuối mùa khô. 2.1.3. Quản lý cây trồng tổng hợp (ICM) và thực hành nông nghiệp tốt (GAP) Biện pháp quản lý cây trồng tổng hợp áp dụng cho cây cà phê là kết quả của một số đề tài: “Nghiên cứu sản xuất cây cà phê theo hướng GAP ở tỉnh Bình Phước” (đề tài cấp tỉnh), “Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật tổng hợp tiết kiệm chi phí đầu vào đối với cây cà phê ở Tây Nguyên” (đề tài cấp Bộ), và “Nghiên cứu hoàn thiện quy trình quản lý cây trồng tổng Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 63 hợp (ICM) áp dụng cho cây cà phê” (đề tài cấp Nhà nước) do Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên thực hiện. Đã xác định tổng hợp 03 thành phần chính trong ICM/GAP là: quản lý dinh dưỡng tổng hợp, quản lý tưới nước tổng hợp và quản lý dịch hại tổng hợp với việc áp dụng đúng các kỹ thuật canh tác tốt, ưu tiên các giải pháp sinh học cải tạo đất và phòng trừ sâu bệnh hại, xác định lượng phân bón thông qua phân tích đất, tưới nước tiết kiệm và bón phân qua nước, chú trọng các biện pháp bảo vệ đất và bảo về nguồn nước. Từ những nghiên cứu trên cây hồ tiêu, Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên đã đề xuất được quy trình sản xuất hồ tiêu theo hướng GAP. Trong đó bao gồm các khuyến cáo áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật canh tác như trồng tiêu trên cây choái sống hoặc tạo độ che bóng thích hợp trong vườn tiêu, vệ sinh đồng ruộng tốt, tủ gốc mùa khô, tưới tiêu hợp lý, quản lý dinh dưỡng tổng hợp tốt (bằng phân hữu cơ, phân khoáng, phun phân qua lá), quản lý sâu bệnh tốt (bằng sử dụng nấm đối kháng Tricô-VTN, phát hiện bệnh sớm và xử lý thuốc hóa học kịp thời). Trên cây điều, việc áp dụng đồng bộ các biện pháp tỉa cành, tạo tán, bón phân cân đối cho điều và đặc biệt là kỹ thuật tránh hạn làm cho cây điều nở hoa sớm đã được phát triển và đưa vào các mô hình thâm canh tổng hợp tại các tỉnh: Bình phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận và Bình Định và cho thấy hiệu quả rất tốt. 2.2. Địa bàn, quy mô đã áp dụng TBKT - Các giống cà phê chín muộn, điều đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận tạm thời để đưa ra sản xuất thử cho vùng Tây Nguyên và Đông Nam bộ. - Các nghiên cứu về giống tiêu là tiền đề để Bộ NN và PTNT phê duyệt đề tài “Nghiên cứu về giống và biện pháp kỹ thuật tổng hợp phát triển hồ tiêu bền vững” thực hiện cho giai đoạn 2016-2020. - Các kết quả về tưới nước tiết kiệm đã được phổ biến rộng ra sản xuất ở Tây Nguyên và Đông Nam bộ áp dụng cho cây cà phê, tiêu và cả điều với quy mô hơn 50ha/loại cây trồng. - Các gói giải pháp quản lý cây trồng tổng hợp trên cây cà phê và cây hồ tiêu đã được đưa vào các chương trình/dự án khuyến nông trung ương để áp dụng trên quy mô lớn giúp làm tăng hiệu quả sản xuất. Hiện nay, Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên đã xây dựng được 139 ha cà phê áp dụng các kỹ thuật tổng hợp và xây dựng các vườn cà phê đạt chứng chỉ bền vững tại 4 tỉnh Tây Nguyên là Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và Gia Lai. Các biện pháp kỹ thuật GAP cho hồ tiêu cũng được sử dụng rộng rãi tại các tỉnh trọng điểm về hồ tiêu như: Đăk Lăk, Gia Lai, Đăk Nông, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu. 2.3. Giá trị kinh tế, xã hội và môi trường của TBKT Các giống mới được chọn tạo ngoài khả năng thích ứng và giảm thiểu các tác động bất lợi của biến đổi khí hậu chúng vẫn đảm bảo các tiêu chí chọn lọc cơ bản khác là năng suất cao và chất lượng sản phẩm tốt, vì vậy nông dân dễ chấp nhận. Đối với kỹ thuật tưới nước tiết kiệm cho cây cà phê, ngoài hiệu quả về môi trường như tiết kiệm nước tưới được tối thiểu 20%, tiết kiệm phân bón 20%, hạn chế ô nhiễm môi trường do thất thoát phân bón. Các kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy các mô hình sử dụng kỹ thuật tưới nước tiết kiệm và bón phân qua nước có hiệu quả kinh tế hơn khoảng 16 triệu đồng so với đối chứng. Ngoài ra, Viện còn hỗ trợ Tổng cục Thủy lợi tổng kết các kết quả nghiên cứu thực nghiệm nhằm đưa ra khuyến cáo tưới tiết kiệm nước cho các kỹ thuật tưới khác như tưới nước nhỏ giọt hay tưới dí gốc. Ở cây hồ tiêu, ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm kết hợp với bón phân qua hệ thống tưới sẽ giúp sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên nước do giảm được lượng nước tưới; làm tăng hệ số sử dụng phân bón, giúp tiết kiệm được lượng phân bón khoảng từ 30 - 40%; góp phần bảo vệ môi trường, tăng hiệu quả sản xuất cho người trồng tiêu và hạn chế sự phát triển của sâu bệnh. Quy trình của Viện cũng được Tổng cục Thủy lợi tham khảo để đề xuất quy trình chính thức phục vụ sản xuất hồ tiêu. Ở các mô hình ICM cà phê, ngoài việc cải thiện về các chỉ tiêu sinh trưởng cũng như VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 64 sâu bệnh hại, năng suất ở các mô hình chỉ tăng nhẹ, trung bình khoảng 10%, tuy nhiên hiệu quả kinh tế tăng ở mức khoảng 25%. Đặc biệt, ở các mô hình ICM, lượng nước sử dụng để tưới có thể giảm 10-30% so với sản xuất đại trà do việc áp dụng các phương pháp xác định thời điểm tưới theo độ ẩm đất; giúp việc chia sẻ tài nguyên nước cho các đối tượng cây trồng khác cần nước trong mùa khô. Ngoài ra việc trồng xen các loại cây ăn quả có giá trị cao trong vườn cà phê cũng góp phần làm tăng tính bền vững về cả kinh tế và môi trường cho hệ thống canh tác. Các mô hình ICM trên cây hồ tiêu ở 3 huyện Chư Sê, Chư Prông và Đăk Đoa đã hạn chế được sự phát triển của bệnh vàng lá chết chậm và bệnh héo chết nhanh trên cây tiêu, đồng thời giảm tổng chi phí đầu tư so với tập quán canh tác của chủ vườn khoảng 16 đến 25 tr. đồng/ha và tăng hiệu quả kinh tế so với đối chứng theo kinh nghiệm nông dân là 27,5 đến 46 tr. đồng/ha/năm. Đối với cây điều, từ các hoạt động của mô hình canh tác tổng hợp đã giúp cho nông dân biết được ý nghĩa và hiệu quả của việc tỉa cành, tạo tán và áp dụng các biện pháp kỹ thuật cho cây điều tăng năng suất và hiệu quả kinh tế từ 20 - 60% so với ngoài mô hình, góp phần vào việc tăng năng suất điều của nước ta trong những năm qua. Mô hình này được nông dân tin tưởng và áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. III. ĐỀ XUẤT KHẢ NĂNG MỞ RỘNG TBKT VỚI ĐỊA PHƯƠNG Các kết quả nghiên cứu mang tính chất tổng hợp đối với các loại cây trồng chủ lực ở Tây Nguyên và Đông Nam bộ của Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên và Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam trong thời gian qua đã thực sự góp phần không nhỏ phục vụ thâm canh sản xuất bền vững ngành hàng cà phê, hồ tiêu của Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt hiện nay. Vì vậy việc phổ biến các TBKT này vào sản xuất thông qua các dự án sản xuất thử, khuyến nông là rất cần thiết. Do các đặc điểm tương đồng nên các TBKT chính nêu trên có thể khuyến cáo áp dụng cho toàn vùng Tây Nguyên và Đông Nam bộ và những nơi có điều kiện tương tự. IV. KIẾN NGHỊ Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một vấn đề toàn cầu và thực sự đã đang tác động tới toàn bộ các hoạt động kinh tế, xã hội và môi trường ở hai vùng sinh thái nông nghiệp lớn của cả nước là Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Tuy vậy có nhiều vấn đề về BĐKH chưa được rõ ràng nên khó có thể đưa ra bộ công cụ cũng như giải pháp thích hợp ứng phó với BĐKH. Chúng tôi đề nghị: - Nông dân cần nhận thức rõ những nguy cơ của BĐKH đe dọa sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam, đồng thời cần có kiến thức và vận dụng ICM/GAP trong hoàn cảnh hiện nay. Các nguyên tắc của ICM/GAP được coi là các giải pháp cơ bản ứng phó BĐKH. - Cần có hỗ trợ kinh phí từ ngân sách Nhà nước để xác định rõ hơn chiều hướng của BĐKH, đồng thời đánh giá một cách khoa học tác động của BĐKH đối với từng đối tượng cây trồng cụ thể ở hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam bộ. - Các hội đồng chuyên ngành cần xác định chuẩn xác các tiêu chí chọn giống ứng phó biến đổi khí hậu cho từng đối tượng cây trồng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_viet_24_7226_2130111.pdf
Tài liệu liên quan