Tài liệu Một số thuận lợi, khó khăn trong công tác đi buồng thường quy ở điều dưỡng/hộ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, năm 2017: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 115
MỘT SỐ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN
TRONG CÔNG TÁC ĐI BUỒNG THƯỜNG QUY Ở ĐIỀU DƯỠNG/HỘ SINH
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI, NĂM 2017
Phạm Thu Hiền*, Đỗ Mạnh Hùng*, Trương Thị Mỹ Hà**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi và giải pháp công tác đi buồng thường qui ở điều dưỡng, hộ
sinh tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2017.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang nghiên cứu định lượng, kết hợp định tính 66 điều
dưỡng và cán bộ quản lý điều dưỡng tại 04 khoa lâm sàng: A3, A4, D4, D5 tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội, từ
tháng 5/2017 đến tháng 10/2017.
Kết quả: ĐD/HS không đủ kiến thức 30,3%, người bệnh quá đông không đủ thời gian tư vấn 75,7%, do
người bệnh không hỏi ĐD/HS chỉ hỏi bác sỹ 36,3%, thiếu tài liệu và nội dung đi buồng 60,6%; quy định giám sát
chưa chặt chẽ 45,4%; nội dung đi buồng quá dài không thực hiện được 56,1%.
Kết luận: Đi buồng th...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 389 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số thuận lợi, khó khăn trong công tác đi buồng thường quy ở điều dưỡng/hộ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 115
MỘT SỐ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN
TRONG CÔNG TÁC ĐI BUỒNG THƯỜNG QUY Ở ĐIỀU DƯỠNG/HỘ SINH
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI, NĂM 2017
Phạm Thu Hiền*, Đỗ Mạnh Hùng*, Trương Thị Mỹ Hà**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi và giải pháp công tác đi buồng thường qui ở điều dưỡng, hộ
sinh tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2017.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang nghiên cứu định lượng, kết hợp định tính 66 điều
dưỡng và cán bộ quản lý điều dưỡng tại 04 khoa lâm sàng: A3, A4, D4, D5 tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội, từ
tháng 5/2017 đến tháng 10/2017.
Kết quả: ĐD/HS không đủ kiến thức 30,3%, người bệnh quá đông không đủ thời gian tư vấn 75,7%, do
người bệnh không hỏi ĐD/HS chỉ hỏi bác sỹ 36,3%, thiếu tài liệu và nội dung đi buồng 60,6%; quy định giám sát
chưa chặt chẽ 45,4%; nội dung đi buồng quá dài không thực hiện được 56,1%.
Kết luận: Đi buồng thường qui tại bệnh viện còn mang tính hình thức, nội dung đi buồng dài, thời gian đi
buồng chưa hợp lý, tỷ lệ cao điều dưỡng, hộ sinh thiếu kiến thức, thiếu tài liệu.
Từ khóa: Yếu tố ảnh hưởng, thực hành đi buồng, điều dưỡng/hộ sinh.
ABSTRACT
SOME FACTORS AFFECTING WARD AROUND PRACTICES OF NURSES/MIDWIVES AT HANOI
HOSPITAL OF OBSTETRICS AND GYNECOLOGY, IN 2017
Truong Thi My Ha, Do Manh Hung, Pham Thu Hien
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 6- 2018: 115 - 120
Objectives: To find out some factors affecting ward around practice of nurses/midwives at Hanoi Obstetrics
and Gynecology hospital in 2017.
Methodology: A cross – sectional study was conducted on 66 nurses at 4 clinical departments: A3, A4, D4,
D5, Hanoi Obstetrics and Gynecology hospital from May 2017 to October 2017.
Result: Practice under standard in unachieved knowledge group is 4.7 times higher than that of achieved
knowledge group (95% CI 1.2 - 17.6), Practice under standard in unachieved attitude group is 28.6 times higher
than that in achieved attitude group (95%CI 5.6 - 159.6).
Conclusion: Knowledge and attitude are factors affecting ward around practices of nurses and midwives.
Keywords: Factors affecting, ward around practice, nurses/midwives.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc thực hiện các thường qui được qui định
tại Thông tư 07/2011/TT - BYT ngày 26/1/2011
của Bộ Y tế hướng dẫn công tác điều dưỡng về
chăm sóc người bệnh trong bệnh viện(3). Đi
buồng thường quy là công việc thường xuyên
hàng ngày của điều dưỡng, hộ sinh; là một trong
những chăm sóc thể chất và tinh thần hiệu quả
nhằm phát hiện sớm những diễn biến bất
thường của người bệnh. Đồng thời, thông qua
hoạt động đi buồng, nhân viên y tế sẽ tư vấn,
hướng dẫn, truyền thông phổ biến kiến thức
* Bệnh viện Nhi Trung Ương.
Tác giả liên lạc: TS. Đỗ Mạnh Hùng, ĐT: 0913 304075, Email: hungdm.nip@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 116
giáo dục sức khỏe cho người bệnh và người nhà
người bệnh. Đây là quy trình chăm sóc người
bệnh chiếm nhiều thời gian hơn các quy trình
chuyên môn khác, đòi hỏi điều dưỡng, hộ sinh
phải có kỹ năng, kiến thức và thái độ thực hành
tốt(1,7).
Để đảm bảo chất lượng chăm sóc toàn
diện người bệnh, đội ngũ điều dưỡng, hộ sinh
luôn phải quan tâm, theo dõi diễn biến bệnh
trạng của người bệnh nhằm phát hiện sớm
những dấu hiệu bất thường và có kế hoạch
chăm sóc kịp thời, điều này chỉ có thể thực
hiện tốt khi đội ngũ điều dưỡng, hộ sinh có
đầy đủ kiến thức, có thái độ thực hành tốt và
tuân thủ đầy đủ qui trình đi buồng thường
qui hàng ngày tại bệnh viện(4,5).
Xác định những khó khăn, thuận lợi và
đề xuất các giải pháp trong việc thực hiện
công tác đi buồng là nhiệm vụ trọng tậm
trong công tác chăm sóc người bệnh tại tất cả
các bệnh viện, trong đó có bệnh viện phụ sản
Hà Nội. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên
cứu với đề tài: “Một số thuận lợi, khó
khăntrong công tác đi buồng thường quy ở điều
dưỡng, hộ sinh tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội,
năm 2017”
Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi và giải
pháp công tác đi buồng thường qui ở điều
dưỡng, hộ sinh tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội
năm 2017.
Tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi và giải
pháp công tác đi buồng thường qui ở điều
dưỡng, hộ sinh tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội
năm 2017.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, nghiên cứu
định lượng có phân tích.
Đối tượng nghiên cứu
ĐD, HS trtực tiếp chăm sóc NB tại 04 khoa:
A3, A4, D4, D5.
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 5/2017 đến tháng 10/2017.
Cỡ mẫu phát vấn ĐD, HS
Chúng tôi chọn mẫu toàn bộ 66 ĐD, HS
tham gia đi butồng thường quy tại 04 khoa lâm
sàng: A3, A4, D4, D5 thỏa mãn tiêu chuẩn lựa
chọn vào nghiên cứu.
Công cụ đánh giá
Bộ câu hỏi nghiên cứu được xây dựng dựa
theo qui định đi buồng thường qui của ĐD, HS
do bệnh viện Phụ sản Hà Nội ban hành, áp dụng
tại bệnh viện.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Khó khăn trong công tác đi buồng
Khó khăn
Số lượng
(n=66)
Tỷ lệ %
Không đủ kiến thức 20 30,3
Không được đào tạo, tập huấn 16 24,2
Do người bệnh quá đông nên không đủ
thời gian tư vấn
50 75,7
Do người bệnh không hỏi ĐD/HS, chỉ hỏi
bác sỹ
24 36,3
Do thiếu tài liệu về chuyên môn và các nội
dung trong mỗi lần đi buồng
40 60,6
Giám sát chưa chặt chẽ nên ĐD/ HS lơ là
không thực hiện
30 45,4
Nội dung mỗi lần đi buồng quá dài nên
không thực hiện được
37 56,1%
Đa số ĐD/HS cho rằng sự khó khăn trong
công tác đi buồng là do thiếu tài liệu chuyên
môn nội dung thực tế cho mỗi lần đi buồng
với 60,6%; 3/4 ĐD/HS cho rằng khó khăn hiện
nay là do bệnh nhân đông không đủ thời gian
thực hiện.
Nghiên cứu định tính cũng cho thấy đi
buồng gây ra những trở ngại trong việc bố trí
ĐD/HS thực hiện các công việc khác, đặc biệt
trong những ngày quá tải bệnh nhân: “Nếu đi 03
lần trong ngày thì sẽ chiếm nhiều thời gian dành cho
công tác chuyên môn chăm sóc người bệnh” (ĐD
khoa D4).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 117
Đi buồng đôi khi mang tính hình thức và
không thực tế vì mỗi bệnh nhân có những nhu
cầu về thông tin là khác nhau, ngoài ra cần lưu
ý đến tình trạng sức khỏe của người bệnh “Từ
số lượt nhân viên y tế ra vào phòng bệnh như vậy
chúng ta cũng nhận thấy số lần ra vào phòng bệnh
quá nhiều, gây cho NB cảm thấy sự mệt mỏi khi
không dc nghỉ ngơi sau những ca đẻ hoặc ca mổ
mệt mỏi mất nhiều sức lực. Do vậy chúng ta nên
giảm bớt số lần đi buồng. Chỉ cần tập trung vào 1
lần đi buồng chính là buổi sáng, còn những lần sau
chúng ta có thể lồng ghép vào các công việc khác
của ĐD/HS” (ĐDT khoa).
Công tác đi buồng cũng gặp khó khăn trong
các mối quan hệ giữa ĐD/HS với bác sỹ, và với
bệnh nhân như sự phản ánh của một ĐD/HS
“Chưa có sự phối hợp thường xuyên đi buồng giữa
BS và ĐD/HS, thực tế ĐD phải thực hiện các y lệnh
chăm sóc người bệnh theo bác sỹ, do vậy bố trí đi
buồng nhiều khi gặp khó khăn” (ĐD/HS khoa A3).
Mối quan tâm giữa giao tiếp giữa ĐD/HS và
NB vẫn còn biểu hiện chưa tốt ở một số ĐD/HS.
“Chưa thật sự tạo được thành nếp về sự thân
thiện của NVYT đối với NB và người nhà NB”
(ĐD khoa A4). “Vẫn còn đâu đó có sự vô tâm,
thờ ơ của NVYT đối với NB và người nhà NB
(cười đùa trong phòng đẻ khi sản phụ chuyển dạ
đau đớn, chưa có sự động viên kịp thời.” (ĐD
khoa A3).
Công tác đi buồng thường quy đã là quy
định bằng văn bản quy phạm pháp luật với
Thông tư số 07/2011/TT-BYT.Theo quy định,
bệnh viện cũng đã ban hành quy chế đi buồng
tại bệnh viện. Đi buồng là một phần của chăm
sóc tại bệnh viện.
Tổ chức công tác đi buồng đã được xây dựng
và có sự quản lý phân cấp từ Ban Giám đốc bệnh
viện, phòng Điều dưỡng, Điều dưỡng trưởng
khoa, Điều dưỡng phụ trách các ca trực. “Các quy
định rất cụ thể về việc đi buồng của ĐD/HS đã được
Hội đồng Khoa học, Hội đồng Điều dưỡng phê duyệt
và chỉnh sửa hàng năm, qua đó chị em ĐD/HS căn cứ
để thực hiện, đó cũng là hành lang pháp lý giúp cho
ĐD/ HS làm đúng công việc hàng ngày. Chị em
ĐD/HS có được nền tảng tương đối vững về chuyên
môn” (VPS PGĐ Bệnh viện)
Kế hoạch công tác điều dưỡng của khoa
được ĐDT khoa phổ biến trong các buổi giao
ban ĐD/HS, phân công thực hiện, đánh giá kết
quả thực hiện triển khai qua giao ban hàng tuần,
hàng ngày với sự tham gia đầy đủ của các cán bộ
tại các khoa phòng: “Hàng ngày vào các buổi giao
ban đầu giờ sáng, các ĐD/HS đều hội ý và phân công
phụ trách chăm sóc các giường bệnh trong đó có việc
thực hiện các nội dung đi buồng” (HS khoa D5).
Công tác đi buồng là một nhu cầu của người
bệnh vì đáp ứng được những thắc mắc, kiến
thức tự chăm sóc bản thân, kiến thức nuôi con.
“Nhờ có sự giải thích của các chị y tá, em cũng đã
hiểu hơn cách chăm sóc con sau sinh” (NB khoa A3).
“Lần đầu em sinh con, sợ mổ, nhưng nhờ mấy chị giải
thích, động viên nên em đã yên tâm hơn khi tiến hành
mổ đẻ” (NB khoa D4).
Bảng 2. Một số đề xuất giải pháp trong quản lý
Giải pháp
Số lượng
(n=66)
Tỷ lệ
%
Tăng cường tự giám sát, và tính vào bình
bầu thi đua cuối năm
32 48,4
Mở lớp tập huấn thực hiện qui trình đi
buồng thường qui
45 68,1
Đánh giá việc thực hiện qui trình đi buồng
thường qui trong giao ban hàng ngày
48 72,7
Giải pháp khác 12 18,1
Một số giải pháp được ĐD/HS đưa ra chiếm
tỷ lệ cao nhất là Đánh giá việc thực hiện qui trình
đi buồng thường qui trong giao ban hàng ngày
với 72,7% số ĐD/HS được hỏi tiếp đến là giải
pháp mở lớp tập huấn ngoài giờ thực hiện qui
trình đi buồng thường qui với 68,1%.
Quá trình thảo luận nhóm ĐD/HS nhất trí
cho rằng một số giải pháp cần thực hiện bao
gồm: “Khoa phòng xây dựng chế tài thưởng
phạt; Xây dựng tờ rơi; Quy định thời gian đi
buồng ngày 1 lần vào 8h15 – 9h sáng (ngày 1
lần), buổi chiều và giờ nhận trực đi kiểm tra và
nhắc nhở các phòng bệnh; Nội dung đi buồng
trong bảng kiểm cần phân chia riêng cho từng
đối tượng người bệnh (BN ngày 1, 2, 3...); Không
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 118
nên cung cấp quá nhiều thông tin cho người
bệnh (bảng kiểm hiện tại quá dài); Không cần
thiết phải nói đúng quy trình bảng kiểm, chỉ cần
giải đáp thắc mắc cho người bệnh họ hiểu và
chấp hành” (Kết quả TLN).
Các nội dung đi buồng cũng cần cân nhắc và
không nên dập khuân, theo ý kiến của nhiều
điều dưỡng trong quá trình thảo luận nhóm:
“Cung cấp thông tin tư vấn theo ngày điều trị của
BN, Ví dụ: BN mổ sau ngày thứ nhất: cung cấp
thông tin về nghỉ ngơi theo dõi tình trạng sau mổ như
vết mổ, dịch âm đạo, nước tiểu, tình trạng toàn thân
có hoa mắt chóng mặt, hay sốt, nôn...Sau mổ ngày
thứ hai: tình trạng vết mổ, dịch âm đạo, tiểu tiện,
trung tiện, tư vấn ăn uống, đau vết mổ... sử dụng
thuốc. Sau mổ ngày thứ 3: Tình trạng vết mổ, ăn
uống, nghỉ ngơi dịch âm đạo, vệ sinh âm hộ.... Sau mổ
ngày thứ ba nếu được ra viện thì tư vấn thủ tục ra
viện... cách chăm sóc cho mẹ và bé khi về nhà và cung
cấp số ĐT để hỗ trợ cho bà mẹ nếu có khó khăn)” (Kết
quả thảo luận nhóm).
BÀN LUẬN
Khó khăn
Tìm hiểu những khó khăn qua đó khắc phục
bằng các giải pháp trong quản lý là hết sức quan
trọng, góp phần cải thiện sự hoạt động tổ chức
bộ máy một cách hiệu quả, qua đó cải thiện dịch
vụ là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ ĐD nhận thấy
không đủ kiến thức chiếm tới 30,3%, điều dưỡng
không được tập huấn chiếm tới 24,2%, nguyên
nhân do người bệnh đông quá nên không đủ
thời gian tư vấn chiếm tới 75,7%, do người bệnh
không hỏi ĐD/HS, chỉ hỏi bác sỹ chiếm 36,3%,
do thiếu tài liệu về chuyên môn và các nội dung
trong mỗi lần đi buồng chiếm 60,6%, do qui
định, giám sát chưa chặt chẽ nên ĐD/ HS lơ là
không thực hiện chiếm 45,4%, do nội dung mỗi
lần đi buồng quá dài nên không thực hiện được
chiếm 56%.
Thực tế đặc thù từng bệnh viện khác nhau
mà đi buồng đòi hỏi khác nhau, do vậy quy chế
đi buồng là chưa đủ, bệnh viện Phụ sản Hà Nội
cần tổ chức biên soạn một tài liệu chuẩn về quy
trình đi buồng ở ĐD/HS. Bên cạnh đó, cần tổ
chức tập huấn liên tục về các nội dung trong
công tác đi buồng.
Việc đi buồng đôi khi cũng gặp những trở
ngại như quá tải bệnh nhân, do vậy công tác
đi buồng có thể không đạt được như hiệu quả
mong đợi. Việc quá tải này có thể sử dụng một
số giải pháp như hẹn lịch khám bệnh, làm
ngoài giờ hành chính, hoặc huy động nguồn
nhân lực từ các khoa ít bệnh nhân hơn sang
các khoa quá tải.
Việc chấm điểm hay đánh giá đi buồng
hiện nay vẫn còn mang tính hình thức, vì như
đã bàn luận ở trên, mỗi bệnh nhân đòi hỏi nhu
cầu khác nhau, thông tin khác nhau. Do vậy,
bệnh viện cần cân nhắc việc đi buồng sao cho
hiệu quả chất lượng.
Mặt khác, trong nghiên cứu cũng cho thấy
quá trình đi buồng đôi khi làm ảnh hưởng đến
bệnh nhân và có thể gây ra sự khó chịu đối với
bệnh nhân. Các bà mẹ sau khi sinh thường cảm
giác mệt mỏi, cần thời gian nghỉ ngơi hơn là
được nghe ĐD/HS phổ biến kiến thức.
Hơn nữa, nếu phải nghe nhiều lần với cùng
một nội dung, NB có thể có phản ứng khó chịu,
do vậy phổ biến kiến thức, thông tin về nội quy
bệnh viện có thể không đạt hiệu quả. Do đó, cần
cần nhắc sử dụng các phương pháp thông tin
khác nhau, tránh gây ra sự nhàm chán, khó chịu
từ người bệnh.
Mối quan hệ giữa ĐD/HS với bác sỹ cũng là
một vấn đề trong công tác đi buồng, một mặt
ĐD/HS thực hiện chăm sóc người bệnh theo y
lệnh từ các bác sỹ, trong khi nếu đi buồng mang
tính hình thức thì không mang lại hiệu quả. Cần
có sự kết hợp giữa nội dung đi buồng phù hợp
với nội dung điều trị, phòng bệnh theo y lệnh
của bác sỹ.
Quan hệ giữa ĐD/HS với NB cũng có thể là
một trở ngại lớn trong công tác đi buồng. Sự
quát nạt, to tiếng hay những lời nói không đúng
chuẩn mực sẽ làm mất đi hình ảnh của người
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 119
thầy thuốc, mặt khác còn gây ra sự ức chế cản trở
việc tuân thủ điều trị từ NB. Do đó, ĐD/HS cần
học các kỹ năng giao tiếp với NB, theo Đỗ Mạnh
Hùng đối với NB cần có sự cảm thông, chia sẽ và
giúp đỡ từ các ĐD(6).
Thuận lợi
Nhìn chung các hoạt động đi buồng đã được
quy định bằng các văn bản quy phạm pháp luật
như Thông tư số 07/2011/TT-BYT(3). Mặt khác,
các hoạt động giao tiếp, ứng xử, thông tin giáo
dục truyền thông là một phần không thể thiếu
trong tiêu chuẩn điều dưỡng theo Quyết định
số1352/QĐ-BYT(4), Quy tắc ứng xử theo quyết
định số 29/2008/QĐ-BYT(2). Do vậy, các kỹ năng
đi buồng như giao tiếp, truyền thông giáo dục
sức khỏe người bệnh đã được đào tạo ngay từ
khi điều dưỡng còn ở trong các trường cao đẳng,
đại học. Đó là những mặt thuận lợi, vì đi buồng
là một phần của chăm sóc điều dưỡng.
Tại mỗi bệnh viện công tác đi buồng nhìn
chung cũng đã được xây dựng và hình thành từ
nhiều năm nay, mặc dù vậy, ở mỗi bệnh viện
khác nhau, ở mỗi khoa khác nhau và mỗi bệnh
nhân khác nhau, công tác đi buồng lại đòi hỏi
những tính đặc thù riêng. Do vậy, mà ngoài quy
chế đi buồng của bệnh viện, thì tại mỗi khoa,
mỗi tổ đều phải có những kế hoạch riêng phù
hợp với thực tế.
Đặc điểm riêng biệt của công tác chăm sóc
các ca trước, trong và sau sinh hiện nay là nhiều
bà mẹ mong muốn tiếp cận nguồn thông tin
trong việc chăm sóc trẻ sau khi sinh. Do vậy,
công tác đi buồng cũng là sự đáp ứng với nhu
cầu của NB, đó cũng là những thuận lợi cho mỗi
ĐD/HS tại bệnh viện phụ sản Hà Nội.
Đề xuất giải pháp
Theo ĐD/HS thì cần tăng cường tự giám
sát, và tính vào bình bầu thi đua cuối năm với
tỷ lệ là 48,4%; Mở lớp tập huấn ngoài giờ thực
hiện qui trình đi buồng thường qui với tỷ lệ là
68,1%, Đánh giá việc thực hiện qui trình đi
buồng thường qui trong giao ban hàng ngày
với tỷ lệ là 72,7%.
Các biện pháp như xử phạt đối với những vi
phạm thực tế là đã có trong quy chế tại bệnh
viện, cán bộ có thể bị xử phạt nếu vi phạm quy
chế đạo đức nghề nghiệp và quy trình kỹ thuật.
Thực tế thì đi buồng cũng là một phần công việc
hàng ngày của ĐD/HS, do vậy các hoạt động xử
lý xử phạt nằm trong quy chế riêng.
Tập huấn, đánh giá thực hiện đi buồng trong
giao ban hàng ngày thực tế là đã có, tuy vậy, việc
triển khai đôi khi còn chưa đi với thực tiễn.
Chẳng hạn tập huấn thường được lồng ghép vào
các lớp trong đó thường thiếu đi việc tập huấn
các kỹ năng giao tiếp. Giao ban hàng ngày,
thường không đánh giá hoạt động bằng những
chỉ số cụ thể.
Một số ý kiến cho rằng giải pháp xây dựng
đi buồng ngày 1 lần vào buổi sớm, thực tế giải
pháp có thể thực hiện nếu kết hợp với việc
chuyển tài liệu cho bệnh nhân và người nhà
bệnh nhân tự đọc, điều dưỡng đi buồng chỉ
cần trả lời các thắc mắc. Các ý kiến trong thảo
luận nhóm cũng cho rằng quá trình đi buồng
cần thực hiện một cách thực tế, phù hợp với
từng đối tượng bệnh nhân, không nên máy
móc, hình thức.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu trên 66 điều dưỡng và hộ sinh
tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội cho thấy thực
trạng công tác đi buồng thường hiện nay tại
bệnh viện còn mang tính hình thức, nội dung
đi buồng dài, thời gian đi buồng chưa hợp lý,
tỷ lệ cao điều dưỡng, hộ sinh thiếu kiến thức,
thiếu tài liệu.
Từ kết quả nghiên cứu bệnh viện cần xem
xét, chỉnh sửa các nội dung đi buồng phù hợp,
thực hiện tốt việc chủ động nguồn nhân lực
nhằm giảm tải khối lượng công việc. Thực
hiện các giải pháp nâng cao kiến thức, tăng
cường tài liệu cho đi buồng. Thực hiện tốt hoạt
động tự giám sát và đánh giá kết quả qua giao
ban hàng ngày.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bệnh viện Phụ sản Hà Nội (2016), “Qui định đi buồng thường qui
của ĐD, HS, Quyết định số: 1258 QĐ/PS-TCCB, ngày 03/11/2016
của Giám đốc bệnh viện Phụ sản Hà Nội về việc ban hành bộ tài liệu
‘Quy định công tác Điều dưỡng’. tr. 59-61.
2. Bộ Y tế (2008), “Quy tắc ứng xử của cán bộ, viên chức trong các đơn
vị sự nghiệp y tế, Ban hành kèm theo Quyết định số 29/2008/QĐ-
BYT ngày 18/8/2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế”.
3. Bộ Y tế (2011), “Hướng dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người
bệnh trong bệnh viện kèm theo Thông tư số 07/2011/TT-BYT”.
4. Bộ Y tế (2012), “Chuẩn năng lực cơ bản của điều dưỡng Việt Nam,
Ban hành kèm theo Quyết định số: 1352/QĐ-BYT ngày 21 tháng
4 năm 2012”.
5. Bộ Y tế (2014), “Chuẩn năng lực cơ bản hộ sinh Việt Nam, ban hành
kèm theo Quyết định số 342/QĐ-BYT/2014”.
6. Đỗ Mạnh Hùng (2013), “Nghiên cứu thực trạng nhận thức, thực
hành y đức của điều dưỡng viên tại bệnh viện Nhi Trung ương
và kết quả một số biện pháp can thiệp - Luận án Tiến sỹ Y tế công
cộng”.
7. Phạm Thị Xuyến (2015), “Thực trạng công tác đi buồng thường
quy của điều dưỡng viên tại bệnh viện đa khoa Hà Đông,” Luận
văn Thạc sỹ quản lý bệnh viện, Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
Ngày nhận bài báo: 10/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_thuan_loi_kho_khan_trong_cong_tac_di_buong_thuong_quy.pdf