Tài liệu Một số quan điểm Xã hội học nghiên cứu về hôn nhân: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017
152
Một số quan điểm Xã hội học nghiên cứu về hôn nhân
Some of Sociological perspectives on marriage studies
ThS.NCS. Nguyễn Thị Thu Thoa, Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM
Nguyen Thi Thu Thoa, M.A., Ph.D. student, Ho Chi Minh University of Food Industry
ThS. Nguyễn Thị Hà, Học viện Khoa học Xã hội
Nguyen Thi Ha, M.A., Academy of Social Sciences
Tóm tắt
Bài viết đề cập đến một số công trình nghiên cứu về hôn nhân dựa trên các quan điểm Xã hội học. Từ
thực tế nghiên cứu cho thấy cần tiếp tục có những nghiên cứu mang tính chuyên sâu về đời sống hôn
nhân gia đình của người dân, nghiên cứu những quan niệm riêng về hôn nhân và phong tục hôn nhân.
Việc hiểu biết sâu sắc về đời sống hôn nhân có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng gia đình Việt
Nam no ấm, tiến bộ hạnh phúc.
Từ khóa: hôn nhân, gia đình.
Abstract
The article mentions some studies on marriage based on the views of the ...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 933 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số quan điểm Xã hội học nghiên cứu về hôn nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017
152
Một số quan điểm Xã hội học nghiên cứu về hôn nhân
Some of Sociological perspectives on marriage studies
ThS.NCS. Nguyễn Thị Thu Thoa, Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM
Nguyen Thi Thu Thoa, M.A., Ph.D. student, Ho Chi Minh University of Food Industry
ThS. Nguyễn Thị Hà, Học viện Khoa học Xã hội
Nguyen Thi Ha, M.A., Academy of Social Sciences
Tóm tắt
Bài viết đề cập đến một số công trình nghiên cứu về hôn nhân dựa trên các quan điểm Xã hội học. Từ
thực tế nghiên cứu cho thấy cần tiếp tục có những nghiên cứu mang tính chuyên sâu về đời sống hôn
nhân gia đình của người dân, nghiên cứu những quan niệm riêng về hôn nhân và phong tục hôn nhân.
Việc hiểu biết sâu sắc về đời sống hôn nhân có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng gia đình Việt
Nam no ấm, tiến bộ hạnh phúc.
Từ khóa: hôn nhân, gia đình.
Abstract
The article mentions some studies on marriage based on the views of the sociological perspectives. It
can be seen from the studies that it’s necessary to do deeply researches into the marriage and family,
especially personal view on marriage and marriage customs. It’s necessary to deeply understand the
marriage life that is meaningful to build prosperous, progressive and happy Vietnamese families.
Keywords: marriage, family.
1. Đặt vấn đề
Nghiên cứu về hôn nhân được bắt đầu
từ nửa sau của thế kỷ XIX, đồng thời với
sự ra đời của bộ môn Xã hội học gia đình.
Thời gian này học thuyết Darwin xã hội
đang chiếm phần ưu thắng trên toàn thế
giới. Dựa vào những ý tưởng được gợi mở
từ học thuyết Darwin, các nhà nghiên cứu
đã xem xét các hình thái của hôn nhân và
gia đình như là quá trình thích ứng với các
giai đoạn tiến hóa của xã hội loài người.
2. Một số quan điểm nghiên cứu về
hôn nhân
2.1. Quan điểm nghiên cứu về hôn
nhân truyền thống
Theo dòng lịch sử, với khoảng thời
gian dưới 50 năm, cùng với sự thay đổi về
nghề nghiệp trong quá trình CNH và ĐTH
đường bán kính kết hôn xét trên phạm vi
toàn thế giới đã tăng lên gấp đôi. Trong
một nghiên cứu tại Ba Lan, đường bán kính
kết hôn trung bình đối với nông dân là 6
km, công nhân là 70 km và cán bộ là 150
km (G. Olivier, 2002: 86). Việc mở rộng
phạm vi không gian cũng được phản ánh ở
điểm gặp gỡ của các cặp vợ chồng tương
lai. Cuộc điều tra của Viện Dân số Pháp
(INEO) cho biết, nếu hồi đầu thế kỷ cho
đến những năm 60 của thế kỷ XX, thanh
niên Pháp thường tìm gặp ý trung nhân của
mình trong các cuộc viếng thăm, vũ hội
hay nơi làm việc, thì sang thập kỷ 70-80,
NGUYỄN THỊ THU THOA – NGUYỄN THỊ HÀ
153
lớp trẻ lại hay gặp nhau ở những nơi công
cộng, ở câu lạc bộ, nhà hát, sàn nhảy, hộp
đêm, v.v G. Olivier cho rằng “khi các
phương tiện giao thông còn chưa phát
triển, người ta lấy nhau trong địa phương
mình vì cần thiết, sự giới hạn ấy là do địa
lý áp đặt. Sau những tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, ngày càng có nhiều khả năng đi lại
và kết hôn ngoài nhóm của mình; điều đó
khiến cho các vòng tròn hôn nhân được mở
rộng, cũng như quy mô trung bình của
những tộc người biệt lập bộ phận” (G.
Olivier, 2002: 85).
Gắn liền với việc mở rộng không gian
kết hôn là những thay đổi về tiêu chuẩn lựa
chọn bạn đời và quyền quyết định hôn
nhân. Các cuộc điều tra của Alain Girard ở
Pháp vào những năm 60 và 70 của thế kỷ
trước đã đưa đến kết luận rằng “tần xuất
hôn nhân tương đồng về xã hội cao gấp hai
lần so với các cuộc hôn nhân được quyết
định mà không kể đến các nguồn gốc xã
hội của đối tác”. Ở Mỹ, nhiều tác giả (như
Holling Shead, 1950; Kerchoff và K. E.
Daviss, 1962) cũng nhấn mạnh đến các yếu
tố xã hội có sự chi phối mạnh mẽ đến việc
lựa chọn hôn nhân - như chủng tộc, tộc
người, tôn giáo, trình độ học vấn, tầng lớp
xã hội, v.v Kết quả các cuộc điều tra chỉ
ra đa số các cặp vợ chồng có trình độ học
vấn tương đương nhau (65%), sự tương
đồng về tôn giáo còn cao hơn nữa (92%).
Người ta cũng nhận thấy tần xuất hôn nhân
tương đồng về nghề nghiệp cho đến những
năm 1970 cũng không hề giảm, đúng như
A. Girard đã viết: “Những người trong
cùng môi trường người ta có nhiều cơ may
hơn và thích hợp hơn để lựa chọn bạn đời”
(Martine Segalen, 2014: 145-147). Nói gọn
lại, trong việc lựa chọn đối tượng hôn nhân
thì tiêu chuẩn tương đồng về xã hội vẫn
chiếm vị trí nổi bật nhất.
Sự biến đổi của mô hình hôn nhân như
vừa nêu, cố nhiên, là có sự gắn bó trực tiếp
hoặc gián tiếp với sự thay đổi trong đời
sống kinh tế - xã hội nói chung. Chẳng hạn,
nếu tuổi kết hôn được nâng lên thì điều đó
cũng có ý nghĩa một khi “con cái bước vào
hôn nhân là đã thành một người trưởng
thành, làm ra được tiền, thì bố mẹ không
còn duy trì được cách điều khiển hôn nhân
của con cái như trước kia khi mà con cái
thành hôn còn trẻ và vẫn phụ thuộc về kinh
tế cho đến tuổi trung niên” (C. W.
Sorensen, 2001: 189). Cũng như vậy, một
khi phạm vi không gian kết hôn được mở
rộng, việc lựa chọn bạn đời không còn là
tham chiếu duy nhất vào tiêu chuẩn “môn
đăng hộ đối” mà còn cả vào “giá trị gia
tăng” của chính bản thân đôi trẻ, thì “sự
kiểm soát của xã hội không còn được thực
hiện qua đường vòng là cha mẹ nữa, mà
qua sự đánh dấu về xã hội học những nơi
có tính hợp quần (). Và như vậy, sự lựa
chọn của cá nhân dựa trên những tiêu
chuẩn riêng đã thay thế chiến lược kiên
nhẫn của cha mẹ trước đây” (M. Segalen,
2014: 148).
Nhìn chung, các nghiên cứu đã chỉ ra,
trong xã hội hiện đại phần lớn các cặp kết
hôn đều là tự do, tự nguyện, ít chịu ràng
buộc hoặc ảnh hưởng từ cha mẹ hoặc một
thế lực nào khác. Thornton, Chang và Sun
(1984) cho biết, ở Đài Loan tỷ lệ phụ nữ
nói rằng bố mẹ quyết định hôn nhân của họ
giảm từ 75% đối với thế hệ sinh vào những
năm 1930 xuống chỉ còn 15% đối với thế
hệ sinh gần đây, trong khi những người nói
họ quyết định hoàn toàn tăng từ 5% lên
33% (Arland Thornton và Thomas E.
Fricke, 1994: 390)
Nhà nghiên cứu M. Segalen, trong
công trình nghiên cứu của mình cũng đã
phản ánh những thay đổi như vậy. Có thể
M T SỐ QUAN ĐIỂM XÃ H I HỌC NGHIÊN CỨU VỀ HÔN NHÂN
154
tóm lược sự chuyển biến đó như sau: Vào
những năm 1960 ở Pháp, cũng như ở châu
Âu nói chung, việc các cặp tân hôn thực thi
nghi thức phong tục là nhằm công khai cho
cuộc hôn nhân của mình, đồng thời qua đó
nhận được sự chấp thuận của cộng đồng.
Vì vậy, trong buổi lễ thành hôn họ thường
chọn mời những người họ hàng và bè bạn
mà họ muốn thấy ở bên cạnh để chung vui.
Như thế, đám cưới đã gắn kết các thành
viên cộng đồng lại với nhau, đồng thời
cũng là nơi mà các nghi thức truyền thống
được bảo lưu và tôn trọng, như là sự khẳng
định cho tính lâu bền và tính chuẩn mực
của đời sống xã hội.
Nhưng trong đám cưới ngày nay, khi
nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI – cũng
chính Segalen đã viết – các nghi thức
không còn thể hiện những ý nghĩa như
trước nữa. Đám cưới ngày nay, do phát
triển và lạm phát các khía cạnh hội hè, nên
ngày càng tương đồng với một buổi biểu
diễn cần phải “thành công”. Những người
kết hôn thường phải chuẩn bị hàng tháng,
thậm chí hàng năm cho buổi lễ được hình
dung theo ý họ, trong đó bạn bè tham dự
đương nhiên phải góp vào những sáng tác
âm nhạc hoặc màn trình diễn nào đó. Trong
hai mươi năm qua, rất nhiều thủ tục, nghi
thức mới đã được sáng tạo ra như: tiệc
rượu mừng, việc tập hợp được tối đa số
khách mời, lễ tiễn đưa đời thiếu nữ, rồi
chụp ảnh, quay video và hiện nay là làm
đĩa DVD về buổi lễ mà người ta cần lưu
giữ, v.v (Martine Segalen, 2014: 160-
161). Tất cả những phát sinh mới đó đã
làm cho chi phí trở nên quá cao, kể cả đối
với cô dâu chú rể lẫn số khách mời, do đó
đám cưới nhiều khi đã bị thương mại hóa
và trở thành một lĩnh vực kinh doanh.
Trong những năm qua, còn ít có các
nghiên cứu về các gia đình Công giáo nói
chung và đời sống hôn nhân gia đình của
người dân theo đạo Công giáo nói riêng. Vì
vậy, việc tìm hiểu một số quan điểm nghiên
cứu về hôn nhân của người dân theo đạo
Công giáo là hết sức cần thiết cả về mặt lý
luận và thực tiễn.Việc nghiên cứu hôn nhân
ở Việt Nam được nở rộ vào nửa đầu thế kỷ
XX, không chỉ với các nhà nghiên cứu
trong nước như Phan Kế Bính, Nguyễn Văn
Huyên, Đào Duy Anh, Toan Ánh, Lương
Đức Thiệp, Vũ Như Lâm, mà còn cả các
tác giả nước ngoài như M. Durant, P.
Huard, E. Coutois Đặc điểm của các
nghiên cứu ở giai đoạn này là các tác giả
tập trung mô tả về hôn nhân như một phong
tục với tất cả những gì đã được định hình
của chúng, chứ ít chú ý đến sự biến đổi
cũng như sự khác biệt giữa các vùng, miền
hay giữa các nhóm xã hội khác nhau.
Tiếp sau đó, do sự chi phối của hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, việc nghiên cứu hôn nhân ít được chú
ý, hay chính xác hơn là bị quên bẵng đi một
thời gian dài. Cho đến cuối thập niên 70,
đầu thập niên 80 của thế kỷ XX công việc
này mới lại được tiếp tục dưới nhiều góc
nhìn khác nhau, kể cả về biến đổi và sự
khác biệt của hôn nhân giữa các vùng miền
khác nhau. Chẳng hạn, đó là các nghiên cứu
về hôn nhân, gia đình và địa vị người phụ
nữ của F.Houtart (1978), về quyền quyết
định hôn nhân và tiêu chuẩn lựa chọn bạn
đời của Mai Kim Châu (1984), Hoàng Đốp
(1984), Nguyễn Phương Anh (1984). Việc
hôn nhân của các dân tộc ít người như Tày,
Nùng, Thái, Malayo-Poolynêxia cũng được
nhiều tác giả đề cập, chẳng hạn, Đỗ Thúy
Bình (1994), Vũ Đình Lợi (1994), v.v Bổ
sung cho các nghiên cứu thực nghiệm xã
hội học và dân tộc học còn có các nghiên
cứu của Trần Đình Hượu, Đặng Đức Siêu
về ảnh hưởng của Nho giáo đến hôn nhân
NGUYỄN THỊ THU THOA – NGUYỄN THỊ HÀ
155
và gia đình Việt Nam trong lịch sử, cũng
như khả năng thích ứng của các thiết chế
này trong tiến trình CNH, HĐH đất nước từ
góc nhìn sử học và văn hóa học.
Như vậy, phổ nghiên cứu hôn nhân và
biến đổi hôn nhân ở nước ta trong thời gian
qua là khá rộng, trong đó đề cập đến nhiều
vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, như ở phần
trên đã nói, ở bài nghiên cứu này chúng tôi
cũng chỉ tập trung vào 5 yếu tố cơ bản
thuộc nội dung hôn nhân và xu hướng biến
đổi của chúng mà thôi.
Về phạm vi không gian kết hôn, hay
nói theo nhà sinh thái học nhân văn người
Pháp George Olivier (2002), là “đường bán
kính kết hôn”. Đây là việc đo lường
khoảng cách trung bình giữa nơi sinh của
hai người kết hôn để xác định các chế độ
nội hôn và ngoại hôn. Có hai cách để đo
lường hiện tượng này: theo không gian địa
lý, hoặc theo địa giới hành chính. Ở Việt
Nam, các nhà nghiên cứu thường lựa chọn
cách đo lường thứ hai. Chẳng hạn, ở
Chương trình hợp tác nghiên cứu Việt Nam
– Thụy Điển về “Gia đình nông thôn Việt
Nam trong chuyển đổi”, các tác giả đã
chọn cách đo lường này. Kết quả khảo sát
chung của Chương trình về nơi sinh của
vợ/chồng người trả lời ở 4 xã (thuộc các
tỉnh Yên Bái, Thừa Thiên - Huế, Tiền
Giang và Hà Nam) cho thấy, có 66,0% kết
hôn cùng xã; 16,3% cùng huyện; 8,2%
cùng tỉnh; 9,3% khác tỉnh và 0,3% không
xác định được sinh quán của mình (Dẫn
theo Lê Ngọc Văn, 2011: 314).
Không dừng lại ở mặt đồng đại, nhiều
tác giả còn đi sâu khảo sát và đo lường
phạm vi không gian kết hôn về mặt lịch
đại, từ đó chỉ ra sự biến đổi của mô hình từ
nửa cuối thế kỷ XX đến nay. Tiêu biểu cho
xu hướng này là Mai Văn Hai (2004) với
cuộc nghiên cứu ở làng Đào Xá (xã An
Bình, Nam Sách, Hải Dương) vào năm
2000. Tại đây, tác giả đã phỏng vấn trực
tiếp 136 cặp vợ chồng đang sống cùng
nhau dưới một mái nhà, trong đó, cặp kết
hôn lần đầu sớm nhất là năm 1941, cặp
muộn nhất là năm 2000. Tác giả chia
khoảng thời gian gần 60 năm đó thành ba
giai đoạn: giai đoạn từ 1941 đến 1959 có
24 cặp kết hôn, được gọi là mô hình I; giai
đoạn 1960–1985 có 64 cặp, là mô hình II
và giai đoạn 1986–2000 có 51 cặp, là mô
hình III. Kết quả khảo sát đã chỉ ra xu
hướng nội hôn trong làng, trong xã ngày
càng giảm, trong khi việc kết hôn bên
ngoài làng xã, mà cụ thể là ở phạm vi
huyện, tỉnh hoặc ngoài tỉnh ngày càng tăng
lên. Việc mở rộng phạm vi không gian kết
hôn ở Việt Nam trong khoảng 2/3 thế kỷ
qua không chỉ cho thấy phong tục hôn
nhân nơi làng xã đang thay đổi, mà còn
phản ánh tính năng động và cơ động xã hội
của người dân cũng được nâng cao trong
bối cảnh của nền kinh tế thị trường, của
tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Trong khi đó, ở nội dung tiêu chuẩn
chọn bạn đời, các nhà nghiên cứu lại phân
chia thành một số mô hình, trong đó mỗi
mô hình tương ứng với một giai đoạn lịch
sử của đất nước, chẳng hạn, mô hình cổ
truyền, mô hình bao cấp, mô hình thời đổi
mới, v.v...
Gắn liền với việc chọn bạn đời là
quyền quyết định hôn nhân. Nếu chấp nhận
theo khẩu ngữ dân gian là xưa kia “cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy”, còn ngày nay “con
cái đặt đâu bố mẹ ngồi đấy”, chúng ta dễ
dàng thấy được hơn nửa thế kỷ qua quyền
quyết định trong hôn nhân đã chuyển từ bố
mẹ sang con cái. Tuy nhiên, không giống
như ở việc lựa chọn người bạn đời, sự thay
đổi ở đây còn xuất hiện thêm một số mô
hình trung gian. Có thể tóm tắt sự chuyển
M T SỐ QUAN ĐIỂM XÃ H I HỌC NGHIÊN CỨU VỀ HÔN NHÂN
156
đổi này như sau: theo phong tục cổ truyền
là “bố mẹ quyết định, con cái vâng theo”,
tiếp đó là “cha mẹ quyết định, có hỏi ý kiến
con”, rồi “con quyết định, có tham khảo ý
kiến của bố mẹ” và cuối cùng là “con cái
quyết định hoàn toàn”.
Nhưng đấy mới chỉ là cái nhìn chung
nhất, trong thực tế vấn đề còn phức tạp hơn
nhiều. Bởi vì, ngay ở mô hình đầu, trong
khi một số tác giả như Phan Kế Bính, Toan
Ánh, Lương Đức Thiệp, Hà Văn Cầu cho
rằng đấy là mô hình “cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy”, thì nhiều tác giả khác lại không
cho là như vậy. Nhà nghiên cứu Yu Insun,
qua khảo cứu lịch sử, đã đi đến kết luận:
trong xã hội Việt Nam truyền thống cha mẹ
ít tham gia trực tiếp vào chuyện của con cái
và con cái nghiêng về phía được độc lập
với cha mẹ (Yu Insun, 1944: 149).
Nhà nhân học Abbe Richard cũng đề
cập đến quyền tự do của thiếu nữ thôn quê
trong việc lựa chọn bạn đời. Ông viết rằng
“Bọn họ luôn luôn lựa chọn người chồng
theo ý thích của mình, điều mà người
Trung Quốc không được phép làm” (Dẫn
theo Khuất Thu Hồng, 1996).
Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên khi
nghiên cứu về hát đối của nam nữ thanh
niên, cũng đưa ra nhận xét: “Trái với điều
diễn ra trong giới quyền quý Việt Nam,
những người tiểu nông và người thuộc giai
cấp trung lưu tự mình chọn lấy vợ. Nhưng
sự lựa chọn của họ bao giờ cũng được cha
mẹ chuẩn y. Họ quen biết nhau trước khi
cưới hỏi, họ quý trọng và yêu nhau trước
khi trở thành vợ chồng. Mặc dù những lời
tỏ tình công khai này, mặc dù quyền tự do
hoàn toàn này đã được phong tục làng xã
chấp nhận, được lý dịch và kỳ mục ủng hộ,
song trai gái bao giờ cũng cố gắng theo
truyền thống, hỏi ý kiến cha mẹ” (Nguyễn
Văn Huyên, 1995).
Vậy là, với mô hình quyền quyết định
hôn nhân, bên cạnh cái chung, vẫn còn có
những cái riêng, cái khác biệt ở các tầng
lớp, các nhóm người khác nhau. Đấy là
chưa kể, trong thời bao cấp (khoảng từ
1960-1985) còn xuất hiện một mô hình rất
đặc thù, trong đó quyền quyết định không
thuộc cha mẹ, cũng không thuộc con cái,
mà thuộc về chính quyền và đoàn thể. Điều
này được nhà văn Lê Lựu mô tả rất sinh
động qua số phận Giang Minh Sài, một
nhân vật trong tiểu thuyết Thời xa vắng.
Đó là khi còn nhỏ, sống ở nông thôn, Sài bị
bố mẹ và họ hàng ép duyên; lớn lên đi bộ
đội, dưới sức ép của lãnh đạo là cần giữ gìn
“lý lịch trong sạch”, Sài đành chấp nhận
chung sống với người phụ nữ mà bố mẹ đã
cưới hỏi khi xưa. Đến khi đủ sức dứt bỏ
cuộc hôn nhân qua “hai lần sắp đặt này, Sài
lại rơi vào một mối tình oan nghiệt với một
thiếu nữ ở đô thị, do sự khác nhau về lối
sống (Lê Lựu, 1986).
Cố nhiên, Giang Minh Sài chỉ là nhân
vật hư cấu, phản ánh hiện thực qua phương
pháp điển hình hóa của nghệ thuật viết tiểu
thuyết, cho nên tính đại diện và mức độ
phổ biến của hiện tượng này vẫn là một câu
hỏi chưa được giải đáp. Nhưng, theo chúng
tôi, hiện tượng Giang Minh Sài dẫu sao
cũng gợi ra như một giả thuyết, mà trong
nghiên cứu này, chúng tôi sẽ kiểm nghiệm
để biết được tính xác thực và mức độ phổ
biến của nó.
Đến thời kỳ Đổi mới, trong bối cảnh
của nền KTTT, của CNH, HĐH, TCH và
HNQT, hiện tượng “ép duyên” hay “áp
đặt” đôi khi vẫn được báo chí nêu lên,
nhưng nhìn chung việc hôn nhân đã được
tự do hơn rất nhiều. Kết quả điều tra của
Vũ Tuấn Huy và cộng sự ở một xã thuộc
đồng bằng sông Hồng năm 2003 chỉ ra
rằng, dù bố mẹ vẫn có những ảnh hưởng
NGUYỄN THỊ THU THOA – NGUYỄN THỊ HÀ
157
nhất định, song vai trò của đôi trẻ nổi lên
như là người quyết định chính trong hôn
nhân (Vũ Tuấn Huy, 2004). Liên quan đến
vai trò của con cái còn có thêm những yếu
tố mới nữa. Cuộc nghiên cứu của Khuất
Thu Hồng vào đầu thập niên 90 của thế kỷ
trước đã ghi nhận: với mô hình quyền
quyết định chuyển từ cha mẹ sang con cái,
bạn bè đã trở thành nhân vật khá quan
trọng, bởi trong nhiều trường hợp, họ
không chỉ là người giới thiệu đối tượng, mà
còn đưa ra những lời khuyên có ý nghĩa
quyết định (Khuất Thu Hồng, 1996).
Cùng với việc phân tích về nội dung
và các trạng thái khác nhau trong sự biến
đổi hôn nhân ở Việt Nam trong mấy thập
niên vừa qua, một vấn đề có ý nghĩa lý
luận và phương pháp luận cũng đã được
nhiều tác giả đặt ra – đó là việc phân kỳ sự
biến đổi hôn nhân. Có thể chia sự phân kỳ
này thành hai khuynh hướng cơ bản sau
đây:
Khuynh hướng thứ nhất, là khuynh
hướng mà theo đó các nhà nghiên cứu
thường dựa vào nguồn số liệu của một
cuộc điều tra kinh tế - xã hội hoặc một
cuộc nghiên cứu tổng thể nào đó để chỉ ra
các khía cạnh có liên quan đến chủ đề hôn
nhân. Chẳng hạn, Nelly Krowoski – một
tác giả người Pháp – với tư cách là thành
viên trong nhóm nghiên cứu làng Mông
Phụ (một làng ở đồng bằng sông Hồng) đã
dựa trên nguồn số liệu của cuộc điều tra
chung để phân chia ra các mốc thời gian là
trước năm 1945, 1945-1954, 1954-1975 và
sau 1975, qua đó đưa ra nhận định về tỷ lệ
nội hôn trong làng ngày càng giảm đi,
trong khi ngoại hôn lại tăng lên (Nelly
Krowoski, 2003). Cũng như vậy, Lê Ngọc
Văn dựa vào nguồn số liệu từ các cuộc
Tổng điều tra Dân số và Nhà ở theo chu kỳ
10 năm để đưa ra nhận định về sự biến đổi
tuổi kết hôn lần đầu ở Việt Nam qua các
điểm mốc thời gian là các năm 1989, 1999
và 2009 (Lê Ngọc Văn, 2011: 307). Ưu
điểm của khuynh hướng này là các tác giả
đã căn cứ vào các điểm mốc thời gian để
chỉ ra trạng thái và xu hướng biến đổi của
hôn nhân. Tuy nhiên, do phụ thuộc vào các
nguồn số liệu và các điểm mốc thời gian
của các chủ đề nghiên cứu khác, nên các
thành tựu thu được thường tản mạn và
thiếu đồng bộ.
Trong khi đó, các nhà nghiên cứu
thuộc khuynh hướng thứ hai lại tự xác định
các điểm mốc thời gian theo quan điểm và
mục tiêu nghiên cứu của mình. Chẳng hạn,
ở luận án tiến sĩ Các mô hình hôn nhân ở
đồng bằng sông Hồng từ truyền thống đến
hiện đại, Khuất Thu Hồng (1996) phân
chia sự biến đổi hôn nhân trên địa bàn
nghiên cứu thành ba giai đoạn: giai đoạn I
được gọi là hôn nhân truyền thống (tính từ
đầu thế kỷ đến năm 1954); giai đoạn II là
hôn nhân trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa
xã hội theo kiểu cũ (từ 1954 đến 1985); và
giai đoạn cuối cùng là hôn nhân của thời
kỳ Đổi mới (từ 1986 về sau). Cần lưu ý là,
mặc dù đã đặt ra mục tiêu và nhiệm vụ
“mô tả và phân tích một số biến đổi trong
hôn nhân ở đồng bằng sông Hồng trong thế
kỷ XX”, song tác giả không nói rõ lý do tại
sao đã lựa chọn ba điểm mốc thời gian đó.
Như vậy, tùy theo mục tiêu nghiên
cứu, mỗi tác giả hay nhóm tác giả đã đưa
ra những điểm mốc thời gian khác nhau
trong việc phân kỳ sự biến đổi hôn nhân.
Có điều, dù cho mục tiêu có khác nhau thế
nào, song khi bàn về sự biến đổi xã hội nói
chung, cũng như sự biến đổi của hôn nhân
nói riêng, người ta không thể không xác
định và so sánh sự thay đổi trạng thái của
hiện tượng ở các điểm mốc thời gian, dưới
tác động của các điều kiện chính trị - xã
M T SỐ QUAN ĐIỂM XÃ H I HỌC NGHIÊN CỨU VỀ HÔN NHÂN
158
hội riêng của chúng. Với cơ sở phương
pháp luận này, nhà nghiên cứu không chỉ
biết được sự biến đổi đã diễn ra như thế
nào, mà còn trả lời được câu hỏi tại sao
chúng đã biến đổi.
Từ góc nhìn xã hội học, hôn nhân cũng
là một thiết chế xã hội. Đó là “một phần
của văn hóa, một đoạn đã được khuôn mẫu
hóa trong nếp sống của một dân tộc”
(Joseph Fichter, 1973: 146). Như thế, cho
dù là một thiết chế phụ của gia đình, song,
với tư cách là những khuôn mẫu của nếp
sống, hai lĩnh vực hôn nhân và gia đình
đều có sự độc lập tương đối với nhau. Theo
chúng tôi, “Sự khu biệt này có ý nghĩa lý
luận và phương pháp luận rất to lớn – bởi
chỉ có như vậy chúng ta mới có thể xây
dựng được một hệ thống tri thức độc lập về
hôn nhân, đồng thời tạo ra một quan niệm
hoàn chỉnh về các qui luật và mối liên hệ
của chúng với đời sống hiện thực, từ đó
tránh được việc hòa tan hôn nhân vào trong
các nghiên cứu về gia đình mà lâu nay
chúng ta vẫn gặp” (Ngô Thị Thanh Quý,
2013: 61).
Từ cách nhìn nhận như trên, bài viết
của chúng tôi với tư cách là một nghiên
cứu trường hợp, sẽ cố gắng đi sâu phân tích
và tổng hợp nhằm góp phần xây dựng một
quan niệm, một hướng tiếp cận, cũng như
một hệ thống tri thức tương đối độc lập về
hôn nhân và biến đổi hôn nhân như chúng
cần phải có.
Hôn nhân Công giáo không chỉ liên
quan đến hai vợ chồng mà còn liên quan
đến một phạm vi rộng lớn hơn, từ họ hàng
hai bên đến xã hội, bởi vì gia đình là tế bào
căn bản của xã hội. Về mặt tôn giáo, trong
bộ luật của Hội thánh, được gọi là Giáo
luật, ban hành ngày 25/01/1983 có 111
khoản về hôn nhân. Trong đó, Giáo luật chỉ
ra những ràng buộc đối với người Công
giáo trong hôn nhân với mục đích giúp con
cái mình xây dựng một cuộc sống hôn nhân
gia đình bền vững, hạnh phúc và thánh
thiện, thể hiện lòng biết ơn gọi hôn nhân và
gia đình như ý muốn của Thiên Chúa.
Theo Giáo hội, hôn nhân được gọi là
Bí tích Hôn phối, đây là sự tác hợp vợ
chồng giữa một người nam và một người
nữ thông qua giáo quyền.Về bản chất, sự
tác hợp này là duy nhất (được gọi đơn hôn)
và vĩnh viễn (được gọi là vĩnh hôn) trong
suốt cuộc đời người nam và người nữ. Vì
vậy, khi nói về hôn nhân Công giáo trong
Giáo luật Công giáo năm 1917 đã có
những quy định cụ thể về Bí tích Hôn phối
được ghi từ điều 1055 đến điều 1072.
Chẳng hạn như trong điều 1055 khoản 1 và
khoản 2 đã quy định: “Do giao ước hôn
phối, người nam và người nữ tạo nên với
nhau một cuộc thông hiệp trọn cả cuộc
sống. Tự bản tính, giao ước hôn phối
hướng về thiện ích của đôi bạn và việc sinh
sản cùng giáo dục con cái. Chúa Kitô đã
nâng giao ước hôn phối giữa người đã chịu
phép rửa tội lên hàng bí tích”; “Bởi vậy,
giữa những người đã chịu phép Rửa tội,
không thể có khế ước hôn phối hữu hiệu
nếu đồng thời không phải là Bí tích”.
Như vậy, Giáo hội Công giáo xác định
hôn nhân là một “bí tích” . Vì vậy, nó có
tính chất thánh thiêng, việc cử hành “bí
tích hôn nhân” một cách chính thức trước
mặt Cộng đoàn giáo dân do một linh mục
cử hành khiến nó trở thành một giao ước
vĩnh cửu giữa người nam và người nữ.
Người Công giáo tin rằng khi được lãnh
nhận bí tích hôn nhân một cách chính thức,
thì đôi nam nữ sẽ được chúc phúc yêu
thương, chung thủy với nhau suốt cả đời,
trong một giao ước do chính Chúa Giêsu
đã lập. Điều này đã được nhấn mạnh trong
khoản 2 điều 1055 của Giáo luật: “Với tính
NGUYỄN THỊ THU THOA – NGUYỄN THỊ HÀ
159
chất Bí tích của hôn nhân Công giáo: Giáo
lý Công giáo luôn nhìn nhận và nhấn mạnh
tới chiều kích siêu nhiên của định chế hôn
nhân”.
Theo Giáo luật, Giáo hội sẽ không
công nhận hôn nhân khi chỉ có kết hôn dân
sự (đăng ký giá thú ngoài đời) mà không
qua lãnh nhận bí tích từ Giáo hội (tổ chức
lễ cưới trong nhà thờ). Điều này đã được
Giáo luật ghi rõ trong điều 1055 và điều
1165 với tuyên bố, giá thú như thế là vô
hiệu qua câu: “Giữa những người đã chịu
phép rửa tội, không thể có khế ước hôn
phối hữu hiệu nếu đồng thời không phải là
bí tích” [6], hay “ Những người Công giáo
chưa chịu Bí Tích Thêm Sức, thì phải lãnh
Bí Tích ấy trước khi được nhận kết hôn,
nếu có thể được và không có khó khăn
trầm trọng”[6].
Ngoài ra, Giáo luật còn nêu lên các
điều kiện của một cuộc hôn nhân Công
giáo. Theo đó, người nam và người nữ
muốn kết hôn với nhau thì phải đảm bảo
được tự do về tinh thần: Tức là họ được tự
do kết hôn, không phải chịu sức ép nào từ
bên ngoài (Gia đình, người thân, các khoản
khế ước, vay nợ). Bên cạnh đó, còn phải
được tự do về dân sự: có nghĩa là không bị
ràng buộc về mặt pháp lý hôn nhân dân sự
(như đang có hôn thú với người khác); Về
tuổi kết hôn điều 1083 quy định tại khoản 1
và khoản 2 về tuổi để kết hôn: §1 “Người
nam chưa đủ 16 tuổi, người nữ chưa đủ 14
tuổi không thể kết hôn hữu hiệu”; §2 “Hội
đồng Giám mục có quyền ấn định tuổi lớn
hơn để kết hôn hợp pháp”. Hội đồng Giám
mục Việt Nam ấn định: Nam từ 20 tuổi trở
lên, nữ từ 18 tuổi trở lên; có tôn giáo và đức
tin, người nam và người nữ phải được rửa
tội theo nghi thức Công giáo (đồng đạo),
đặc biệt trong cả hai người nam và nữ đều
phải chưa lãnh nhận bí tích hôn phối lần
nào, hoặc không còn bị ràng buộc bởi một
bí tích hôn phối trước đó (Khi chồng/ vợ
mình qua đời tự nhiên), học qua lớp giáo lý
của Giáo hội Công giáo thông qua giáo xứ
hay giáo phận và không bị vướng vào một
hay nhiều “ngăn trở” theo quy định của
Giáo Luật về hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, hôn nhân không phải chỉ
được thiết lập để mưu sự truyền sinh mà
thôi. Hôn nhân là một giao ước không thể
phá vỡ được. Điều này có nghĩa rằng, ngay
cả trong trường hợp không có con như
mong muốn thì hôn nhân vẫn tồn tại như
một quy chế và một sự chia sẻ trọn vẹn đời
sống, và vẫn giữ được giá trị và tính bất
khả phân ly của nó. Như vậy, Văn kiện
cũng đã khẳng định hai đặc tính cơ bản của
hôn nhân Công giáo là tính đơn hôn và tính
vĩnh hôn.
2.2. Quan điểm của các học giả Công
giáo và ngoài công giáo nghiên cứu về
hôn nhân
Nguồn tài liệu của các giáo sĩ và
những học giả Công giáo viết về hôn nhân
cũng khá nhiều, đầu tiên có thể kể đến một
số công trình tiêu biểu như: Hôn nhân
Công giáo của Toà giám mục Xuân Lộc,
Hôn nhân và gia đình của Tòa Giám mục
Long Xuyên, Giảng trong lễ hôn phối của
Linh mục Nguyễn Hữu Triết; Tin mừng
cho đôi tân hôn, Hôn nhân Kitô giáo
(1998) của Phao-lô Nguyễn Bình Tĩnh và
linh mục Xuân BíchNhìn chung tác giả
của các công trình trên đều cho rằng, với
người Công giáo, hôn nhân chính là một bí
tích. Chính Thiên Chúa đã dùng quyền
năng liên kết họ với nhau bởi thế họ không
được bỏ nhau vì bất cứ lý do gì. Quan niệm
này xuất phát từ đặc tính và mục đích của
hôn nhân Công giáo.
Linh mục Nguyễn Công Vinh trong
cuốn Tìm hiểu giáo luật về hôn nhân và gia
M T SỐ QUAN ĐIỂM XÃ H I HỌC NGHIÊN CỨU VỀ HÔN NHÂN
160
đình(năm 2009), cũng đã xem xét mọi góc
cạnh của hôn nhân công giáo trong mối
tương quan với giáo luật như: Sống chung
trước hôn nhân, không thể làm giấy kết
hôn dân sự, kết hôn theo giáo luật nhưng
không đăng ký kết hôn dân luật, khám sức
khỏe trước khi kết hôn, hay quy định về
giáo lý chuẩn bị hôn nhânCũng giống
như cuốn Giáo lý về hôn nhân Công giáo
thì cuốn sách này giúp cho mọi người tiếp
cận với hôn nhân Công giáo trên cả hai
phương diện Giáo luật và Dân luật.
Ngoài ra, trong một tác phẩm khác
Tình yêu hôn nhân, Nxb Phương Đông năm
2014, Linh mục Nguyễn Công Vinh cũng
đã viết về hôn nhân trong chương trình của
Thiên Chúa giáo từ việc nêu lên ý nghĩa và
mục đích của hôn nhân Công giáo tác giả
đã khái quát rằng: “ hôn nhân Công giáo
phải theo tinh thần và lề luật của Hội thánh
thể hiện ở các yếu tố quan trọng như: Sự tự
do, khả năng tính dục, tình yêu chung thủy,
đức tin, một số quy định có tính cách pháp
luật để bảo vệ hôn nhân”, trong đó tác giả
cũng có nói đến tuổi kết hôn theo Giáo luật
đối với người nam từ 16 tuổi trở lên và
người nữ từ 14 tuổi trở lên, tuy nhiên tác
giả cũng cho rằng: “Dù đã đủ tuổi Giáo luật
nhưng chưa đủ tuổi Dân luật thì Hội thánh
khuyên nên theo Dân luật” - GL 1083.
Chủ đề hôn nhân của người Công giáo
còn được nêu ra trong bản tin chuyên đề
Hiệp thông. Trong các nghiên cứu này,
dưới nhãn quan của người Công giáo, các
tác giả đã đề cập đến những vấn đề của hôn
nhân Công giáo như bí tích hôn nhân, tính
dục, hôn nhân đồng tính, ly hôn đã bước
đầu được nêu ra và phân tích. Mặc dù vậy,
những bản tin này chỉ dừng ở việc nêu lên
đặc điểm của hôn nhân Công giáo và những
sự kiện chỉ mang tính chất cung cấp thông
tin chứ chưa có những phân tích, đánh giá,
nhận định về giá trị cũng như những hạn
chế của từng vấn đề được nêu ra [12].
Nhìn chung, các nghiên cứu kể trên
giúp chúng ta hiểu được một cách căn bản
về quan niệm hôn nhân của người Công
giáo, làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận quan
trọng về hôn nhân, gia đình Công giáo. Các
tác giả bước đầu cũng đã chỉ ra những giá
trị văn hoá, đạo đức của Công giáo nói
chung và giá trị của hôn nhân, gia đình
Công giáo nói riêng trong quá trình hội
nhập với văn hóa dân tộc Việt Nam hiện
nay. Từ đó, giúp chúng ta hiểu rằng theo
Giáo luật quy định thì Hôn nhân chính là
một bí tích đối với người Công giáo. Trong
đó, bí tích được hiểu là: “Những dấu hiệu
hữu hình được Chúa Ki tô dùng để ban ân
sủng cho loài người” [8, tr6]. Khi kết hôn,
vợ chồng không còn là hai mà nên một.
Chính Thiên Chúa đã dùng quyền năng để
liên kết họ với nhau bởi thế mà họ không
được bỏ nhau vì bất cứ lý do gì.
Năm 2010, kỷ yếu hội thảo “Nếp sống
đạo của người Công giáo Việt Nam” do
Viện nghiên cứu Tôn giáo tổ chức đã được
xuất bản thành sách do tác giả Nguyễn
Hồng Dương chủ biên. Công trình là tuyển
tập của 27 báo cáo của các nhà nghiên cứu
về đạo Công giáo ở Việt Nam, trong đó có
bài viết của tác giả Lê Đức Hạnh về đề tài:
“Hôn nhân Công giáo: quá trình hình thành
một bí tích”. Trong bài viết này, tác giả đi
vào tìm hiểu hôn nhân với tư cách là một bí
tích và quá trình hình thành của nó. Tuy
nhiên, như chính tác giả tự nhận xét, đây
mới chỉ là những tìm hiểu “ban đầu vè sự
ra đời của hôn nhân Công giáo và quá trình
nó trở thành một trong 7 bí tích như thế
nào”[5,tr274].
Đặc biệt, cuốn sách Hôn nhân trong xã
hội Việt Nam đương đại (năm 20116) của
Nguyễn Hữu Minh. Đây là một công trình
NGUYỄN THỊ THU THOA – NGUYỄN THỊ HÀ
161
chuyên khảo của tác giả nhằm đóng góp
thêm những tri thức mới, làm rõ nét hơn
bức tranh toàn cảnh về những thay đổi
trong đời sống hôn nhân ở Việt Nam trong
giai đoạn vừa qua. Trong đó, ở phần Lựa
chọn bạn đời và kết hôn: truyền thống và
biến đổi, tác giả tập trung đi tìm hiểu về
khuôn mẫu lựa chọn bạn đời trong xã hội
Việt Nam truyền thống và trong xã hội
đương đại dựa trên các kết quả nghiên cứu
từ số liệu điều tra trong cuộc Điều tra gia
đình Việt Nam năm 2006. Các kết quả
nghiên cứu cũng gợi ra rằng: “Việc theo
đạo Thiên chúa giáo làm giảm khả năng tự
do lựa chọn bạn đời trong hôn nhân so với
những người còn lại” (Nguyễn Hữu Minh,
1999; Lê Ngọc Văn, 2007). Ngoài ra, yếu
tố tôn giáo cũng có tác động đáng kể đến
quyền quyết định trong hôn nhân của các
cá nhân. Những thành viên trong các gia
đình theo Công giáo thường có hôn nhân
do cha mẹ sắp xếp hơn là những người
không theo Công giáo. Lý do, là những bậc
cha mẹ trong các gia đình theo đạo có xu
hướng muốn kiểm soát con chặt chẽ hơn để
đảm bảo con mình sẽ lấy vợ lấy chồng
cùng tôn giáo, do đó sẽ không bị mất đạo.
Bởi vì đã từ rất lâu nhiều tôn giáo coi hôn
nhân trong cùng tôn giáo là một phương
thức duy trì và phát triển tôn giáo mình.
(dẫn theo Nguyễn Hữu Minh, 2016).
Hơn nữa, dựa vào kết quả nghiên cứu
từ số liệu điều tra gia đình Việt Nam năm
2006 tác giả Nguyễn Hữu Minh đã nhận
xét rằng: “Yếu tố tôn giáo có tác động nhất
định đến tuổi kết hôn. Cụ thể, kết quả
nghiên cứu ở khu vực đồng bằng Sông
Hồng cho thấy những người theo đạo Công
giáo thường kết hôn sớm hơn so với những
người không theo đạo Công giáo. Trong
đó, tác động của việc theo đạo Công giáo
đối với nữ mạnh hơn so với nam có lẽ vì
phụ nữ theo đạo Công giáo phải chịu nhiều
áp lực từ phía gia đình hơn để lấy chồng
cùng tôn giáo. Bởi vì, theo phong tục
truyền thống ở vùng đồng bằng sông Hồng
cô dâu thường về nhà chồng sau khi kết
hôn. Vì thế, các bậc cha mẹ e ngại rằng nếu
con gái họ cưới một người chồng không
theo Công giáo thì sẽ không còn gắn bó với
tôn giáo của họ nữa” [9, Tr111].
3. Kết luận
Như vậy, có thể nói nguồn tư liệu
nghiên cứu về hôn nhân nói chung và
phong tục hôn nhân nói riêng là rất phong
phú, đa dạng. Sự vận hành và biến đổi của
các mô hình hôn nhân không phải ngẫu
nhiên, mà đều có những nguyên nhân trực
tiếp hoặc sâu xa của nó. Chúng ta biết,
trong xã hội con người không chỉ sống với
những phong tục, tập quán mà các thế hệ
cha ông để lại, họ còn chịu sự chi phối bởi
các giá trị và chuẩn mực của thời đại mà
mình đang sống.Do vậy, cần có nhiều
nghiên cứu chuyên sâu về hôn nhân bằng
việc vận dụng các lý thuyết, hay các phương
pháp tiếp cận định lượng nhằm giúp cho
người đọc nhận thức được mức độ phổ biến
hay không phổ biến của hiện tượng cũng
như sự khác biệt giữa các nhóm xã hội về
hiện tượng được nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Thị Ngọc Anh (2015), Giá trị của hôn
nhân và gia đình Công giáo ở Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
2. Cộng đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ về
Hội thánh trong thế giới ngày nay.
3. Nguyễn Văn Dụ (2006), Hội nhập văn hóa
trong hôn nhân và gia đình Việt Nam theo
Tông huấn Familiaris Con sortio, Trung tâm
mục vụ Việt Nam – Italia.
4. Nguyễn Hồng Dương (2001), Nghi lễ và lối
sống Công giáo trong văn hóa Việt Nam, Nxb
M T SỐ QUAN ĐIỂM XÃ H I HỌC NGHIÊN CỨU VỀ HÔN NHÂN
162
KHXH, Hà Nội.
5. Nguyễn Hồng Dương (2010), Nếp sống đạo
của người Công giáo Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội.
6. Giáo luật năm 1983. Nxb.Trái tim Đức Mẹ
7. Gioan PhaolôII (2003), Tông huấn đời sống
gia đình.
8. Hội đồng Giám mục Việt Nam (1992), Giáo lý
Hội thánh Công giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
9. Nguyễn Hữu Minh (2016), Hôn nhân trong xã
hội việt nam đương đại, Nxb Khoa học xã hội.
10. Luật hôn nhân và Gia đình, 2014.
11. Phaolô Nguyễn Bình Tĩnh (1995), Hôn nhân
Kitô giáo, Tòa giám mục Đà Nẵng.
12. Viện thông tin khoa học – trung tâm khoa học
về tín ngưỡng và tôn giáo (1997), Những đặc
điểm cơ bản của một số tôn giáo lớn ở Việt
Nam (Thông tin chuyên đề), Hà Nội. tr.223.
13. Từ điển Công giáo phổ thông, Tủ sách đại kết.
14. Từ điển Xã hội học Oxford, 2010.
Ngày nhận bài: 28/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21_7426_2215073.pdf