Tài liệu Một số nhận xét điều trị sẹo không mọc tóc, u hắc tố vùng có tóc bằng phương pháp giãn mô: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
42
MỘT SỐ NHẬN XÉT ĐIỀU TRỊ SẸO KHÔNG MỌC TÓC,
U HẮC TỐ VÙNG CÓ TÓC BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIÃN MÔ
Phạm Trịnh Quốc Khanh*, Võ Kết Đạt*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Phục hồi vùng có tóc trên những bệnh nhân bị sẹo không mọc tóc, u vùng có tóc và hói đầu khu
trú bằng phương pháp giãn mô.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, áp dụng phương pháp giãn mô để điều trị 15
bệnh nhân bị sẹo không mọc tóc, u da vùng có tóc và hói đầu khu trú.
Kết quả: Chúng tôi đã thực hiện phẫu thuật tạo hình tái tạo vùng có tóc trên 15 bệnh nhân (13 nữ) bằng
phương pháp giãn mô vì sẹo bỏng (9 bệnh nhân), sẹo chấn thương, và sang thương khác. Số lượng túi được đặt
tối đa trên một bệnh nhân là 2 túi (gồm 7 bệnh nhân, trong đó có 5 bệnh nhân bỏng). Có 3 trường hợp lộ van
trong quá trình bơm túi nhưng không ảnh hưởng đến kết quả. Kết quả cho thấy 100% vạt giãn mô có chất lượng
tốt và đủ để che phủ các tổn khuyết da được tạo ra...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 29/06/2023 | Lượt xem: 429 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nhận xét điều trị sẹo không mọc tóc, u hắc tố vùng có tóc bằng phương pháp giãn mô, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
42
MỘT SỐ NHẬN XÉT ĐIỀU TRỊ SẸO KHÔNG MỌC TÓC,
U HẮC TỐ VÙNG CÓ TÓC BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIÃN MÔ
Phạm Trịnh Quốc Khanh*, Võ Kết Đạt*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Phục hồi vùng có tóc trên những bệnh nhân bị sẹo không mọc tóc, u vùng có tóc và hói đầu khu
trú bằng phương pháp giãn mô.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, áp dụng phương pháp giãn mô để điều trị 15
bệnh nhân bị sẹo không mọc tóc, u da vùng có tóc và hói đầu khu trú.
Kết quả: Chúng tôi đã thực hiện phẫu thuật tạo hình tái tạo vùng có tóc trên 15 bệnh nhân (13 nữ) bằng
phương pháp giãn mô vì sẹo bỏng (9 bệnh nhân), sẹo chấn thương, và sang thương khác. Số lượng túi được đặt
tối đa trên một bệnh nhân là 2 túi (gồm 7 bệnh nhân, trong đó có 5 bệnh nhân bỏng). Có 3 trường hợp lộ van
trong quá trình bơm túi nhưng không ảnh hưởng đến kết quả. Kết quả cho thấy 100% vạt giãn mô có chất lượng
tốt và đủ để che phủ các tổn khuyết da được tạo ra sau khi cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ sang thương, không có
trường hợp nào vạt giãn mô bị hoại tử; sẹo mổ tốt 86,7%, trừ những trường hợp trẻ em (2 bệnh nhân) sẹo bị giãn
trung bình do hộp sọ tiếp tục phát triển.
Kết luận: Đây là phương pháp hiệu quả cho phép phục hồi vùng mọc tóc sau khi cắt bỏ các sang thương
vùng đầu có tóc.
Từ khóa: phương pháp giãn mô, sẹo không mọc tóc, u vùng có tóc, hói đầu
ABSTRACT
EXPERIENCES ON TREATMENT FOR SCARS AND MELANOCYTE NAEVI OF SCALP
BY TISSUE EXPANSION
Pham Trinh Quoc Khanh, Vo Ket Dat
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 – No. 6 - 2019: 42 - 49
Objective: Restoration of the skin of the scalp with hair on patients which have scars or melanocyte naevi of
the scalp and localized alopecie by tissue expansion.
Methods: Descriptive study, practise the tissue expansion in treatment 15 patients which have scars or
melanocyte naevi of the scalp and localized alopecie.
Results: We did the reconstruction of the skin with hair of scalp by tissue expansion on 15 patients (13
women) which have burn scars, traumatic scars and other lesions. Maximal used tissue expanders are 2
expanders/one patient (7 patients, there are 5 burn patients). There are 3 cases which have valve exposure, but no
one was removed the expander. The results showed that all flaps after tissue expansion (100%) had size and
quality sufficient to cover skin defects being created by the removal of part or all of the lesions ; all the flaps don’t
have necrosis; the scars are good (86.7%) except two cases of children, the scars were dilated by their skull
continues to grow.
Conclusion: This method is effective for restoration of the skin with hair of the scalp after the removal of
lesions of the scalp.
Keywords: tissue expansion, scars of the scalp, melanocyte nevi of the scalp, localized alopecia
*Khoa Bỏng – Tạo hình Thẩm mỹ, Bệnh viện Trưng Vương
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Phạm Trịnh Quốc Khanh ĐT: 0918 394 362 Email: ptqkhanh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
43
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật tạo hình vùng đầu - cổ là thách
thức đối với các phẫu thuật viên tạo hình vì đây
là vùng cơ thể lộ ra ngoài, những khiếm khuyết
ở vùng này rất khó che dấu và phẫu thuật viên
phải có kỹ năng tốt hơn so với những phẫu thuật
viên can thiệp trên những vùng khác của cơ
thể(2). Việc che phủ các tổn thương khiếm khuyết
da sau phẫu thuật (sau cắt bỏ sẹo bỏng, sẹo xâm,
sau cắt bỏ u mạch máu da), đòi hỏi phải có chất
liệu da để thay thế. Nhưng trong nhiều trường
hợp, các phẫu thuật viên không lựa chọn được
vùng cho da thích hợp, hoặc chọn được vùng
cho da nhưng hậu quả là để lại sẹo nơi cho da
quá lớn và mất thẩm mỹ. Đặc biệt ở vùng đầu,
phục hồi lại vùng có tóc còn gặp nhiều khó
khăn(8,12).
Theo Mathes và Nahai, vạt giãn mô là 1
trong 3 đỉnh của tam giác phẫu thuật tạo hình, 2
đỉnh còn lại là vạt tại chỗ và vạt vi phẫu(2,7).
Phương pháp giãn mô cho phép tạo ra mô mới
gần như hoàn thiện cả về màu sắc, cảm giác, và
đầy đủ các phần phụ của da (lông, tuyến bã,
tuyến mồ hôi). Ưu điểm lớn nhất của phương
pháp giãn mô là hạn chế sẹo tại vùng cho da và
tổ chức(13,11).
Đối với tổn thương vùng đầu (u hắc tố bẩm
sinh, sẹo không mọc tóc vùng đầu, hói), việc
phục hồi vùng da có tóc là một nhu cầu bức
thiết, phương pháp giãn mô là kỹ thuật tốt nhất
cho phép tái tạo vùng da có tóc(5,8).
Chúng tôi đã tiến hành ứng dụng phương
pháp giãn mô tại Bệnh Viện Trưng Vương để tái
tạo vùng mọc tóc với các mục tiêu đánh giá kết
quả vạt da che phủ tổn thương và đánh giá kết
quả sẹo sau mổ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
15 bệnh nhân (BN) có sẹo không mọc tóc
vùng đầu sau chấn thương, sau bỏng hoặc u hắc
tố lớn và hói đầu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những bệnh nhân không chấp nhận được
tình trạng biến dạng vùng da và mô được giãn.
Những bệnh nhân không thể theo đuổi điều
trị đến cùng.
Bệnh nhân có tổn thương ác tính vùng đầu
không cho phép thực hiện trì hoãn phẫu thuật.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca.
Phương tiện kỹ thuật
Túi giãn mô với các kích cỡ khác nhau.
Nước muối sinh lý.
Các phương tiện phục vụ cho phẫu thuật
thường quy.
Kỹ thuật
Gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1
Phẫu thuật đặt túi giãn mô; túi được đặt
dưới cân Galea, trên màng xương và bên dưới
vùng có tóc, bơm túi giãn khoảng 1/10-1/8 thể
tích túi.
Giai đoạn 2
Bơm túi giãn mô dần dần, thời điểm bơm túi
giãn bắt đầu từ ngày 10 -14 sau mổ, sau đó mỗi
tuần bơm một lần, thể tích bơm khoảng 1/8-1/6
thể tích túi giãn.
Giai đoạn 3
Phẫu thuật lấy túi giãn, phẫu thuật che phủ,
thời điểm che phủ khoảng 1 tuần sau bơm túi
giãn lần cuối.
Thu thập số liệu - Đánh giá kết quả
Làm bệnh án nghiên cứu khoa học cho từng
bệnh nhân. Đánh giá kết quả bao gồm: vạt da,
sẹo mổ, biến chứng.
Vạt da
Tốt: vạt da sống hoàn toàn, không có hiện
tượng hoại tử, nhiễm trùng, nổi bóng nước
trên vạt.
Trung bình: hoại tử một phần vạt (<50%),
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
44
toác một phần vạt, nổi bóng nước trên vạt.
Xấu: hoại tử gần hết hoặc toàn bộ vạt, và
phải thay thế bằng chất liệu khác.
Sẹo mổ
Tốt: đường sẹo nhỏ, bề ngang sẹo dưới 5mm.
Trung bình: bề ngang đường sẹo từ 5mm
đến 10mm.
Xấu: bề ngang đường sẹo trên 10mm.
Biến chứng: ghi nhận các biến chứng
Biến chứng nặng: cần được giải quyết bằng
phẫu thuật.
Hở vết mổ và lộ túi giãn mô.
Thiếu máu và hoại tử mô.
Nhiễm trùng.
Túi bị hỏng.
Biến chứng nhẹ: không cần giải quyết bằng
phẫu thuật.
Tụ máu và huyết thanh.
Đau: thường chỉ thoáng qua, và sẽ giảm
trong vòng 12-16giờ.
Thu thập – xử lý số liệu
Thu thập số liệu qua bệnh án nghiên cứu
khoa học cho từng bệnh nhân.
Xử lý số liệu bằng chương trình Stata 10.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu mô tả kết quả thực hiện trên 15
bệnh nhân, tuổi từ 9 đến 31 tuổi, trung bình 21,3
± 5,1 tuổi. Tỉ số giới tính là 13 nữ/2 nam (Hình 1).
Hình 1. Phân bố giới tính
Loại thương tổn
Chúng tôi gặp chủ yếu là sẹo bỏng và sẹo
chấn thương, các sang thương khác chiếm tỉ lệ
thấp hơn (Hình 2).
Hình 2. Số lượng bệnh nhân cho từng thương tổn
Số lượng túi giãn mô sử dụng cho một BN
Sử dụng 1 túi cho 8 BN và 2 túi cho 7 BN.
Bảng 1. Tương quan giữa loại thương tổn và số túi
được đặt
Loại thương tổn
Số bệnh nhân
Đặt 1 túi Đặt 2 túi
Bỏng 4 5
Bớt 1 0
Hói 2 0
Sẹo sau nhiễm trùng 0 1
Tai nạn giao thông 1 1
Tổng 8 7
p 0,713
Chúng tôi ghi nhận không có sự tương quan
có ý nghĩa giữa số túi được sử dụng và loại
thương tổn (Bảng 1, Hình 3 & 4).
Hình 3. BN NLTTT, 21 tuổi, sẹo bỏng, đặt 2 túi giãn
mô vùng trán đỉnh và vùng chẩm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
45
Hình 4. BN PTLP, 21 tuổi, sẹo bỏng, đặt 1 túi giãn
mô vùng đỉnh trán
Đường mổ đặt túi
Chúng tôi thực hiện đường mổ trên nền
sang thương (vùng sẹo, vùng hói, vùng u hắc
tố) song song và cách mép sang thương 2-3cm.
Túi được đặt hoàn toàn trong vùng có tóc, bờ túi
cách mép vùng có tóc bằng khoảng chiều cao
túi cộng thêm 2-3cm. Van bơm túi được đặt
dưới nền sang thương.
Loại vạt da được áp dụng
Có 7 bệnh nhân được sử dụng nhiều loại
vạt tại chỗ trên nền mô giãn để che phủ các tổn
khuyết da sau cắt bỏ sang thương (Hình 5,
Bảng 2).
Chúng tôi ghi nhận không có sự tương quan
có ý nghĩa giữa loại vạt dược sử dụng và loại
thương tổn.
Hình 5. Các loại vạt được sử dụng
Bảng 2. Tương quan giữa loại thương tổn và loại vạt
được sử dụng
Loại thương tổn
Loại vạt
Nhiều loại
vạt
Vạt
hoán vị
Vạt xê
dịch
Vạt
xoay
Bỏng 5 1 1 2
Bớt 0 0 0 1
Hói 0 0 2 0
Sẹo sau nhiễm trùng 1 0 0 0
Tai nạn giao thông 1 0 1 0
Tổng 7 1 4 3
p 0,42
Kết quả
Các vạt da
Trong quá trình bơm túi định kỳ, chúng tôi
không ghi nhận trường hợp nào bị nhiễm
trùng hoặc hoại tử vùng da giãn. 100% các vạt
giãn mô có chất lượng tốt và đủ để che phủ
hoàn toàn các tổn khuyết da được tạo ra sau
khi cắt bỏ sang thương (15/15 bệnh nhân).
Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào bị
nhiễm trùng, hoại tử vạt (Hình 6, 7, 8).
Hình 6. BN PNLA, 9 tuổi, sẹo bỏng vùng đỉnh. (A): Trước khi đặt túi giãn mô, (B): Sau khi được phẫu thuật cắt
sẹo và chuyển vạt giãn mô
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
46
Hình 7. BN LTV, 20 tuổi. (A): Trước khi thu ngắn vùng trán, (B): Sau khi thu ngắn vùng trán và chuyển vạt
giãn mô
Hình 8. BN ĐTTS, 21 tuổi, bớt sắc tố lớn vùng thái dương T. (A): Trước phẫu thuật, (B): Sau khi cắt bỏ phần u
hắc tố và chuyển vạt giãn mô
Sẹo mổ
Hình 9. Phân bố kích thước bề ngang sẹo sau phẫu
thuật chuyển vạt da
Đa số các trường hợp sẹo mổ tốt, có bề
ngang dưới 5mm: 13/15 BN = 86,7%. Hai
trường hợp có sẹo từ 5-10mm. Đây là trường
hợp hai bé gái, một bị sẹo chấn thương (9 tuổi,
đây là bệnh nhân đầu tiên chúng tôi thực hiện
phương pháp giãn mô từ 6-8/2002) và một bị
sẹo bỏng (14 tuổi) các bé gái này bị giãn sẹo
sau 1-2 năm theo dõi, nguyên nhân là do hộp
sọ phát triển tiếp sau khi làm phương pháp
giãn mô. Do đó, chúng tôi nhận thấy tuổi bệnh
nhân nên được xem là một tiêu chuẩn để chọn
lựa bệnh nhân (Hình 9).
Biến chứng
Biến chứng nặng
Chúng tôi chỉ gặp biến chứng lộ van xảy ra
trên 2 BN bị sẹo bỏng và 1 bệnh nhân sẹo chấn
thương; trong đó 1 bệnh nhân bị sẹo bỏng được
đặt hai túi giãn mô nhưng chỉ lộ 1 van, chiếm tỉ
lệ 3/22 túi = 13,6% (Hình 10).
Biến chứng nhẹ
Tụ máu, huyết thanh: chúng tôi không gặp
trường hợp nào.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
47
Đau: 100% bệnh nhân đều than đau và khó
chịu trong những ngày đầu sau mổ và sau mỗi
lần bơm túi.
Hình 10. BN NTHM, 31 tuổi, sẹo chấn thương, bị lộ
van giãn mô
BÀN LUẬN
Đặc điểm bệnh nhân
Trong nghiên cứu của chúng tôi, lứa tuổi
trung bình của chúng tôi 21,3 ± 5,1 tuổi. Tỉ số giới
tính là 13 nữ/2 nam. Với kết quả trên cho thấy
lứa tuổi thanh niên và đặc biệt là nữ giới quan
tâm đến vấn đề hình dáng bên ngoài hơn những
lứa tuổi khác, kết quả này cũng phù hợp với ghi
nhận của tác giả Phạm Trịnh Quốc Khanh(8),
Trần Thiết Sơn(13).
Loại thương tổn
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, các
thương tổn chủ yếu là sẹo bỏng và sẹo chấn
thương, các sang thương khác chiếm tỉ lệ thấp
hơn. Kết quả trên cũng phù hợp với nghiên cứu
của các tác giả khác, sẹo không mọc tóc sau bỏng
và chấn thương là những sang thương thường
cần đến sự can thiệp của bác sĩ phẫu thuật(8,13,11).
Theo Dawn D. Wells và cộng sự cũng như theo
Jeffrey E. Janis, Bridget Harrison phương pháp
giãn mô là lựa chọn cần được xem xét chọn lựa
để điều trị u hắc tố lớn (>25 cm2) vùng đầu(1,4,7,7).
Theo Janis JE, Bridget Harrison và cũng theo
Maher đã ghi nhận phương pháp giãn mô có thể
cải thiện tình trạng hói cũng như các khuyết
hổng vùng da có tóc (đặc biệt trên tổn thương
bỏng) lên đến 50% vùng đầu(5,7,8).
Số lượng túi giãn mô sử dụng cho một BN
Chúng tôi sử dụng 1-2 túi mỗi bệnh nhân. Số
lượng túi và kích thước túi được lựa chọn tuỳ
thuộc vào kích thước sẹo và kích thước vùng da
có tóc còn lại; kết quả này cũng phù hợp với
nhận định của Phạm Trịnh Quốc Khanh(8), Trần
Thiết Sơn(13). Vị trí đặt túi được tính toán dựa
theo các cuống mạch máu để sử dụng để chuyển
vạt sau này.
Đường mổ đặt túi
Chúng tôi thực hiện đường mổ trên nền sang
thương (vùng sẹo, vùng hói, vùng u hắc tố) song
song và cách mép sang thương 2-3cm. Túi được
đặt hoàn toàn trong vùng có tóc, bờ túi cách mép
vùng có tóc bằng khoảng chiều cao túi cộng
thêm 2-3cm. Đường mổ này đã được một số các
tác giả khuyến cáo nên dùng tùy theo chọn lựa
của phẫu thuật viên(11).
Loại vạt da được áp dụng
Chúng tôi thực hiện kết hợp nhiều loại vạt
trên các bệnh nhân có sang thương không mọc
tóc lớn, được đặt hai túi giãn mô. Việc chọn lựa
các vạt da ngoài mục đích nhằm che phủ vùng
sang thương không mọc tóc mà còn phải chọn
lựa vạt da theo hướng mọc của tóc theo từng
vùng, tránh hậu quả tóc mọc ngược(11). Việc sử
dụng các vạt da tại chỗ với vạt mô giãn là lựa
chọn tốt nhất cho việc che phủ các sang thương
khiếm khuyết da vùng có tóc(21,9,10).
Kết quả
Các vạt da
Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi,
chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào bị
nhiễm trùng hoặc hoại tử vùng da giãn trong
quá trình bơm túi định kỳ. Tất cả các vạt giãn
mô có chất lượng tốt và đủ để che phủ hoàn
toàn các tổn khuyết da được tạo ra sau khi cắt
bỏ sang thương (15/15 bệnh nhân). Chúng tôi
không ghi nhận trường hợp nào bị nhiễm
trùng, hoại tử vạt.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù
hợp với nhận định của Phạm Trịnh Quốc
Khanh, Trần Thiết Sơn, Bauer BS, Marks MW
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019
48
and Marks C(8,11). Kết quả trên cũng phù hợp với
nhận định của Leedy JE và phương pháp giãn
mô thường cho kết quả rất tốt để tái tạo vùng da
đầu(7). Theo Donelan MB and Liao EC, phương
pháp giãn mô là phương pháp lý tưởng để điều
trị sẹo bỏng vùng đầu(9).
Biến chứng
Biến chứng nặng
Với biến chứng lộ van xảy ra trên 2 bn bị sẹo
bỏng và 1 bệnh nhân sẹo chấn thương; trong đó
1 bệnh nhân bị sẹo bỏng được đặt hai túi giãn
mô nhưng chỉ lộ 1 van, chiếm tỉ lệ 3/22 túi =
13,6%. Biến chứng lộ van do hoại tử mô sẹo nằm
phía trên van, và xảy ra vào tuần thứ 6-7 sau mổ
lần đầu. Tuy nhiên không có trường hợp nào
hoại tử hoặc nhiễm trùng nặng dẫn đến phải
tháo bỏ túi sớm. Kết quả trên phù hợp với nhận
định của Harvey Chim và Arun K. Gusain: biến
chứng của phương pháp giãn mô từ 13-20%(7).
Biến chứng nhẹ
Tụ máu, huyết thanh: chúng tôi không gặp
trường hợp nào.
Đau: tất cả bệnh nhân đều than đau và khó
chịu trong những ngày đầu sau mổ, đây là hậu
quả của bất kỳ một phương pháp phẫu thuật
nào, tuy nhiên bệnh nhân có thể chịu đựng
được, và đau sẽ giảm dần sau 2-3 ngày. Đau
cũng xảy ra sau mỗi lần bơm túi, nhưng sẽ hết
sau khoảng 1-2 ngày. Tình trạng đau đặc biệt
phải được chú ý trong quá trình bơm, vì đây là
một trong những dấu hiệu của tình trạng bơm
quá căng, cần kết hợp với đánh giá tuần hoàn da
qua màu sắc vùng da trên túi (nếu da trắng xanh
chứng tỏ động mạch bị chèn ép, nếu da sậm
màu chứng tỏ tuần hoàn tĩnh mạc bị yếu), và kết
hợp với nghiệm pháp dấu ấn ngón tay.
KẾT LUẬN
Ưu điểm
Qua kết quả thu được, chứng minh thêm
rằng đây là phương pháp hiệu quả hiện nay
cho phép tạo ra tổ chức da để che phủ các tổn
khuyết da.
Phương pháp này đặc biệt hiệu quả cho các
trường hợp phục hồi tái tạo vùng da có tóc cho
các tổn thương sẹo không mọc tóc vùng đầu, hói
đầu khu trú: 100% các vạt da có tóc đều sống tốt.
Sẹo mổ nhỏ, thẩm mỹ, bệnh nhân chấp nhận
được 86,7%. Tuy nhiên, các bệnh nhân nhỏ tuổi
(<15 tuổi) có kết quả sẹo trung bình sau 2 năm
theo dõi, do đó, tuổi là một yếu tố cần xem xét
khi chỉ định thực hiện phẫu thuật này để tránh
kết quả sẹo xấu do giãn sẹo.
Khó khăn
Trong phẫu thuật, chúng tôi nhận thấy có
những khó khăn sau:
Đối với những sang thương lớn vùng da
lành có tóc còn lại không đủ để đặt túi giãn mô
lớn một lần, chúng tôi phải can thiệp hai lần mới
có thể giải quyết hết sang thương.
Thời gian mang túi kéo dài, nên số lượng
bệnh nhân chấp nhận thực hiện cũng bị hạn chế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dawn DW, John LB, Kendall RR (2014), Congenital Nevi.
Essentiasl of Plastic Surgery, pp.211-214. Quality Medical
Publishing Inc.
2. Deniz B, Amanda AG (2014). Basic of Flaps. Essentiasl of Plastic
Surgery, pp. 24-44. Quality Medical Publishing Inc.
3. Guilherme JC, Nicholas B, and Howard NL (2014).
Reconstruction of the Scalp, Calvarium and Forehead, Grabb
and Smith’s Plastic Surgery. Lippncott Williams and Wilkins,
pp.342-351.
4. Harvey C and Arun KG (2014). Congenital Melanocytic Nevi,
Grabb and Smith’s Plastic Surgery. Lippncott Williams and
Wilkins, pp.200-205.
5. Janae LM, Raman CM, Joshua AL (2014). Tissue Expansion.,
Essentiasl of Plastic Surgery, pp.57-66. Quality Medical Publishing
Inc.
6. Jason EL, Smita RR, Jeffrey EJ (2014). Scalp and Calvarian
Reconstruction. Essentiasl of Plastic Surgery, pp.382-391. Quality
Medical Publishing Inc.
7. Jeffrey EJ, Bridget H (2014). General Management of Complex
Wounds. Essentiasl of Plastic Surgery, pp.10-16. Quality Medical
Publishing Inc.
8. Mathew BK (2014). Thermal, Chemical and Electrical Injuries,
Grabb and Smith’s Plastic Surgery. Lippncott Williams and
Wilkins, pp.127-141.
9. Matthias BD and Eric CL (2014), Priciples of Burn
Reconstruction, Grabb and Smith’s Plastic Surgery. Lippncott
Williams and Wilkins, pp.142-155.
10. Phạm Trịnh Quốc Khanh (2005). Nhận xét kỹ thuật vạt da giãn
trong phẫu thuật tạo hình tại Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương.
Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng, 3:52-63.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 6 * 2019 Nghiên cứu Y học
49
11. Randal WS (2007). Controlled tissue expansion in facial
reconstruction. Baker-Local Flaps in Facial Reconstruction,
pp.667-678. Mosby Company.
12. Reza K, John LB J (2014). Burns. Essentiasl of Plastic Surgery,
pp.195-202. Quality Medical Publishing Inc.
13. Trần Thiết Sơn (2002). Vạt giãn mô trong phẫu thuật sẹo di
chứng bỏng. Tạp chí Thông tin Y Dược, 12: 126-130.
14. Trần Thiết Sơn (2005). Vạt tổ chức giãn, Phẫu Thuật Tạo Hình.
Nhà xuất bản Y học, pp.67-71.
Ngày nhận bài báo: 10/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 05/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_nhan_xet_dieu_tri_seo_khong_moc_toc_u_hac_to_vung_co.pdf