Tài liệu Một số mô hình đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở Việt Nam hiện nay - Nguyễn Văn Tuấn: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
Ngày nhận bài: 4/3/2017. Ngày phản biện: 10/3/2017. Ngày duyệt đăng: 15/3/2017
(1) Trường Cao đẳng nghề GTVT Trung ương I; e-mail: nguyentuancdgtvt1@gmail.com Số 17 - Tháng 3 năm 2017
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
mạng lưới các cơ sở dạy nghề cho lao động nông
thôn đã được đầu tư, nâng cấp, đào tạo rất nhiều
nghề phù hợp với lao động nông thôn. Việc dạy
nghề đã cải thiện được đáng kể về chất lượng lao
động, giải quyết việc làm, tự tạo việc làm, nâng
cao năng suất lao động và thu nhập cho lao động
nông thôn, góp phần thúc đẩy sự phát triển đa
dạng các ngành nghề ở nông thôn, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, nâng cao dần mặt bằng dân
trí, điều kiện dân sinh, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu lao động, khơi dậy tính chủ động tích
cực vươn lên trong xóa đói giảm nghèo và phát
huy được thế mạnh sẵn có của địa phương. Hoạt
động dạy nghề cũng đem lại lợi ích nhiều mặt
của cuộc sống đến với ngư...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số mô hình đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở Việt Nam hiện nay - Nguyễn Văn Tuấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
Ngày nhận bài: 4/3/2017. Ngày phản biện: 10/3/2017. Ngày duyệt đăng: 15/3/2017
(1) Trường Cao đẳng nghề GTVT Trung ương I; e-mail: nguyentuancdgtvt1@gmail.com Số 17 - Tháng 3 năm 2017
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
mạng lưới các cơ sở dạy nghề cho lao động nông
thôn đã được đầu tư, nâng cấp, đào tạo rất nhiều
nghề phù hợp với lao động nông thôn. Việc dạy
nghề đã cải thiện được đáng kể về chất lượng lao
động, giải quyết việc làm, tự tạo việc làm, nâng
cao năng suất lao động và thu nhập cho lao động
nông thôn, góp phần thúc đẩy sự phát triển đa
dạng các ngành nghề ở nông thôn, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, nâng cao dần mặt bằng dân
trí, điều kiện dân sinh, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu lao động, khơi dậy tính chủ động tích
cực vươn lên trong xóa đói giảm nghèo và phát
huy được thế mạnh sẵn có của địa phương. Hoạt
động dạy nghề cũng đem lại lợi ích nhiều mặt
của cuộc sống đến với người lao động, góp phần
đẩy lùi những tập quán canh tác cũ kỹ, lạc hậu để
tiếp cận với phong cách, kỹ năng lao động mới.
1. Mô hình thí điểm đào tạo nghề cho lao
động nông thôn do Hiệp hội Làng nghề Việt
Nam thực hiện
Thực hiện đề án “Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020” theo Quyết định 1956/
QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính
phủ, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam (HHLNVN)
được Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội (LĐTB&XH) giao thực hiện thí
điểm 3 mô hình đào tạo, tại các làng nghề:
- Mô hình đào tạo nghề, tổ chức việc làm
gắn với xây dựng làng nghề mới: Đây là mô
hình được áp dụng cho những địa phương thiếu
ruộng đất, có nhiều lao động nhưng thiếu việc
làm và chính quyền địa phương có nhu cầu hình
thành làng nghề mới. Thực hiện mô hình này,
HHLNVN đã phối hợp với Công ty TNHH Phú
Mỹ Lộc (Đức Giang, Long Biên, Hà Nội) đào tạo
nghề đúc đồng, gò thúc tranh đồng, chạm khảm
tam khí cho 21 học viên đến từ huyện Giao Thủy
(Nam Định), huyện Định Quán (Đồng Nai) và
quận Long Biên (Hà Nội). Tham gia khóa học,
các học viên không chỉ được học lý thuyết với
giáo trình khoa học mà còn được thợ giỏi và các
nghệ nhân trực tiếp hướng dẫn thực hành.
- Mô hình đào tạo nghề, tổ chức việc
làm kết hợp phát triển vùng nguyên liệu tại địa
phương: Mô hình này chủ yếu được thực hiện ở
những vùng có khả năng xây dựng và phát triển
vùng nguyên liệu, học viên cũng là lao động
tại các vùng quy hoạch trồng nguyên liệu. Với
mô hình này, HHLNVN đã cùng với Công ty
TNHH xuất nhập khẩu Mai Bình tổ chức đào tạo
nghề trồng và chăm sóc cây tăm hương cho 70
lao động tại xã Mông Hóa (huyện Kỳ Sơn, Hòa
Bình), đào tạo nghề trồng cây nguyên liệu và
làm chổi chít cho 70 lao động tại xã Hiền Lương
(huyện Đà Bắc, Hòa Bình). Hiện số lao động này
đã hoàn thành xong khóa học và được công ty
tạo việc làm, thu mua sản phẩm với thu nhập từ
1 đến 1,5 triệu đồng/người/tháng.
MỘT SỐ MÔ HÌNH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG
NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguyễn Văn Tuấn(1)
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, mạng lưới các cơ sở dạy nghề cho lao động nông thôn đã được đầu tư, nâng cấp, đào tạo rất nhiều nghề phù hợp với lao động nông
thôn. Việc dạy nghề đã cải thiện được đáng kể về chất lượng lao động, giải quyết việc làm, tự tạo
việc làm, nâng cao năng suất lao động và thu nhập cho lao động nông thôn, góp phần thúc đẩy sự
phát triển đa dạng các ngành nghề ở nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao dần mặt
bằng dân trí, điều kiện dân sinh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, khơi dậy tính chủ động
tích cực vươn lên trong xóa đói giảm nghèo và phát huy được thế mạnh sẵn có của địa phương. Hoạt
động dạy nghề cũng đem lại lợi ích nhiều mặt của cuộc sống đến với người lao động, góp phần đẩy
lùi những tập quán canh tác cũ kỹ, lạc hậu để tiếp cận với phong cách, kỹ năng lao động mới.
Từ khóa: Mô hình, đào tạo nghề, lao động nông thôn.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
38 Số 17 - Tháng 3 năm 2017
- Mô hình đào tạo nghề, tổ chức việc làm
để duy trì và phát triển các làng nghề: Đây là
mô hình được áp dụng cho các làng nghề truyền
thống, các làng có nghề để duy trì và phát triển
các làng nghề. HHLNVN đã phối hợp với 18
trung tâm dạy nghề, doanh nghiệp làng nghề tổ
chức đào tạo nghề và đào tạo nâng cao tay nghề
cho khoảng 300 lao động tại các làng nghề như:
Sơn mài Hạ Thái (Hà Nội), chạm khắc, mộc mỹ
nghệ Hòa Quang Nam (Phú Yên), mộc mỹ nghệ
La Xuyên (Nam Định),
Đến nay, sau gần hai năm thực hiện, 3 mô
hình thí điểm đào tạo nghề cho lao động nông thôn
do Hiệp hội Làng nghề Việt Nam thực hiện đã thu
được những hiệu quả rất tích cực. Hơn 90% số lao
động được đào tạo đã có việc làm và thu nhập ổn
định từ 1,5 đến 1,8 triệu đồng/người/ tháng, khả
năng hình thành được các làng nghề mới rất khả
quan. Đặc biệt, với mô hình đào tạo nghề gắn với
phát triển vùng nguyên liệu, không chỉ người dân
có việc làm, có thu nhập ổn định, nghề tiểu thủ
công nghiệp được nhân rộng mà doanh nghiệp đã
xây dựng và phát triển được vùng nguyên liệu qua
đó chủ động được nguyên liệu cho sản xuất, nhất
là trong tình trạng nguồn nguyên liệu tự nhiên
ngày một suy kiệt như hiện nay.
Việc thực hiện thí điểm 3 mô hình đào
tạo tại các làng nghề đã giải quyết được một số
vướng mắc lớn trong quá trình triển khai đề án
đào tạo nghề như: Đầu ra cho người học nghề,
nguồn nguyên liệu cho sản xuất, bao tiêu sản
phẩm và thu nhập của người lao động, điều
quan trọng nhất mà hiệp hội đã đạt được trong
quá trình thực hiện 3 mô hình là sự liên kết chặt
chẽ của chính quyền địa phương, cơ quan nhà
nước có chức năng điều phối thực hiện đề án,
các hiệp hội, hội, các tổ chức xã hội và từ bản
thân các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tham gia
đào tạo nghề, bao tiêu sản phẩm. Sự chung sức
đồng lòng của xã hội là thuận lợi lớn để đề án
được triển khai và thu được hiệu quả như mong
muốn. 3 mô hình đã đem lại triển vọng mới cho
công tác đào tạo nghề và tổ chức việc làm cho
lao động khu vực nông thôn cũng như tạo sự hỗ
trợ cần thiết cho sự phát triển của các làng nghề.
2. Mô hình đào tạo nghề cho lao động
nông thôn ở Tây Bắc
Theo Báo cáo của Bộ trưởng Bộ
LĐTB&XH: “Năm 2014, các địa phương trong
toàn vùng Tây Bắc đã tuyển sinh, đào tạo cho hơn
243.000 người được học nghề, bằng 12% tổng
số người được đào tạo nghề cả nước, trong đó có
hơn 71.000 người dân tộc thiểu số và hơn 13.000
người thuộc hộ nghèo”1. Dạy nghề và các chính
sách liên quan trực tiếp đến đào tạo nhân lực địa
phương cũng được chú ý, nguồn nhân lực đã qua
đào tạo của Tây Bắc cũng tăng dần qua các năm.
Tỉnh Hoà Bình và Điện Biên có tỷ lệ nhân lực
trên 15 tuổi đã qua đào tạo vượt mức trung bình
cả nước. Năm 2014: Tỉnh Lai Châu đã đào tạo
nghề cho 5.077 lao động, nâng tỷ lệ lao động qua
đào tạo, tập huấn lên 38%, giải quyết việc làm cho
6.600 lao động, trong đó xuất khẩu 100 lao động;
Tỉnh Yên Bái tạo việc làm mới cho 18.174 lao
động (xuất khẩu lao động đạt 742 người)2.
Căn cứ vào các nghề truyền thống, vào nhu
cầu, vào khả năng sản xuất và bao tiêu sản phẩm
của địa phương trong tỉnh, các tỉnh miền núi phía
bắc đã tổ chức để các cơ sở dạy nghề đấu thầu
đào tạo nghề cho bà con nông dân tại các xã,
huyện, thị trấn, theo mô hình đào tạo nghề “cầm
tay, chỉ việc”, gắn các lớp dạy nghề với các cơ
sở sản xuất. Ngành nghề được đào tạo ở Tây bắc
chủ yếu là nghề nông nghiệp và chế biến nông,
lâm, thổ sản.
3. Mô hình đào tạo nghề cho lao động
nông thôn ở Tây Nguyên
Theo Thường trực Ban Chỉ đạo Tây
Nguyên, kết quả thực hiện Đề án 19563, các tỉnh
Tây Nguyên đã tuyển sinh dạy nghề cho gần
90.000 lao động nông thôn. Chất lượng đào tạo
nghề cũng từng bước được nâng lên. Cụ thể: Từ
năm 2010 đến năm 2013, tỷ lệ lao động nông thôn
sau khi học nghề được các doanh nghiệp tuyển
dụng hoặc tự tạo việc làm tại chỗ đạt trên 78%,
trong đó có trên 2.000 hộ nghèo có việc làm, thu
nhập ổn định và đã thoát nghèo; 2.687 hộ đầu tư
mở rộng sản xuất, thành lập các tổ sản xuất kinh
doanh dịch vụ và trở thành hộ có thu nhập khá
so với bình quân chung của địa phương. Hiện
1. Báo cáo tại Hội nghị Đánh giá thực trạng thực hiện
chính sách xuất khẩu lao động, dạy nghề, giảm nghèo tại
các huyện khó khăn vùng Tây Bắc, Tháng 1 năm 2015.
2. Tlđd.
3. Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
39Số 17 - Tháng 3 năm 2017
nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Tây Nguyên
đạt khoảng 37%, trong đó qua đào tạo nghề
khoảng 30%. Từ năm 2005 đến nay, các tỉnh Tây
Nguyên đã giải quyết việc làm cho trên 805.950
lao động, chủ yếu là lao động ở nông thôn, trong
đó nhiều lao động là đồng bào dân tộc thiểu số
(DTTS). Trong những năm qua, công tác dạy
nghề ở Tây Nguyên đã phát triển theo hướng gắn
với các chương trình về lao động, việc làm, xuất
khẩu lao động, xoá đói, giảm nghèo nên đã có
những hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, trên thực tế, số
lượng lao động qua đào tạo nói chung và đào tạo
nghề nói riêng ở các tỉnh Tây Nguyên vẫn còn
thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của
vùng. Chất lượng đào tạo nghề chưa cao, trình
độ người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu
của thị trường lao động, việc xuất khẩu lao động
còn nhiều hạn chế,
Giai đoạn 2011 - 2020, các tỉnh Tây
Nguyên tập trung đào tạo đủ nguồn nhân lực cho
các ngành, lĩnh vực trọng điểm, mũi nhọn của
vùng như công nghiệp thủy điện, khai thác
khoáng sản; chế biến nông lâm sản, nhân lực kỹ
thuật phục vụ cho sự phát triển của ngành trồng
cây công nghiệp như cà phê, cao su, điều,. Các
tỉnh Tây Nguyên cũng đưa ra các giải pháp nâng
cao chất lượng đào tạo nghề gắn với giải quyết
việc làm cho thanh niên, phụ nữ nông thôn như
phát triển mạng lưới đào tạo nghề, tư vấn, giới
thiệu việc làm trên địa bàn. Dự kiến, trong thời
gian tới, Tây Nguyên sẽ đầu tư xây dựng mới các
trường dân tộc nội trú hoặc thành lập khoa dân
tộc nội trú tại các trường cao đẳng nghề, trung
cấp nghề ở 5 tỉnh Tây Nguyên. Đồng thời, tổ
chức lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp
ở tất cả các huyện thuộc 5 tỉnh Tây Nguyên,
tập trung đầu tư các thiết bị dạy nghề, bổ sung
đội ngũ cán bộ, giáo viên đạt chuẩn, xây dựng
chương trình, giáo trình, bổ sung ngành nghề đào
tạo để đảm nhiệm việc dạy nghề cho người lao
động trên địa bàn.
Mô hình đào tạo nghề ở Tây Nguyên hiện
nay là sự phối hợp, liên kết của “4 nhà” (nhà quản
lý, nhà trường, nhà nông và nhà doanh nghiệp).
Nhà quản lý có nhiệm vụ đảm bảo thực hiện đầy
đủ các chính sách của đề án hỗ trợ cho lao động
nông thôn tham gia học nghề; nhà trường là các
trung tâm dạy nghề, các trường nghề, cơ sở dạy
nghề có nhiệm vụ đào tạo các nghề theo nhu cầu,
nguyện vọng của lao động nông thôn; nhà nông
là những nông dân trong độ tuổi lao động có nhu
cầu, nguyện vọng học nghề, đào tạo các nghề
để phục vụ sản xuất nông nghiệp hoặc phi nông
nghiệp, đào tạo xong có việc làm ổn định, có thu
nhập, vươn lên thoát nghèo, từng bước làm giàu;
nhà doanh nghiệp cung cấp đầu vào, đầu ra cho
lao động nông thôn tham gia học nghề và đồng
hành cùng với người học nghề, đến khi kết thúc
khóa học có thể sử dụng hoặc hỗ trợ người lao
động đã học nghề tìm việc làm ổn định. Song
song với việc triển khai điều tra về nhu cầu học
nghề, nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo của
các doanh nghiệp và thực trạng các cơ sở dạy
nghề trên địa bàn, các tỉnh đã cụ thể hóa các mô
hình dạy nghề, phát huy thế mạnh của từng địa
phương để đào tạo nghề phù hợp với lao động
nông thôn, người DTTS như: sửa chữa máy nông
nghiệp; kỹ thuật chăn nuôi, thú y; kỹ thuật trồng
trọt và bảo vệ thực vật; đan mây tre; dệt thổ cẩm;
trồng nấm; may dân dụng; may công nghiệp; sửa
chữa xe gắn máy; xây dựng dân dụng, Các cơ
sở dạy nghề chú trọng thực hiện hình thức dạy
nghề gắn với doanh nghiệp sản xuất. Trường Cao
đẳng nghề Đắc Lắc (tỉnh Đắc Lắc) thường xuyên
có khoảng 10 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh
liên kết đào tạo. Các doanh nghiệp đối tác của
Trường Cao đẳng Nghề mỗi năm đều tiếp nhận
từ 20 đến 50 học sinh nghề của trường về thực
tập, rèn luyện tay nghề,
Thực hiện liên kết “4 nhà”, giai đoạn 2007
- 2010, Sở LĐTB&XH tỉnh Đắc Lắc đã ký kết
với các cơ sở dạy nghề trên địa bàn để đào tạo lao
động với tổng kinh phí là 28 tỷ 715 triệu đồng.
Mạng lưới các cơ sở dạy nghề trên địa
bàn tỉnh hiện nay đã tổ chức đào tạo rất nhiều
nghề phù hợp với lao động nông thôn. Việc dạy
nghề đã cải thiện được đáng kể về chất lượng lao
động, học sinh học nghề, sau khi tốt nghiệp có
nhiều cơ hội tìm được việc làm và làm việc có
hiệu quả hơn. Dạy nghề đã giải quyết việc làm,
tự tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động và
thu nhập cho học sinh tốt nghiệp trong đó có học
sinh DTTS. Hoạt động dạy nghề đã thúc đẩy sự
phát triển đa dạng các ngành nghề ở nông thôn,
vùng đồng bào DTTS, góp phần nâng cao dần
mặt bằng dân trí, điều kiện dân sinh, chuyển dịch
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
40 Số 17 - Tháng 3 năm 2017
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; khơi dậy tính
chủ động tích cực vươn lên trong xóa đói giảm
nghèo và phát huy được thế mạnh sẵn có của địa
phương. Hoạt động dạy nghề cũng đem lại lợi
ích nhiều mặt của cuộc sống đến với người lao
động, góp phần đẩy lùi những tập quán canh tác
cũ kỹ, lạc hậu để tiếp cận với phong cách, kỹ
năng lao động mới.
4. Mô hình đào tạo nghề cho lao động
nông thôn ở Tây Nam bộ
Trong 3 năm (2010-2012) triển khai Quyết
định 1956 của Thủ tướng Chính phủ về “Đào tạo
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”,
các tỉnh Tây Nam Bộ đã huy động được 282
cơ sở tham gia dạy nghề cho 311.556 lao động
nông thôn. Trong đó, có 303.298 lao động đã học
xong, 231.273 người có việc làm sau đào tạo,
đạt 76,25% (bình quân chung cả nước trong 3
năm đạt 78,93%). Sáu tháng đầu năm 2013, toàn
vùng đã tổ chức dạy nghề cho 38.040 lao động
nông thôn, bằng 29% kế hoạch năm 2013.
Hàng năm, các địa phương trong vùng đều
tổ chức hội nghị, triển khai, rút kinh nghiệm về
công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Sau ba năm triển khai thực hiện, toàn vùng đã
có 104/130 đơn vị cấp huyện có lao động nông
thôn đã được bố trí cán bộ chuyên trách về dạy
nghề tại Phòng LĐTB&XH; 106/130 đơn vị cấp
huyện có cơ sở dạy nghề công lập đóng trên địa
bàn. Tuy nhiên, mạng lưới cơ sở dạy nghề toàn
vùng còn thiếu và nhiều bất cập; vẫn còn 26/130
huyện chưa bố trí cán bộ chuyên trách về dạy
nghề tại Phòng LĐTB&XH huyện; 24 huyện
thuộc 5 tỉnh, thành phố là Cần Thơ, Long An,
Tiền Giang, Đồng Tháp và Kiên Giang chưa
thành lập trung tâm dạy nghề hoặc trường trung
cấp nghề trên địa bàn huyện. Việc tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ quản lý dạy nghề cho lao động
nông thôn đạt thấp.
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, tính đến
tháng 6 năm 2013 : Uỷ ban Nhân dân các tỉnh,
thành phố đã phê duyệt danh mục nghề đào tạo
gồm 757 lượt nghề, trong đó 252 lượt nghề nông
nghiệp và 505 lượt nghề phi nông nghiệp, đồng
thời đã phê duyệt chi phí đào tạo nghề cho 674
lượt nghề. Từ năm 2010 đến năm 2012, toàn
vùng đã huy động được 282 cơ sở tham gia dạy
nghề cho lao động nông thôn, gồm: 09 trường
cao đẳng nghề; 28 trường trung cấp nghề; 106
trung tâm dạy nghề; 2 trung tâm kỹ thuật tổng
hợp hướng nghệp; 16 trung tâm giáo dục thường
xuyên; 45 doanh nghiệp, hợp tác xã và 76 cơ sở
khác. Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố, đã
có 303.298 lao động nông thôn được học nghề,
trong đó có 231.273 người có việc làm sau đào
tạo, đạt 76,25%. Trong số này lao động nông
thôn sau học nghề được doanh nghiệp tuyển
dụng là 37.462 người, số lao động tự tìm việc
làm là 161.811 người,... Hiện có 9.556 hộ nghèo
có người tham gia học nghề đã thoát được nghèo,
trong tổng số 44.959 người nghèo tham gia học
nghề; 8.293 hộ gia đình có người tham gia học
nghề trở thành hộ khá.
Một số địa phương đã xây dựng được mô
hình dạy nghề đạt hiệu quả cần nhân rộng như:
Tỉnh Bến Tre, xây dựng mô hình đào tạo nghề
theo địa chỉ với nghề may công nghiệp, người
học được giải quyết việc làm ngay sau khi đào
tạo với mức lương tối thiểu 1,8 đồng/người/
tháng; dạy nghề theo mô hình trồng cây chuyên
canh, xen canh như nghề trồng cây dừa, nghề
trồng dừa và ca cao đan xen, số lao động có việc
làm ổn định sau học nghề đạt trên 80%. Hai tỉnh
An Giang và Hậu Giang xây dựng mô hình dạy
nghề kỹ thuật trồng lúa giống, kỹ thuật trồng lúa
chất lượng cao. Đồng Tháp, Tiền Giang và Trà
Vinh xây dựng mô hình dạy nghề đan ghế nhựa,
tỷ lệ lao động có việc làm sau học nghề đạt từ 70-
80%, mức thu nhập bình quân tăng thêm 1,5 triệu
đồng/người/tháng; dạy nghề may công nghiệp,
lao động được giải quyết việc làm đạt 100%, thu
nhập ổn định từ 2,5- 3 triệu đồng/ tháng. Thành
phố Cần Thơ mở lớp dạy nghề kết cườm, trồng
nấm linh chi và đã được doanh nghiệp ký kết hợp
đồng gia công, bao tiêu sản phẩm giải quyết việc
làm ổn định và lâu dài cho nhiều người lao động.
Hai tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu đang triển khai
mô hình dạy nghề thuyền trưởng, máy trưởng
cho ngư dân trên tàu đánh bắt xa bờ. Đồng Tháp,
Bạc Liêu, Trà Vinh, Kiên Giang dạy nghề nuôi
trồng, chế biến thủy sản.
Mô hình đào tạo nghề hiệu quả ở các tỉnh
Tây Nam bộ là sự gắn kết của các cấp chính
quyền, người lao động với các doanh nghiệp
trong đào tạo, giải quyết việc làm - đào đạo nghề
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
41Số 17 - Tháng 3 năm 2017
gắn với giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn (đào tạo nghề theo địa chỉ) và dạy nghề tại
các làng nghề, tổ hợp tác tiểu thủ công nghiệp.
Cách đào tạo nghề này đã giải quyết việc làm
cho 85% lao động nông thôn tại địa phương và
phát triển vùng nguyên liệu tại chỗ.
Thực tế cho thấy, việc triển khai công tác
đào tạo nghề gắn với chương trình xây dựng nông
thôn mới thời gian qua đã và đang phát huy hiệu
quả bước đầu tại nhiều địa phương thuộc Tây
Nam bộ. Hầu hết các mô hình thí điểm dạy nghề
đã phát huy tác dụng, tạo điều kiện cho người
học nghề có cơ hội tìm việc làm, tăng thu nhập
và ổn định cuộc sống. Nhiều hộ đã thoát nghèo
chỉ sau một năm học nghề, có hộ trở thành hộ
khá. Việc nhân rộng các mô hình dạy nghề này sẽ
góp phần tạo thêm nhiều chuyển biến tích cực về
đời sống cho lao động nông thôn sau học nghề.
Đối với các tỉnh có đông đồng bào DTTS
sinh sống như Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang,
Kiên Giang, công tác đào tạo nghề nông
nghiệp như làm thủy lợi đối với các chân đất
cao, kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc cây con,
cho bà con nông dân được đặc biệt chú trọng. Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Nông
dân, Đoàn thanh niên của các tỉnh phối hợp tổ
chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ cơ sở, tuyên
truyền về Đề án dạy nghề cho lao động nông
thôn; phát tờ bướm, tờ rơi in bằng các thứ tiếng
như tiếng Việt và tiếng Khmer hoặc tiếng Việt và
tiếng Chăm tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa,
các chính sách, chế độ hỗ trợ học nghề theo
Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ đến
các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, hỗ trợ kinh phí
cho huyện điểm, huyện miền núi có đông đồng
bào DTTS để đẩy mạnh công tác tuyên truyền
trên địa bàn. Cụ thể, dạy kỹ thuật nuôi bò, kỹ
thuật trồng rau an toàn, xây dựng dân dụng ở
An Giang được tổ chức, với trên 500 lao động
dân tộc thiểu số tham gia học nghề, tỉ lệ có việc
làm sau khóa học đạt 64%. Thông qua các lớp
dạy nghề, người lao động DTTS được phổ biến
kiến thức khoa học, phương pháp canh tác mới,
kỹ thuật tiên tiến, giúp giảm rủi ro và chi phí sản
xuất, nâng cao hiệu quả canh tác và lợi nhuận.
Nghề dệt thổ cẩm Khmer và Chăm phù hợp lao
động nữ DTTS nên được đầu tư, đào tạo ở các
tỉnh có đông chị em phụ nữ Khmer, Chăm. Các
mô hình thuộc nhóm nghề nông nghiệp, sau khi
học nghề, người lao động tự tạo việc làm tại chỗ,
đồng thời chính quyền và đoàn thể địa phương
giới thiệu vay vốn, tư vấn phương pháp làm ăn,
nâng cao hiệu quả kinh tế gia đình,... Việc triển
khai thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ dạy nghề
gắn với giải quyết việc làm đã giúp cho lao động
DTTS sau khi học nghề có việc làm, đời sống gia
đình ngày càng nâng cao.
Tài liệu tham khảo:
1. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, Quyết định số 630/QĐ-TTg
ngày 29/5/2012 phê duyệt chiến lược dạy nghề
thời kỳ 2011 - 2020;
2. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, Quyết định số 1956/2009/
QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 phê duyệt
Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai
đoạn 2011-2020.
ABSTRACT
SOME TRAINING MODELS FOR RURAL LABOR IN VIETNAM
Thanks to the attention of the Party and the State, the network of vocational training
institutions for rural labor has been invested, upgraded and trained in many fields suitable for rural
labor. Vocational training has significantly improved labor quality, job creation, self-employment,
improved labor productivity and income for rural labor, contributing to the diversified development
of rural areas and ethnic minority areas, gradually improving people’s knowledge, living conditions,
economic restructuring, labor structure, hunger and poverty reduction and promoting the strengths
of each local area. Vocational training also benefits many aspects of life for workers, contributing to
repelling the old and outdated farming practices to gain access to new styles and labor skills.
Keywords: Models; Vocational Training; Rural Labor; .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 239_1008_1_pb_5635_2152025.pdf