Tài liệu Một số kinh nghiệm dạy học nhóm tác phẩm văn học Nga thuộc loại hình tự sự trong chương trình ngữ văn Phổ thông - Nguyễn Thị Thắm: Nguyễn Thị Thắm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 41 - 46
41
MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY HỌC NHÓM TÁC PHẨM VĂN HỌC NGA
THUỘC LOẠI HÌNH TỰ SỰ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG
Nguyễn Thị Thắm*
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Văn học nước ngoài có vai trò quan trọng trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông Việt
Nam. Nó không chỉ giúp học sinh mở rộng chân trời văn học mà còn giúp các em có thêm hiểu
biết về các nền văn hóa. Tuy nhiên, dạy học văn học nước ngoài là một thử thách đòi hỏi nhiều nỗ
lực. Văn học Nga là một bộ phận của văn học nước ngoài. Hầu hết các tác phẩm văn học Nga
được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa phổ thông ở Việt Nam đều thuộc loại hình tự sự. Với
bài báo này, chúng tôi muốn cải thiện chất lượng dạy học phần văn học nước ngoài thông qua một
số kinh nghiệm dạy học các tác phẩm văn học Nga theo đặc trưng loại hình tự sự.
Từ khóa: dạy học, văn học nước ngoài, văn học Nga, kinh nghiệm, loại hình tự sự
ĐẶT VẤN Đ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 538 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số kinh nghiệm dạy học nhóm tác phẩm văn học Nga thuộc loại hình tự sự trong chương trình ngữ văn Phổ thông - Nguyễn Thị Thắm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Thắm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 41 - 46
41
MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY HỌC NHÓM TÁC PHẨM VĂN HỌC NGA
THUỘC LOẠI HÌNH TỰ SỰ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG
Nguyễn Thị Thắm*
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Văn học nước ngoài có vai trò quan trọng trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông Việt
Nam. Nó không chỉ giúp học sinh mở rộng chân trời văn học mà còn giúp các em có thêm hiểu
biết về các nền văn hóa. Tuy nhiên, dạy học văn học nước ngoài là một thử thách đòi hỏi nhiều nỗ
lực. Văn học Nga là một bộ phận của văn học nước ngoài. Hầu hết các tác phẩm văn học Nga
được đưa vào giảng dạy trong sách giáo khoa phổ thông ở Việt Nam đều thuộc loại hình tự sự. Với
bài báo này, chúng tôi muốn cải thiện chất lượng dạy học phần văn học nước ngoài thông qua một
số kinh nghiệm dạy học các tác phẩm văn học Nga theo đặc trưng loại hình tự sự.
Từ khóa: dạy học, văn học nước ngoài, văn học Nga, kinh nghiệm, loại hình tự sự
ĐẶT VẤN ĐỀ *
Chương trình văn học nước ngoài trong nhà
trường phổ thông nói chung, nhóm tác phẩm
văn học Nga nói riêng có những đặc điểm
riêng chi phối đến kết quả việc dạy học bộ
phận văn học này. Đất nước Nga xinh đẹp,
nền văn hóa Nga phong phú, đa dạng mà độc
đáo tạo nên đặc thù của văn học Nga. Đó là
điểm hấp dẫn, đồng thời cũng đặt ra những
thách thức đối với cả người dạy và người học.
Hấp dẫn vì sự mới lạ nhưng chính vì mới lạ
mà rất khó có thể hiểu thấu đáo giá trị nội
dung và nghệ thuật của từng tác phẩm văn
học. Với mong muốn giúp người dạy dạy tốt
hơn, trong phạm vi một bài viết, chúng tôi
mạnh dạn đề xuất một vài kinh nghiệm dạy
học đọc hiểu một nhóm tác phẩm văn học
Nga tiêu biểu trong chương trình Ngữ văn
phổ thông theo đặc trưng loại hình tự sự.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Có một nguyên tắc không chỉ được đặt ra với
người dạy học bộ phận văn học nước ngoài đó
là nên dạy học theo đúng đặc trưng thể loại.
Đây là nguyên tắc chung khi chúng ta tìm
hiểu bất kỳ tác phẩm văn học nào. Dạy học
văn học nước ngoài càng phải lưu ý. Với các
tác phẩm tự sự, hệ thống sự kiện và chi tiết
nghệ thuật có vai trò vô cùng quan trọng vì
*
Tel: 0975 191322, Email: ntsp2002@gmail.com
“Nhà văn tự sự tái hiện toàn bộ thế giới, thể
hiện mọi biểu hiện bên trong và bên ngoài của
con người nhưng đều xem chúng như là
những sự kiện khác nhau về cuộc sống con
người”. [1, tr. 376]. “Nhân vật tự sự, do vậy,
cũng được khắc họa đầy đặn, nhiều mặt nhất,
hơn hẳn các nhân vật trữ tình và kịch” [1, tr.
377]. Ngoài ra, tác phẩm tự sự nào cũng có
người trần thuật, có lời văn trần thuật với
thành phần miêu tả và thuyết minh đặc điểm
và lời nói của nhân vật tự sự. Các đặc điểm
chung này, ở các thể loại cụ thể lại có những
đặc điểm riêng do thi pháp thể loại quy định.
Trong chương trình văn học nước ngoài ở phổ
thông, nhóm tác phẩm văn học Nga thuộc loại
tự sự có một số thể loại như truyện cổ tích
viết lại, truyện ngắn, tiểu thuyết.
Điểm chung giữa tiểu thuyết và truyện ngắn
Điểm chung dễ nhận thấy nhất là mối quan hệ
gần gũi giữa người kể chuyện và hiện thực
được phản ánh. Sự gần gũi này là kết quả của
cái nhìn đời sống từ góc độ đời tư, từ điểm
nhìn của một cá nhân. Cũng chính điều này
chi phối đến đặc điểm của hiện thực được
phản ánh trong tiểu thuyết và truyện ngắn. Đó
là một hiện thực đang diễn ra, không ngừng
biến đổi, sinh thành, một hiện thực “đương
thời” của người trần thuật. Về hình thức trần
thuật, trong truyện ngắn và tiểu thuyết có cả
hai hình thức trần thuật chính: kể chuyện ngôi
thứ nhất và kể chuyện ngôi thứ ba số ít. Với
Nguyễn Thị Thắm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 41 - 46
42
hình thức kể chuyện ngôi thứ nhất, người kể
chuyện là một nhân vật của câu chuyện và
trực tiếp kể lại câu chuyện đó. Còn với hình
thức kể chuyện ngôi thứ ba số ít, người kể
chuyện là người ngoài cuộc, “không xuất hiện
trong tác phẩm, không tham gia mà cũng
không chứng kiến mọi diễn biến của câu
chuyện, các sự kiện dường như tự mình kể ra”
[2, tr. 79].
Trở lại với nhóm tác phẩm văn học Nga thuộc
loại hình tự sự trong trường phổ thông, căn cứ
vào những đặc điểm trên, chúng ta thấy khi
dạy học đọc hiểu, hầu hết giáo viên đã hướng
dẫn học sinh tìm hiểu hệ thống chi tiết, sự
kiện, hệ thống nhân vật, đặc điểm của người
trần thuật, hình thức trần thuật. Tuy nhiên,
vẫn còn một số điểm người dạy cần chú ý
hơn. Chẳng hạn hình thức kể chuyện ngôi thứ
nhất số ít thường xuất hiện trong các tác phẩm
và đoạn trích Những đứa trẻ (Thời thơ ấu -
M. Gorki), Một con người ra đời (M. Gorki),
Hai cây phong (Người thầy đầu tiên - C.
Aitmatov), Người trong bao (A.Chekhov), Số
phận con người (M. A. Sholokhov)... Thông
thường, hình thức kể chuyện ngôi thứ nhất số
ít với nhân vật xưng tôi tự kể lại câu chuyện
sẽ khiến cho câu chuyện có vẻ dễ tin hơn,
hiện thực được phản ánh hiện lên chân thực
hơn do được phản ánh bằng điểm nhìn bên
trong của người trong cuộc. Ngoài ra, để câu
chuyện không phải là hiện tượng hoàn toàn dị
biệt, duy nhất, người viết thường bổ sung
thêm một ngôi kể giả định khác, ngôi kể
chúng tôi tạo ra sự xuất hiện của hai mạch
truyện trong cùng một tác phẩm. Tuy nhiên
mạch truyện do tôi kể thường đóng vai trò
quan trọng hơn như trong đoạn trích Hai cây
phong (Người thầy đầu tiên - C. Aitmatov).
Người giáo viên cần hướng dẫn để học sinh
hiểu vì ngôi kể có sự kết hợp linh hoạt giữa
tôi và chúng tôi nên câu chuyện được kể
không phải là câu chuyện của một cá nhân mà
là chuyện của một thế hệ, từ đó mở rộng ra
vai trò của giáo dục, của tri thức đối với mọi
thế hệ, ngoài ra còn có thể là nhiệt tình ngợi
ca chiến thắng tất yếu của cái mới, sự tiến bộ
trước cái cũ, cái lạc hậu. Câu chuyện vì thế
không phải là chuyện của một làng quê, một
dân tộc mà là câu chuyện của mọi thời đại.
Bên cạnh đó, người dạy cũng cần giúp học
sinh tìm hiểu đặc điểm tác phẩm Số phận con
người của M.A.Sholokhov với hai nhân vật
xưng tôi cùng kể chuyện. Trong đó nhân vật
tôi thứ nhất có thể gọi là tác giả nhường cho
nhân vật tôi thứ hai là anh lái xe Shocolov tự
kể lại câu chuyện đời mình. Nhân vật tôi thứ
nhất phần nào giống với người dẫn chuyện.
Phần trích giảng trong sách giáo khoa phổ
thông chủ yếu là lời kể chuyện của nhân vật
tôi thứ hai, anh lái xe Shocolov. Nhân vật tôi
thứ nhất chỉ xuất hiện ở đoạn kết khi họ chia
tay nhau. Sự xuất hiện của hai nhân vật xưng
tôi với một ngôi kể thứ nhất nhưng vẫn tạo ra
hai điểm nhìn trần thuật: bên trong và bên
ngoài góp phần tạo nên tính đa dạng cho điểm
nhìn dù chỉ có một ngôi kể. Hiện thực được
phản ánh vì vậy cũng đa chiều hơn, có hiện thực
chiều rộng và cả hiện thực chiều sâu. Nghệ
thuật trần thuật vì vậy cũng hiện đại hơn.
Lời người kể chuyện ở cả ngôi thứ nhất và
ngôi thứ ba số ít đều bao gồm cả hai phương
thức kể và tả. Kể gắn với diễn biến các sự
kiện, sự việc của câu chuyện được kể. Người
kể có thể kể lại trình tự sự kiện của câu
chuyện theo trật tự cái gì có trước kể trước,
cái gì có sau kể sau tạo ra kiểu thời gian tuyến
tính như trong đoạn trích Những đứa trẻ (Thời
thơ ấu - M.Gorki) tạo nên mạch truyện dễ
đọc, dễ theo dõi phù hợp với khả năng đọc
hiểu của học sinh lớp 9 nói chung. Người kể
cũng có thể đảo trật tự của câu chuyện được
kể hoặc tạo ra hai mạch truyện lồng vào nhau,
hoặc kết hợp giữa kể và tả một cách linh hoạt
như trong Số phận con người
(M.A.Sholokhov) để tạo ra sự phức tạp, biến
đổi, đan xen giữa các kiểu loại thời gian nghệ
thuật khiến cho học sinh lớp 12 được phát
huy hết khả năng đọc hiểu và tư duy sáng tạo.
Với mong muốn không chỉ kể lại những sự
việc, sự kiện để phản ánh được bề mặt của
Nguyễn Thị Thắm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 41 - 46
43
hiện thực, mà còn dừng lại miêu tả thật chi
tiết, tỉ mỉ không gian diễn ra sự kiện ấy, diện
mạo, cảm xúc của con người khi tham gia vào
sự kiện để phản ánh được chân thực nhất hiện
thực cuộc sống, các nhà văn thường kết hợp
giữa kể và tả. Trong Một con người ra đời,
M.Gorki đan cài hợp lý việc tả thiên nhiên
tráng lệ song hành để làm nền cho câu chuyện
đau đẻ, trở dạ, sinh con của một người mẹ. Và
vẫn trên nền cảnh thiên nhiên rực rỡ ấy, cho
dù không để cho nhân vật tự lí giải vì sao con
người lại khốn khổ, nhà văn để cho người mẹ
vĩ đại không thôi mơ ước về một tương lai tự
do cho đứa con bé bỏng vừa chào đời.
Với đoạn trích Hai cây phong (Người thầy
đầu tiên - C.Aitmatov), người dạy rất cần chú
ý đến tỉ lệ vượt trội của tả so với kể được nhà
văn thể hiện trong đoạn trích này. Với nghệ
thuật tả độc đáo, nhà văn giúp người đọc thấy
được hình ảnh thiên nhiên nói chung, hai cây
phong nói riêng và con người nơi quê hương
yêu dấu của mình. Trước hết là hình ảnh thiên
nhiên quen thuộc được trải ra trong một
khoảng không gian rộng lớn với núi cao, một
cao nguyên rộng và thảo nguyên mênh
mông... Nổi bật lên trên cái nền của thiên
nhiên tươi đẹp ấy, giữa một ngọn đồi là hình
ảnh hai cây phong. Với những biện pháp nghệ
thuật như so sánh, nhân hóa, câu hỏi tu từ,
nhà văn chứng tỏ người kể sử dụng nhiều loại
giác quan để cảm nhận và miêu tả đặc điểm
của thiên nhiên nơi quê hương yêu dấu và hai
cây phong kì diệu này. Đó là thị giác giúp
người kể nhìn thấy chiều cao vô song “dù ai
đi từ phía nào đến làng Kurkureu chúng tôi
cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước
tiên, chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như
những ngọn hải đăng đặt trên núi”. Đồng thời
không chỉ với hai cây phong, trong trí tưởng
tượng của người kể còn lấp lánh những màu
sắc khác màu xanh thông thường của cây cối
như màu của thung lũng Đất vàng, màu của
rặng núi đen, màu của “con đường sắt làm
thành một dải thẫm màu”. Đó là thính giác
giúp người kể nghe thấy tiếng reo của lá,
“tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác
nhau...như một làn sóng thủy triều dâng lên
vỗ vào bờ cát”, “như một tiếng thì thầm thiết
tha nồng thắm”, như “tiếng thở dài một lượt”
và “tiếng reo vù vù như một ngọn lửa bốc
cháy rừng rực”[3, tr. 97]. Những âm thanh
phát ra từ hai cây phong đa dạng, phong phú
tùy theo các dạng thức khác nhau của trạng
thái cảm xúc vui, buồn, thương tiếc... Hai cây
phong hiện lên trong tâm trí người kể quả thật
có tình cảm, cảm xúc của con người. Và có lẽ
chính vì thế mà tình cảm, cảm xúc ấy được
truyền sang bọn trẻ. Bên cạnh đó, biện pháp
miêu tả với việc sử dụng hàng loạt tính từ và
từ láy chỉ đặc điểm, tính chất trạng thái và đặc
biệt là biện pháp so sánh kép trong một câu
văn dài còn giúp nhà văn miêu tả sức sống
mãnh liệt của nhân chứng lịch sử thân thương
ấy như da diết, say sưa, ngây ngất, êm dịu, rì
rào, thiết tha, nồng thắm, dẻo dai, vù vù, rừng
rực. Biện pháp miêu tả cùng với cảm hứng ca
ngợi cho thấy tình yêu thiên nhiên, tình yêu
quê hương nồng nàn của người kể chuyện.
Bên cạnh những tín hiệu nghệ thuật trên, nghệ
thuật xây dựng đối thoại và độc thoại của mỗi
nhà văn cũng góp phần quan trọng trong việc
thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Chẳng
hạn với đoạn trích Những đứa trẻ, M.Gorky
cũng có những cách tân đáng kể trong nghệ
thuật xây dựng đối thoại và độc thoại nội tâm.
Trong đoạn trích này, nhà văn miêu tả những
cuộc thoại giữa nhân vật tôi - cậu bé Aliosha
và những đứa trẻ con lão đại tá hàng xóm,
cuộc thoại giữa những đứa trẻ và bố và những
đoạn độc thoại nội tâm của Aliosha. Chúng ta
dễ dàng nhận thấy các cuộc thoại này có
những điểm đặc biệt như cuộc thoại giữa
nhân vật tôi và những đứa trẻ xoay quanh chủ
đề sự trở về của người mẹ. Nhân vật tôi do
thấm đẫm tinh thần của truyện cổ tích nên
khẳng định rồi người mẹ thật của những đứa
trẻ sẽ trở về. Còn đứa lớn nhất trong số những
đứa trẻ thì khẳng định theo thực tế là mẹ nó
đã chết rồi, không thể nào trở về được nữa.
Sau khi nghe đứa lớn nhất khẳng định như
Nguyễn Thị Thắm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 41 - 46
44
vậy, nhân vật tôi không nói gì nhưng nhà văn
để cho nhân vật nghĩ: “Không được ư? Trời
ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm
chí đã bị xả ra từng mảnh, mà chỉ cần vẩy cho
ít nước phép là sống lại; có biết bao nhiêu
người chết mà không phải là chết thật, vì
phép của bọn phù thủy”[4, tr. 230]. Sau đó,
thay vì nói trực tiếp với những đứa trẻ, tôi kể
cho bọn trẻ nghe những câu chuyện cổ tích.
Mặc dù tôi không nói trực tiếp nhưng bọn trẻ
vẫn hiểu. Vẫn đứa lớn nhất khẳng định:
“Những chuyện ấy chúng tớ biết cả rồi, đấy là
những truyện cổ tích”. Như vậy, trong cuộc
thoại này, xoay quanh việc mẹ bọn trẻ có thể
trở về hay không, tại sao, bọn trẻ rất tích cực
tham gia đối thoại. Tuy nhiên, có lúc nhà văn
để cho nhân vật tôi không trực tiếp nói lời
thoại mà nhân vật chỉ nghĩ và gián tiếp đối
thoại thông qua việc kể chuyện cổ tích.
Sau đó là cuộc thoại giữa lão đại tá và các con
về Aliosha. Người bố sau khi xuất hiện đã hỏi
những đứa trẻ:
“ - Đứa nào đây? - Ông ta hỏi và chỉ vào tôi.
Thằng anh lớn đứng dậy, hất đầu về phía nhà
ông tôi:
- Nó ở...bên kia sang...
- Đứa nào gọi nó sang?”
Sau câu hỏi của người bố, “tức thì cả mấy đứa
trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi vào
nhà, khiến tôi nghĩ đến những con ngỗng
ngoan ngoãn” [4, tr. 230-231]
Rõ ràng những cuộc thoại trên có điểm đặc
biệt. Trước hết là cuộc thoại giữa Aliosha và
những đứa trẻ. Cuộc thoại này đặc biệt ở chỗ
trong cuộc thoại có những lời thoại nhà văn
không để cho Aliosha trực tiếp đối thoại mà
chỉ nghĩ ở trong đầu. Sau đó, cậu bé thể hiện
ý thức đối thoại với những đứa trẻ thông qua
việc kể chuyện cổ tích. Vì vậy có thể khẳng
định trong đối thoại của những đứa trẻ có
chứa độc thoại, ngược lại trong độc thoại lại
có chứa đối thoại. Nhờ sự kết hợp giữa nghệ
thuật xây dựng đối thoại và nghệ thuật xây
dựng độc thoại, M.Gorky đã phản ánh được
những đặc điểm tính cách đáng quý của
Aliosha và những người bạn của cậu bé. Đó là
những đứa trẻ thông minh, biết ứng xử, hiểu
chuyện, tinh tế và nhạy cảm. Vì nhạy cảm và
tôn trọng ý kiến của bạn mình nên Aliosha đã
chọn cách không trực tiếp bộc lộ suy nghĩ của
mình bằng lời đối thoại mà chỉ nghĩ trong đầu
và nói ra bằng những câu chuyện cổ tích. Còn
những đứa trẻ cũng rất tinh tế khi nhận ra lời
thoại được gửi gắm trong những câu chuyện
cổ tích của Aliosha. Trước cách kể chuyện sôi
nổi của cậu bé, “thằng anh lớn chỉ mỉm cười
sau đó mới nhẹ nhàng bảo”. Cách cư xử ấy
chứng tỏ nó rất thông minh, hiểu chuyện và
biết ứng xử. Nó không phản đối ý kiến của
bạn một cách trực tiếp không phải vì không
muốn làm bạn mất lòng mà sâu sa hơn nó
không muốn làm bạn mất đi niềm tin vào
những điều kì diệu trong cuộc sống, không
muốn bạn nó dừng suy nghĩ lạc quan về sự
trở về của những người chết trong đó có bố
mẹ của bạn. Nó không muốn lấy mất ước mơ
có một gia đình được bố mẹ chăm sóc bởi
niềm tin ở hiền gặp lành mà những câu
chuyện cổ tích đã thắp lên trong lòng bạn. Vì
thế nó mỉm cười nhẹ nhàng thừa nhận sự tồn
tại của những câu chuyện cổ tích. Và rồi bọn
trẻ tiếp tục chơi với nhau để kể chuyện cổ tích
cho nhau nghe.
Còn cuộc thoại giữa bọn trẻ và bố của chúng
đặc biệt ở chỗ trong cuộc thoại có những câu
hỏi nhưng không có lời đáp và có những câu
hỏi có lời đáp nhưng lời đáp không thật sự
đúng chủ đề được hỏi. Kiểu đối thoại này
phản ánh mối quan hệ không mấy tốt đẹp
giữa bọn trẻ con và người bố. Hay nói đúng
hơn, người bố gia trưởng, áp đặt khiến bọn trẻ
không muốn nói thật, nói trực tiếp những điều
chúng nghĩ với bố hoặc là giữ im lặng. Cách
sử dụng kiểu đối thoại như thế này giúp nhà
văn phản ánh hiện thực cuộc sống một cách
gián tiếp, tinh tế mà sâu sắc. Vì Aliosha là
người kể chuyện trong đoạn trích nói riêng và
tác phẩm nói chung. Aliosha là một người bạn
mới quen của bọn trẻ. Aliosha không thể biết
Nguyễn Thị Thắm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 41 - 46
45
cặn kẽ về tình phụ tử giữa lão đại tá và những
người bạn mới quen nên nó không thể trực
tiếp miêu tả hiện thực ấy. Nhà văn giúp cậu
bé miêu tả thông qua việc miêu tả một cuộc
đối thoại. Và cuộc đối thoại ấy đã nói lên
nhiều điều trong đó có chuyện góp phần lý
giải vì sao Aliosha và những đứa trẻ nhanh
chóng chơi thân với nhau không chỉ vì trẻ con
vốn dễ kết bạn như thế. Ngoài ra, khi dạy
đoạn trích này, người dạy cần chú ý đến sự
kết hợp giữa cách kể chuyện đời thường đan
xen với những câu chuyện cổ tích như một
biện pháp nghệ thuật nhằm làm cho đoạn trích
súc tích, lời ít mà ý nhiều, đoạn trích có sức
nặng như một tảng băng trôi bảy phần chìm,
một phần nổi.
Điểm khác biệt giữa tiểu thuyết và truyện ngắn
Điểm khác biệt cơ bản nhất để phân biệt hai
thể loại này là tình huống truyện. “Tình
huống truyện, xét đến cùng, là một sự kiện
đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo
trong tác phẩm theo lối lạ hóa...Tại sự kiện
ấy, bản chất của nhân vật hiện hình sắc nét.
Tại sự kiện ấy, ý tưởng của tác giả cũng bộc
lộ trọn vẹn” [5]. Và “tình huống truyện là hạt
nhân của cấu trúc thể loại truyện ngắn. Nghĩa
là nó quyết định đến sự sống còn của một
truyện ngắn” [5]. Như vậy, đối với truyện
ngắn, tình huống truyện có vai trò vô cùng
quan trọng nên người dạy cần giúp học sinh
xác định được tình huống truyện. Trong nhóm
tác phẩm văn học Nga thuộc thể loại tự sự,
ngoài đoạn trích Những đứa trẻ và truyện cổ
tích viết lại Ông lão đánh cá và con cá vàng
(A.Pushkin), các đoạn trích và tác phẩm khác
đều thuộc thể loại truyện ngắn. Thực tế, khi
dạy Số phận con người, người dạy đã chú ý
đến vấn đề tình huống truyện là cuộc gặp gỡ
giữa Sokolov và bé Vania vì sự kiện đặc biệt
đó nằm trong phần văn bản được in trong
sách giáo khoa. Với Một con người ra đời
(M.Gorki), giáo viên có thể hướng dẫn học
sinh xác định tình huống truyện là đẻ rơi. Từ
tình huống đó, nghị lực phi thường và lòng
yêu con vô bờ của người mẹ bất hạnh lang
thang vừa mất chồng và bản chất lương thiện,
nhân hậu của bà đỡ bất đắc dĩ - chàng thanh
niên xa lạ hiện lên rõ nét. Cũng qua tình
huống éo le đó, nhiệt tình ca ngợi con người
với niềm tin, niềm lạc quan hướng về sự
sống, về tương lai của nhà văn được bộc lộ
trọn vẹn.
Với truyện ngắn Người thầy đầu tiên và
Người trong bao, phần văn bản in trong sách
giáo khoa không chứa tình huống truyện,
người dạy có thể tóm tắt cốt truyện, giúp học
sinh xác định tình huống truyện từ đó cùng
học sinh khám phá giá trị của đoạn trích. Có
thể khẳng định chính sự lãng quên, thái độ
thờ ơ của mọi người đối với thầy Duyshen là
tình huống truyện của Người thầy đầu tiên.
Sau đó, giáo viên giúp học sinh nhận ra bản
chất của các nhân vật như Antunai - cho dù đã
là viện sĩ nổi tiếng vẫn luôn lưu giữ trong
lòng những kỉ niệm về người thầy đầu tiên,
người đã cùng mình vượt qua những năm
tháng đau đớn nhất của cuộc đời - và
Duyshen - sau bao thăng trầm vẫn là một con
người cao quý vì sự giản dị, chân thành, sống
hết lòng vì người khác. Qua đó, học sinh sẽ
nhận ra ý tưởng của Aitmatov về thân phận cô
đơn của con người, về nghịch lý cái đẹp bị
quên lãng khiến cho bất cứ ai cũng cảm thấy
xao lòng.
Với Người trong bao, tình huống truyện có lẽ
là tình huống Belikov chạm trán, bị ngã bởi
tiếng cười của Varenka. Người dạy định
hướng đây là một câu chuyện tình yêu. Thông
thường, tình yêu xuất hiện làm cho người
đang yêu và được yêu thay đổi theo chiều
hướng tích cực. Ở đây cả Belikov và Varenka
đều không hề thay đổi. Từ đó, có thể thấy
A.Chekhov muốn phản ánh tình trạng ngột
ngạt, bế tắc, tù túng, tệ hại đến mức những
tình cảm tốt đẹp nhất của con người cũng trở
nên tầm thường. Và khát vọng lớn nhất mà
ông muốn nói thay cho nhân dân Nga lúc bấy
giờ là khát vọng được thay đổi.
Truyện cổ tích viết lại Ông lão đánh cá và
con cá vàng của A.Pushkin vốn được người
Nguyễn Thị Thắm Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 41 - 46
46
dạy khai thác theo thi pháp thể loại của truyện
cổ tích. Bên cạnh đó, rất cần chú ý tới ý nghĩa
mới của những chi tiết cũ được nhà văn sử
dụng trong tác phẩm này. Ví dụ, chi tiết về
những đòi hỏi của mụ vợ ngoài ý nghĩa phản
ánh lòng tham muôn đời của con người, có
thể nhấn mạnh sự xuất hiện rồi biến mất trong
chớp mắt của những thứ mà mụ vợ đòi hỏi
gián tiếp phản ánh tính chất suy thoái, mục
ruỗng chỉ còn vẻ hào nhoáng bề ngoài của chế
độ Nga hoàng đầu thế kỉ XIX.
KẾT LUẬN
Dạy học văn học nước ngoài nói chung, các
tác phẩm văn học Nga nói riêng là một thử
thách đòi hỏi nhiều nỗ lực để vượt qua trong
đó dạy học theo đặc trưng thể loại chỉ là một
hướng đi. Ngoài hướng dạy học tác phẩm
theo đặc trưng thể loại, người dạy cũng có thể
tiếp cận tác phẩm văn học nước ngoài từ góc
nhìn văn hóa và tiếp cận tác phẩm văn học
nước ngoài từ góc nhìn ký hiệu học. Trên cơ
sở một nhóm đoạn trích và tác phẩm văn học
Nga tiêu biểu thuộc loại hình tự sự đang được
giảng dạy trong chương trình Ngữ văn phổ
thông, chúng tôi đề xuất một vài kinh nghiệm
dạy học bộ phận văn học này với mong muốn
cải thiện chất lượng dạy học phần văn học
nước ngoài, làm cho người học thêm yêu
thích môn Văn nói chung và các tác phẩm văn
học nước ngoài nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân
Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái
Bình (2012), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
2. Phùng Văn Tửu (2003), Cảm thụ và giảng dạy
văn học nước ngoài, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Nhiều tác giả (2013), Sách giáo khoa Ngữ văn
8, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nhiều tác giả (2013), Sách giáo khoa Ngữ văn
9, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Truyện ngắn và tình huống truyện,
(
SUMMARY
SOME EXPERIENCES OF TEACHING RUSSIAN WORKS
WHICH ARE BASED ON THE PARTICULAR KIND OF NARRATIVE
IN LITERARY CURRICULUM AT VIETNAMESE SCHOOL
Nguyen Thi Tham
*
University of Education - TNU
Foreign literature plays an important role in literary curriculum at Vietnamese schools. It not only
broadens Vietnamese pupil’s horizontal literature but also helps them to have a wide range of
cultural knowledge. However, teaching foreign literature in Vietnamese schools is challenging and
requires a lot of effort. Russian literature is a part of foreign literature. Almost Russian works
which are collected in Vietnamese literature text book is the kind of narrative. The aim of this
article is to improve the quality of teaching foreign literature through some experiences of teaching
Russian works which are based on the particular kind of narrative.
Key words: teaching, foreign literature, Russian literarure, experience, the narrative
Ngày nhận bài: 02/10/2018; Ngày hoàn thiện: 08/11/2018; Ngày duyệt đăng: 28/12/2018
*
Tel: 0975 191322, Email: ntsp2002@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32_79_1_pb_1478_2124472.pdf