Một số khó khăn khi giảng dạy tác phẩm “Truyện Kiều” cho học viên quân sự nước ngoài - Trần Thị Thu Hiền

Tài liệu Một số khó khăn khi giảng dạy tác phẩm “Truyện Kiều” cho học viên quân sự nước ngoài - Trần Thị Thu Hiền: 95KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v 1. MỞ ĐẦU Một nhà sử học Ôxtrâylia đã dùng khái niệm “Sự chuyên chế của những khoảng cách” để nói về đặc thù không gian của thiên nhiên trên một đất nước đồng thời là cả một lục địa – Ôxtrâylia”. Có thể dùng khái niệm đó để biểu đạt tính chất khó khăn của việc đưa tác phẩm văn học quá khứ – đặc biệt là di sản văn học viết của 10 thế kỉ xây dựng quốc gia phong kiến độc lập (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, mà chúng ta quen gọi là Văn học trung đại Việt Nam) – đến với thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và các bạn học viên nước ngoài (đang được đào tạo ở Học viện Khoa học Quân sự) nói riêng. Những người giảng viên văn học đã gặp phải một “bi kịch” trong cuộc đời nghề nghiệp của bản thân là bởi mặc dầu thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xươngvà nhiều tác gia khác đã đạt đến giá trị kiệt tác nhưng MỘT SỐ KHÓ KHĂN KHI GIẢNG DẠY TÁC PHẨM “TRUYỆN KIỀU” CHO HỌC VIÊN Q...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 561 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số khó khăn khi giảng dạy tác phẩm “Truyện Kiều” cho học viên quân sự nước ngoài - Trần Thị Thu Hiền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
95KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v 1. MỞ ĐẦU Một nhà sử học Ôxtrâylia đã dùng khái niệm “Sự chuyên chế của những khoảng cách” để nói về đặc thù không gian của thiên nhiên trên một đất nước đồng thời là cả một lục địa – Ôxtrâylia”. Có thể dùng khái niệm đó để biểu đạt tính chất khó khăn của việc đưa tác phẩm văn học quá khứ – đặc biệt là di sản văn học viết của 10 thế kỉ xây dựng quốc gia phong kiến độc lập (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, mà chúng ta quen gọi là Văn học trung đại Việt Nam) – đến với thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và các bạn học viên nước ngoài (đang được đào tạo ở Học viện Khoa học Quân sự) nói riêng. Những người giảng viên văn học đã gặp phải một “bi kịch” trong cuộc đời nghề nghiệp của bản thân là bởi mặc dầu thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xươngvà nhiều tác gia khác đã đạt đến giá trị kiệt tác nhưng MỘT SỐ KHÓ KHĂN KHI GIẢNG DẠY TÁC PHẨM “TRUYỆN KIỀU” CHO HỌC VIÊN QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI TRẦN THỊ THU HIỀN Học viện Khoa học Quân sự TÓM TẮT Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX). Hầu như tất cả các nhà nghiên cứu, bình luận Truyện Kiều đều khẳng định Nguyễn Du là bậc thầy của ngôn ngữ dân tộc, là người đã nâng ngôn ngữ văn học dân tộc của thời đại lên một đỉnh cao chói lọi. Và có thể nói, bất cứ người Việt Nam dù ở lứa tuổi nào cũng đều đọc Truyện Kiều; có người thuộc dăm bảy câu, có người thuộc nhiều đoạn, có người thuộc cả Truyện Kiều, thậm chí có người còn “đọc ngược” Truyện Kiều. Chính vì, Truyện Kiều là một tác phẩm nổi tiếng của một giai đoạn văn học Việt Nam nên việc giảng dạy tác phẩm này cho học viên quân sự nước ngoài (chuyên ngành Việt Nam học) cũng vấp phải một số khó khăn. Vấn đề là người dạy phải tìm cách vượt qua những khó khăn ấy để chuyển tải đến người học những vấn đề thuộc về nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm. Từ đó, khơi gợi niềm yêu thích tìm hiểu, khám phá những cái hay, cái đẹp có trong mỗi tác phẩm văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng. Từ khóa: giảng dạy, học viên quân sự nước ngoài , khó khăn, tác phẩm, Truyện Kiều dường như học viên phải “học” tác phẩm Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều, Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Khuyến, qua sự áp đặt của khung chương trình môn học và người giảng viên giảng dạy trên lớp. Chính mâu thuẫn này đã khiến người giảng viên văn học phải tạo ra cho học viên niềm yêu thích, sự rung cảm, hứng thú khi tìm hiểu tác phẩm văn học thời trung đại. Hơn nữa, đối tượng giảng dạy của tác phẩm Truyện Kiều là học viên quân sự nước ngoài được đào tạo theo chương trình Cử nhân Việt Nam học tại Học viện Khoa học Quân sự. Thời điểm học viên được tiếp xúc với môn Văn học trung đại Việt Nam nói chung và tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du nói riêng là Học kì I của năm thứ tư – năm học trước khi kết thúc cả quá trình đào tạo. Lúc này, học viên đã được trang bị khá nhiều vốn kiến thức về văn hóa, ngôn ngữ (Trừ một số học viên gặp phải một chút khó 96 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI khăn về ngôn ngữ). Đó là những điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận một tác phẩm văn chương. Tuy nhiên, vì Truyện Kiều là một tác phẩm được đánh giá cao trong nền văn học dân tộc Việt Nam – là “kiệt tác số một trong lịch sử văn học dân tộc” và thời gian dành cho việc học tác phẩm Truyện Kiều không nhiều – khoảng 15 tiết/120 tiết cho cả môn học nên đòi hỏi học viên nước ngoài phải nỗ lực rất nhiều. Như vậy, cũng như nhiều tác phẩm văn học trung đại khác, để đến được với tác phẩm Truyện Kiều, cảm nhận được những cái hay, cái đẹp của tác phẩm ấy, học viên quân sự nước ngoài đã phải vượt qua bao hàng rào ngăn cách, đã phải “chống chọi” lại với “uy quyền của những khoảng cách”Và đó là những khoảng cách nào? 2. NỘI DUNG 2.1. Những khoảng cách giữa Truyện Kiều và người học Trước hết, đó là khoảng cách về không gian và thời gian lịch sử. Không riêng gì học viên nước ngoài, mà ngay cả người Việt Nam ở tất cả các lứa tuổi đều gặp phải khó khăn khi tiếp cận với một tác phẩm văn học trung đại bởi chiều dài của thời gian lịch sửVà đó cũng không đơn giản chỉ là câu chuyện của thời gian mà còn là sự khác biệt của loại hình xã hội, của cuộc sống. Thời đại Truyện Kiều là sự ngự trị của vương quyền; ngày nay chúng ta đang đấu tranh xây dựng một xã hội mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, sự phát triển của lịch sử cũng đem đến biết bao sự biến đổi mãnh liệt, sâu sắc, trong đó có sự biến đổi về phong cách sinh hoạt, ứng xử. Những cô gái ngày nay chắc khó có thể rung động trước trang phục của một Kim Trọng “Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời” bởi họ chỉ biết có những chàng trai màu quần jeans, áo vest! Tiếp đó là khoảng cách tâm lí học. Có lẽ nhịp sống “tên lửa” dồn dập, sự bùng nổ của thời đại “công nghệ thông tin” cùng với biết bao lo toan của cảnh sống xa quê hương, đất nước đã khiến cho đại đa số học viên nước ngoài không có thì giờ, tâm trí và cả sự hứng thú với việc vùi đầu hàng giờ, hàng ngày vào một cuốn tiểu thuyết hiện đại, chứ chưa nói gì đến Truyện kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn Du – những cái hoàn toàn xa lạ, khó hiểu, nhàm chán đối với họ. Việc giảng dạy một tác phẩm văn học trung đại như vậy đòi hỏi phải có sự “tái hiện khung cảnh không gian và thời gian lịch sử”, phải “gây được không khí lịch sử” cho các học viên. Để làm được điều này, giảng viên cần phải có một vốn liếng tri thức lịch sử văn hóa xã hội để thông tin tới học viên, để họ có thể hiểu, “nhập thân” vào hoàn cảnh, vào cuộc sống quá khứ cũng như tính cách, số phận của nhân vật, tạo nền tảng cho sự lĩnh hội tác phẩm. Một khoảng cách cơ bản nữa cần nêu lên là sự khác biệt trong phong cách nghệ thuật, nhất là sự khác biệt trong phong cách ngôn ngữ giữa văn học hiện đại và văn học trung đại – vốn là hai phạm trù văn học khác nhau. Đây là vấn đề cần xử lí trước tiên khi tiếp cận văn bản quá khứ – bởi ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên, là đơn vị cơ bản của một văn bản văn học. Đối với học viên nước ngoài, khi tìm hiểu một tác phẩm văn học nói chung đã rất khó khăn, đằng này lại là tác phẩm văn học cổ điển. Bởi khi đó, học viên vấp phải một hàng rào ngôn ngữ tiếng Việt (mặc dù đã được trang bị nhưng chưa đủ), những từ ngữ khó, những địa danh, những điển tích, điển cố, thi liệu, văn liệu xa lạ, khó hiểu. Ở đây, rất cần một khâu “trung gian phiên dịch” những ngôn từ “khô khan” trong giáo trình hoặc cả những lời giải thích của giảng viên trên bục giảng. Có những học viên không đọc các chú giải, hoặc chỉ đọc khi buộc phải hiểu để trả lời câu hỏi của giảng viên. Thậm chí, ngay cả lời giải thích của thầy cô giáo, học viên cũng không hứng thú nghe, có học viên còn không hiểu (mặc dù, giảng viên đã cố gắng giải thích bằng các từ ngữ đơn giản nhất). Hoặc nếu có nghe, có hiểu thì quá trình lĩnh hội, tiếp nhận tác phẩm cũng không liền mạch, do đó, phần nào hạn chế sự rung cảm, làm giảm đi sự hứng thú khi tìm hiểu tác phẩm văn học. Như vậy, có biết bao khoảng cách cần phải vượt qua khi đưa một tác phẩm văn học cổ điển đến với học viên quân sự nước ngoài. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xin dừng lại nói sâu hơn về ngôn ngữ văn bản, nhất là ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm Truyện Kiều. 2.2. Khoảng cách ngôn ngữ trong tác phẩm Có thể nói, nhân vật văn học không phải từ trên trời rơi xuống, mà nó bắt nguồn từ mẫu hình có thực trong cuộc sống đời thường được nhà văn gia công, thổi vào nó cái hồn và điển hình hóa bằng nhiều biện pháp nghệ thuật. Và việc tìm hiểu ngôn ngữ là điều quan 97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v trọng nhất, nếu không muốn nói là duy nhất để hiểu nhân vật, bởi cuộc sống của nhân vật trong tác phẩm tùy thuộc vào khả năng sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Trong tác phẩm, nhà văn có thể cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều cách: nhấn mạnh cách đặt câu, ghép từ, lời phát âm đặc biệt của nhân vật; cho nhân vật lặp lại những từ, câu mà nhân vật thích nói, kể cả từ vay mượn và từ địa phương Theo ý kiến của M. Gorki, thành phần ngôn ngữ nhân vật bao gồm: một bộ phận ngôn ngữ do “tác giả lấy từ các nhân vật trong thực tế ra làm tài liệu”, “dùng vốn kinh nghiệm tri thức bản thân gọt giũa lại” và một bộ phận khác “hư cấu” nên để nói nốt cho họ những điều mà họ chưa có dịp nói, hoặc tiếp tục nốt những hành động mà họ chưa kịp làm nhưng chắc chắn phải làm. Ta có thể xem bộ phận thứ nhất là ngôn ngữ của chính nhân vật, gồm có ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại. Đây là phần quan trọng nhất của tác phẩm. Bộ phận thứ hai thường được mệnh danh là ngôn ngữ câm – là ngôn ngữ tác giả nói thay cho nhân vật. Nhìn khái quát, ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều mang tính truyền thống rõ rệt. Tuy vậy, phần sáng tạo đặc sắc trên cơ sở truyền thống là công lao lớn của Nguyễn Du. Bên cạnh ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng còn có ngôn ngữ đời sống phong phú và đậm đà màu sắc hiện thực chủ nghĩa. Nói cách khác, có nhiều từ ngữ sáo mòn, ngoại lai xen lẫn vào giữa kho tàng từ ngữ thuần Việt mộc mạc, chân chất, giản dị mà trong sáng, giàu chất sống hiện thực. Có ý kiến cho rằng: “Ngôn ngữ có nhiều tính chất ước lệ trong Truyện Kiều chủ yếu được sử dụng cho các nhân vật chính diện” (Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan, Kim Trọng,..) và “ngôn ngữ có nhiều thành phần hiện thực chủ nghĩa được sử dụng nhiều hơn cho các nhân vật phản diện” (Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh). Đối với các nhân vật chính diện thì thành phần ước lệ trong ngôn ngữ bị phá vỡ dần và thành phần hiện thực chủ nghĩa được tăng cường khi con người đi sâu vào cuộc sống có nhiều xung đột. Vậy điều cần làm để tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật là chúng ta đi sâu phân tích những hoàn cảnh cụ thể, trong đó nhân vật “tự bạch” hay đối thoại. Cũng như con người thực, nhân vật văn học là một chỉnh thể sống động; khi tìm hiểu ngôn ngữ không thể quên chỉnh thể đó. Còn việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại hay đối thoại là để góp phần minh họa thêm, làm sáng tỏ hơn những yếu tố thuộc về bản chất của nhân vật. Tất nhiên, trước khi phân tích ngôn ngữ một nhân vật nào đó, chúng ta phải hiểu đầy đủ và sâu sắc vai trò, vị trí và quá trình phát triển của nhân vật ấy trong tác phẩm. 2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật là lời nói mà nhân vật trao đổi với một hay nhiều nhân vật khác để bày tỏ quan điểm, thái độ, ý kiếncủa mình trước vấn đề mà mình đang quan tâm. Trong văn học trung đại Việt Nam, nếu ngôn ngữ độc thoại được sử dụng chủ yếu cho các nhân vật trong khúc ngâm (như Chinh phụ ngâm khúc của tác giả Đặng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị Điểm; Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều) thì ngôn ngữ đối thoại lại được sử dụng nhiều cho các nhân vật trong truyện thơ tự sự. Do vậy, ta có thể dễ dàng lí giải tại sao ngôn ngữ đối thoại trong Truyện Kiều chiếm tỉ lệ khá cao so với ngôn ngữ độc thoại. Hãy lấy nhân vật Tú Bà để xem xét. Mụ được miêu tả là người làm nghề buôn thịt bán người: “Thoắt trông nhờn nhợt màu da/Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao!”. Người đọc đã gặp mụ trong trong cơn tam bành, thực chất là một cuộc sát phạt ác liệt mà mụ giáng lên đầu Mã Giám Sinh và Thúy Kiều. Đây mới chỉ là một khoảnh khắc. Để hoàn thành nốt chân dung nhân vật có một không hai này, Nguyễn Du đã đặt nhân vật trong các màn đối thoại. Màn 1: Cửa hàng buôn bán cho may, Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu. Muôn nghìn người thấy đều yêu, Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai. Tin nhạn vẩn, lá thơ bài, Đưa người cửa trước, rước người cửa sau. Tú Bà đang đối thoại (khấn vái) với Thành hoàng của nghề mụ: Thần mày trắng – đó là thần hộ mệnh. Dù vốn vô học và cộc cằn nhưng mụ cũng phải lựa chọn sao cho lời khấn thể hiện được nội dung khẩn cầu, vừa trang trọng đối với tổ nghề, vừa diễn đạt đúng và 98 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI đủ điều cần thiết của “cửa hàng” để thần biết mà phù trợ. Nội dung khẩn cầu là gì? Có được món hàng mới, cửa hàng sẽ phát đạt, rất đông khách (hai câu đầu); được khách quyến luyến, ưa chuộng (hai câu giữa); câu khách và giữ được khách làng chơi không ngớt lui tới (hai câu cuối). Dù là ngôn ngữ đời sống hay ngôn ngữ ước lệ thì cũng phải diễn đạt sao cho đúng là lời của mụ trùm nhà chứa. Vậy thì, “Cửa hàng buôn bán cho may”, “Đưa người cửa trước, rước người cửa sau” là lời lẽ của mụ chủ bán dâm đích thực, chẳng cần tô vẽ gì nữa. Còn ngôn ngữ ước lệ cũng chỉ bao gồm một số từ ngữ như: “Hàn Thực, Nguyên Tiêu” – đó là những kì lễ tết trong năm, ai cũng biết; hoặc “anh yến, trúc mai”, “tin nhạn, lá thơ” thông dụng ở chốn lầu xanh. Ngay cả lời khấn thần cũng mang dấu ấn giọng lưỡi Tú Bà không lẫn vào đâu được! Màn 2: Mụ rằng: “Ai cũng như ai Người ta ai mất tiền hoài đến đây. Ở trong còn lắm điều hay, Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung. Này con thuộc lấy làm lòng, Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề. Chơi cho liễu chán hoa chê, Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời! Khi khóe hạnh, khi nét ngài, Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa. Đều là nghề nghiệp trong nhà, Đủ ngần ấy nết, mới là người soi” Có người gọi màn này là màn Tú Bà dạy nghề! Sau khi ra uy khuất phục được Thúy Kiều chịu tiếp khách, Tú Bà đổi giọng hoàn toàn. Mụ không còn cất lên cái giọng the thé với những lời nhiếc móc, xỉa xói tục tĩu của cái thời mụ nổi cơn tam bành mà lời lẽ thẽ thọt trở nên lụa là, ngọt xớt với thái độ ân cần mơn trớn. Mụ tỉ tê với Kiều như những lời “tự bạch”. Nguyễn Du hầu như chỉ dùng ngôn ngữ thuần Việt nhưng hình tượng hiện lên vẫn có tính ước lệ vì nhà thơ không muốn khui ra đủ thứ dơ dáy, bẩn thỉu của cái nghề bán dâm của mụ. Dù vậy, cái cảnh đam mê đến trác táng vẫn cứ hiện ra nửa kín nửa hở bởi vì ngôn ngữ thơ ở cảnh này vẫn có khả năng gợi tả bằng các hình thức tu từ như: ẩn dụ (khép mở, riêng chung, bảy chữ, tám nghề); nhân hóa (liễu chán hoa chê); đảo ngữ (lăn lóc đá, mê mẩn đời) và đặc biệt là điệp ngữ cho và khi hết sức nổi trội (cho liễu chán hoa chê, cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời; khi khóe hạnh, khi nét ngài, khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa). Nói chung, những từ ngữ trong màn đối thoại trên chỉ là những từ ngữ thông dụng ở “miền nguyệt hoa”, dù trôi chảy, mềm mỏng đến đâu vẫn không đánh lừa được ai, đúng như cảm nhận của Thúy Kiều: “Những nghe nói đã thẹn thùng/Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!” Sử dụng những từ ngữ rất đúng chỗ và đắt nghĩa kể trên, nhà thơ Nguyễn Du đã dựng lên một màn đối thoại hết sức độc đáo và hiếm hoi: Đối thoại mà vẫn như độc thoại! Mở màn, Tú Bà dạy cho Kiều biết tâm lí chung của khách làng chơi; tiếp theo, mụ trao đổi những từng trải nghề nghiệp mà mụ đã đúc kết được suốt “đời mưa gió” của mụ, với lời súc tích mà giọng hả hê; cuối cùng, mụ khép lại bằng những lời khích lệ. Như vậy, có thế thấy Nguyễn Du đã trao cho nhân vật của mình dù mới chỉ là ở màn đối thoại, lời ăn tiếng nói rất phù hợp với vai trò, vị trí và tính cách của nhân vật trong từng văn cảnh cụ thể của tác phẩm. 2.2.2. Ngôn ngữ độc thoại Ngôn ngữ độc thoại được xem là “tiếng lòng” của nhân vật phát ra một cách trung thực sự rung cảm của mình trước thiên nhiên và xã hội. Chỉ có qua ngôn ngữ độc thoại, người đọc tác phẩm mới có thể cảm nhận được đầy đủ và sâu sắc tâm tư, tình cảm, ý nghĩ, tức là đời sống nội tâm của nhân vật. Sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm là thành tựu xuất sắc nhất của văn học. Các kiệt tác của nhiều đại thi hào có tầm cỡ thế giới đều trở nên sống động, hấp dẫn vì các tác giả đã sử dụng kì tài ngôn ngữ độc thoại nội tâm của các nhân vật. Đây cũng là một thành tựu nổi bật của văn học trung đại Việt Nam. Truyện Kiều của Nguyễn Du là truyện thơ đỉnh cao, đạt được nhiều thành tựu xuất sắc nhất về mặt sử dụng ngôn ngữ nhân vật. Trong phần giới thiệu về ngôn ngữ độc thoại của nhân vật, chúng ta đã phần nào thấy được thần bút của tác giả. Hơn nữa, tất cả các nhân vật trong Truyện Kiều còn có đời sống nội tâm phong phú. Chính nhờ ngôn ngữ độc thoại nội tâm mà người đọc nắm được cái thần của nhân vật. Đọc Truyện Kiều, ai cũng biết Tú Bà, Sở Khanh “lưu manh” vì những màn đối thoại. Ngược lại, nhiều nhân vật khác lại trở nên bất hủ vì những màn độc thoại nội 99KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v tâm. Hãy đến với nhân vật Thúy Kiều với một vài khúc ngoặt trong cuộc đời để thấy rõ điều đó. Suốt nhiều chặng đường trong cuộc đời mình, Thúy Kiều đã có bao lần thao thức trăn trở về số phận, về vận mệnh của mình. Thi hào Nguyễn Du đã ghi nhận “những biến động con tim” ấy bằng những lời độc thoại hoàn toàn thích hợp và sắc sảo. Mỗi chặng đường, mỗi cảnh ngộ, tâm trạng Kiều diễn biến khác nhau, không lần nào giống lần nào. Kể từ sau buổi dự lễ hội Đạp thanh cho đến các chặng đường khổ ải tiếp theo: bán mình, trao duyên, thất thân với Mã Giám Sinh, bị mắc lừa Sở Khanh, bị đày đọa dưới trướng Hoạn Thư, sống tủi nhục trong lầu xanh, trẫm mình trên sông nước Tiền Đường Dường như lúc nào nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du cũng có mặt bên cạnh nàng để ghi nhận bấy nhiêu tâm trạng. Diễn biến nội tâm Thúy Kiều sau buổi du xuân: Người mà đến thế thì thôi, Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi! Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không? Hai cặp lục bát kết tinh hai nỗi vương vấn, băn khoăn về cuộc đời: Những gì đã qua sao mà phũ phàng đến thế! Những gì đang e ấp chớm nở liệu có hi vọng gì không? Hai diễn biến tâm trạng về quá khứ và hiện tại dường như là một nghịch lí gây nên nỗi băn khoăn, day dứt đối với con người đa sầu đa cảm như Thúy Kiều. Nội tâm Thúy Kiều trước lúc trao duyên: Phận dầu, dầu vậy cũng dầu, Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời. Công trình kể biết mấy mươi, Vì ta khăng khít, cho người dở dang. Thề hoa chưa ráo chén vàng, Lỗi thề, thôi đã phũ phàng với hoa. Trời Liêu non nước bao xa, Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà, tự tôi! Biết bao duyên nợ thề bồi, Kiếp này, thôi thế thì thôi, còn gì? Tái sinh chưa dứt hương thề, Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai. Nợ tình chưa trả cho ai, Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan! Trước cơn gia biến, những gì có thể làm được thì Thúy Kiều đã làm để vãn hồi hạnh phúc cho gia đình trong muôn một. Nàng sắp phải rời khỏi tổ ấm gia đình. Điều đang làm cho lòng nàng “thổn thức đầy” chưa phải là những dự cảm về những nỗi bất hạnh mà nàng gặp phải trên con đường lưu lạc. Mà nỗi ái ngại trước hết, nàng dành cho Kim Trọng. Chàng đang ở tít tận “trời Liêu”, vậy nên nỗi ái ngại càng tăng lên bội phần. Lời thơ, tiếng nói độc thoại của chính nàng hết sức xao xuyến: “Vì ta khăng khít”, “thôi đã phũ phàng”, “Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà, tự tôi!”. Nàng tự trách mình, tự kết tội mình! Chính vì vậy mà nỗi đau đến xé lòng cứ dâng lên từng đợt, đợt sau mạnh hơn đợt trước. Đỉnh cao của những cơn bão lòng dồn cả vào câu: “Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà, tự tôi!”. Câu thơ được ngắt nhịp liên tiếp, lại được bổ sung bằng thành ngữ  “rẽ cửa, chia nhà” đầy xốn xang. Đúng theo quy luật của phát triển tâm lí, càng ái ngại cho chàng Kim bao nhiêu thì Thúy Kiều càng ái ngại cho mình bấy nhiêu! Nàng coi mình là kẻ đắc tội, biết có cách nào gỡ cho được tội? Đang nói đến chàng Kim, lời thơ chuyển sang giọng thương mình da diết: “Kiếp này, thôi thế thì thôi, còn gì?”. Câu thơ vang lên như một lời tuyệt vọng. Những hình ảnh hiện lên từ những điển cố “tái sinh”, “nợ tình” như dắt nhân vật vào cõi âm mịt mờ khổ ải! Đọc đến đây, ai mà không ái ngại cho một kiếp người đầy oan khuất! Nội tâm Thúy Kiều trước giờ tự trẫm mình: Rằng: “Từ Công hậu đãi ta, Xót vì việc nước mà ra phụ lòng Giết chồng mà lại lấy chồng, Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời. Thôi thì một thác cho rồi, Tấm lòng phó mặc trên trời, dưới sông!” Sau khi bị Hồ Tôn Hiến phản bội, bị làm nhục, Thúy Kiều hết đường tính liệu. Nàng đã quyết định đi tìm cái chết! Rồi một đêm, trên sông nước Tiền Đường, ruột rối tơ vò, lòng tràn đầy ân hận và oan khuất, nàng đã “gieo mình xuống dòng tràng giang”. Đây là những lời trăn trối cuối cùng kết thành một tấn bi kịch thê thảm của một kiếp người tài sắc. Lời đầu tiên đầy trang trọng, nàng dành cho ân nhân vĩ đại Từ Hải. Cũng như lần trước, khi đối mặt với kẻ thù, nàng hùng hồn khẳng định: “Rằng Từ là đấng anh hùng/Dọc ngang trời rộng, vẫy vùng biển khơi”. Lần này, nàng tôn vinh Từ Hải: “Rằng: Từ Công hậu đãi ta” bởi vì, trong nhận thức, trong tâm tưởng của nàng, Từ Hải vừa là anh hùng, vừa là ân nhân. Phải chăng, những lời tôn vinh ấy như để nàng phần nào chuộc lại cái lỗi lầm hết sức tai hại của mình? Tiếp đến, trở lại với mình, 100 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI nàng dày vò mình, tự buộc tội mình đã làm nên tội lớn không thể dung tha! Ngôn ngữ thuần Việt mà quyết liệt, dữ dội, dứt khoát. Âm điệu câu thơ láy đi láy lại chì chiết, thắt buộc, phản ánh chân thực tâm trạng của người đang trăn trối: hối hận, đau đớn, tiếc thương. Người đời có thể trách Thúy Kiều nhưng không ai không hiểu rõ nỗi oan khuất của đời nàng. Như vậy, phân chia ngôn ngữ nhân vật thành hai bộ phận: đối thoại và độc thoại là để dễ thấy ưu thế và đặc điểm của từng bộ phận, đồng thời nhận ra tính chính xác, tinh vi, tế nhị và sức biểu đạt đặc sắc của nhân vật trong từng cảnh ngộ cụ thể. Một trong những yếu tố làm nên thành công của một tác phẩm là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Dù là ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật hay ngôn ngữ trực tiếp của tác giả viết về nhân vật đều nhằm mục đích trao cho nhân vật một diện mạo ngoại hình và đời sống nội tâm sinh động đúng như vai trò, vị trí của nhân vật trong tác phẩm. Với kiệt tác Truyện Kiều, bằng nhiều bút pháp nghệ thuật trác tuyệt, trong đó có bút pháp sử dụng ngôn ngữ đối thoại và độc thoại chính xác, sắc sảo; thi hào Nguyễn Du đã tạo nên cả một thế giới nhân vật chân thực, sinh động, dễ nhận mặt, sống mãi trong lòng các thế hệ người đọc. 3. KẾT LUẬN Những khó khăn đặt ra nói trên trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du không thể được giải quyết một cách đầy đủ, thích đáng chỉ trong một sớm, một chiều và ở những bài viết lẻ tẻ vì yêu cầu phạm vi vấn đề cùng năng lực chủ quan của người viết. Ví dụ như, vấn đề khoảng cách tâm lí học đòi hỏi được nghiên cứu trên quan điểm liên ngành xã hội học–văn học. Trong các lĩnh vực tri thức nói trên, sự hiểu biết về những phạm trù văn hóa trung đại là một vấn đề quan trọng, đặc biệt là lĩnh vực triết học Nho giáo, Phật giáo và ở mức độ nhất định, còn là tư tưởng Lão- Trang. Và vấn đề chiếm lĩnh tri thức văn hóa và triết học trung đại của người giảng viên cần được đưa vào một chương trình thông tin khoa học về những thành tựu nghiên cứu mới trên lĩnh vực này. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi xuất phát từ góc độ bài giảng của giảng viên với tư cách là một thông điệp trung gian giữa tác phẩm nghệ thuật (thông điệp gốc) đến với học viên quân sự nước ngoài (đối tượng tiếp nhận) để đưa ra một vài phương hướng xử lí theo quan niệm chủ quan. Có thể, bài viết chưa làm thỏa mãn thú tìm hiểu, nghiên cứu cũng như cách xử lí của độc giả nhưng dẫu sao cũng đã đưa đến một cách tiếp cận khác đối với một tác phẩm vốn nổi tiếng này./. Tài liệu tham khảo: 1. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên), Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (1999), Nguyễn Du – về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 2. Lê Bá Hán (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 3. Đặng Thanh Lê (1999), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 4. Đặng Thanh Lê (1999), Giảng văn Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội. 5. Hoàng Hữu Yên (2003), Cái hay, cái đẹp của tiếng Việt trong Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội. SEVERAL DIFFICULTIES IN TEACHING “TRUYEN KIEU” FOR FOREIGN MILITARY STUDENTS TRAN THI THU HIEN Abstract: “Truyen Kieu” by Nguyen Du is a masterpiece in Vietnamese medieval literature (from 10th to 19th century). Almost all literary researchers and critics of ”Truyen Kieu” assert that Nguyen Du was a master of national language, who at that time raised Vietnamese language to a glorious climax. It can be seen that Vietnamese people of all ages read “Truyen Kieu”, some remember a few sentences, some many parts, some learn “Truyen Kieu” by heart, some even read it backward. As “Truyen Kieu” is a well-known literary work in a period of Vietnam’s literature, teaching it for foreign military students face up to a number of difficulties. The bottom line is that teachers have to overcome the problems to help students find out the content and artistic matter of this work. Therefore, the interest in learning will be developed, the beauty of each literary work in Vietnamese literature in general and medieval literature in particular will be explored and appreciated. Keywords: teaching, international defense students, difficult, creation, Truyen Kieu Ngày nhận: 03/8/2016 Ngày phản biện: 08/9/2016 Ngày duyệt đăng: 13/9/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf32_0086_2137217.pdf
Tài liệu liên quan