Tài liệu Một số hướng đổi mới dạy học Vật lí ở trường Phổ thông - Nguyễn Ngọc Hưng: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0153
Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 8B, pp. 3-10
This paper is available online at
MỘT SỐ HƯỚNG ĐỔI MỚI DẠY HỌC VẬT LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Nguyễn Ngọc Hưng
Khoa Vật lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài báo đề cập một số hướng đổi mới dạy học vật lí ở trường phổ thông về các
mặt: Nội dung dạy học, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học, việc sử dụng
phương tiện dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập vật lí của học sinh nhằm đạt được
mục tiêu dạy học phát triển năng lực của học sinh.
Từ khóa: Đổi mới dạy học Vật lí.
1. Mở đầu
Đã có nhiều nghiên cứu bàn về việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học và hình thức
tổ chức dạy học trong dạy học các kiến thức vật lí cụ thể. Tuy nhiên, các nghiên cứu riêng lẻ này
còn tản mạn và chưa mang tính khái quát. Vì vậy, cần đề xuất một cách có hệ thống và khái quát
các hướng đổi mới của tất cả các yếu tố tạo nên quá trình dạy học vật lí, làm rõ các vấn đ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 1005 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số hướng đổi mới dạy học Vật lí ở trường Phổ thông - Nguyễn Ngọc Hưng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0153
Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 8B, pp. 3-10
This paper is available online at
MỘT SỐ HƯỚNG ĐỔI MỚI DẠY HỌC VẬT LÍ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Nguyễn Ngọc Hưng
Khoa Vật lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài báo đề cập một số hướng đổi mới dạy học vật lí ở trường phổ thông về các
mặt: Nội dung dạy học, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học, việc sử dụng
phương tiện dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập vật lí của học sinh nhằm đạt được
mục tiêu dạy học phát triển năng lực của học sinh.
Từ khóa: Đổi mới dạy học Vật lí.
1. Mở đầu
Đã có nhiều nghiên cứu bàn về việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học và hình thức
tổ chức dạy học trong dạy học các kiến thức vật lí cụ thể. Tuy nhiên, các nghiên cứu riêng lẻ này
còn tản mạn và chưa mang tính khái quát. Vì vậy, cần đề xuất một cách có hệ thống và khái quát
các hướng đổi mới của tất cả các yếu tố tạo nên quá trình dạy học vật lí, làm rõ các vấn đề: Đổi
mới dạy học vật lí ở trường phổ thông là đổi mới những yếu tố nào và đổi mới những yếu tố đó
như thế nào. Các hướng đổi mới được đề xuất là định hướng cho các nghiên cứu cụ thể về lí luận
và phương pháp dạy học vật lí và cho quá trình dạy học vật lí ở trường phổ thông nhằm đáp ứng
mục tiêu dạy học phát triển năng lực của học sinh.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Định hướng chung đổi mới giáo dục phổ thông
- Thay vì chủ yếu theo tiếp cận nội dung, chương trình giáo dục phổ thông được thực hiện
từ năm 2018 có mục tiêu mới là hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp và các năng lực
cần thiết để học sinh trở thành người lao động thích nghi được với hoàn cảnh sống, học tập và làm
việc luôn biến đổi [1]. Mục tiêu này đòi hỏi sự đổi mới đồng bộ nội dung dạy học, phương pháp
dạy học, hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh.
+ Về nội dung dạy học, chương trình được đổi mới theo hướng hiện đại, thiết thực, phù hợp
với lứa tuổi, trình độ và định hướng nghề nghiệp; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn;
tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên.
+ Về phương pháp dạy học, chương trình chú trọng sử dụng các phương pháp dạy học, trong
đó có các phương pháp dạy học đặc thù của mỗi môn học, các kĩ thuật dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập, tập trung dạy cách học và rèn luyện năng lực tự học của học sinh.
Ngày nhận bài: 15/7/2016. Ngày nhận đăng: 15/9/2016.
Liên hệ: Nguyễn Ngọc Hưng, e-mail: nnhung67hb@yahoo.com
3
Nguyễn Ngọc Hưng
+ Về hình thức tổ chức dạy học, chương trình đòi hỏi các hoạt động học tập đa dạng, chú ý
các hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo.
+ Về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, chương trình yêu cầu công việc này
phải dựa trên các tiêu chí đánh giá năng lực của học sinh, có tính đến sự tiến bộ trong quá trình
học tập và chú trọng khả năng vận dụng tổng hợp các kiến thức, kĩ năng trong các tình huống thực
tiễn của học sinh.
- Việc đổi mới giáo dục theo các định hướng trên đòi hỏi phải thực hiện chức năng mới
của giáo viên (sự dạy) và chức năng mới của học sinh (sự học): Giáo viên là người tổ chức, kiểm
tra, hướng dẫn hoạt động học, dạy học sinh phương pháp học; còn học sinh ý thức được nhiệm vụ
cần thực hiện, chủ động, tích cực tìm tòi nghiên cứu, trao đổi tranh luận trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ.
2.2. Một số hướng đổi mới dạy học vật lí ở trường phổ thông
Quán triệt định hướng chung trên đây, quá trình đổi mới dạy học vật lí ở trường phổ thông
cần đi theo những hướng sau:
1. Đổi mới nội dung dạy học vật lí
- Theo chương trình giáo dục phổ thông ở cấp Trung học cơ sở (giai đoạn giáo dục cơ bản),
các kiến thức vật lí không được sắp xếp thành một môn học riêng, mà được tích hợp với các kiến
thức sinh, hóa, khoa học về Trái đất trong môn khoa học tự nhiên. Các kiến thức môn khoa học
tự nhiên được thiết kế thành các chủ đề theo các nguyên lí vận động, phát triển chung của giới tự
nhiên và các chủ đề đòi học học sinh phải vận dụng tổng hợp các kiến thức, kĩ năng đã học vào
các tình huống thực tiễn cuộc sống và sản xuất.
Ở cấp Trung học phổ thông (giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp), đối với học sinh
định hướng khoa học tự nhiên, vật lí được tách riêng thành một môn học được thiết kế theo các
chủ đề học tập bắt buộc và các chủ đề học tập tự chọn. Còn đối với học sinh định hướng khoa học
xã hội, học sinh tiếp tục học các chủ đề của môn khoa học tự nhiên để lĩnh hội những kiến thức
khái quát nhất, có tính nguyên lí chung nhất của giới tự nhiên cần thiết cho mọi học sinh theo bất
cứ định hướng nghề nghiệp nào.
- Dù dạy học theo chương trình nào, dựa trên chuẩn các kiến thức, kĩ năng ở từng chủ đề
được nêu trong chương trình, giáo viên có thể linh hoạt thay đổi logic xây dựng kiến thức, thời
lượng dành cho dạy học từng kiến thức sao cho phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của lớp học.
- Nội dung học tập được chia thành các chủ đề bắt buộc và các chủ đề tự chọn. Ngay trong
các chủ đề bắt buộc, cũng có những nội dung kiến thức tự chọn. Nội dung các chủ đề, nhất là các
chủ đề tự chọn cần có tính hiện đại (ví dụ: đề cập nguyên lí chung và một số ứng dụng của công
nghệ nano, nguyên tắc cấu tạo và hoạt động của lò vi sóng, tủ lạnh, máy chụp cộng hưởng từ. . . )
và đặc biệt là cần mang tính thực tiễn Việt Nam và thực tiễn địa phương (ví dụ: đối với chủ đề về
việc sử dụng năng lượng tái tạo, cần đề cập thực trạng sử dụng năng lượng gió ở Việt Nam hiện
nay. Nếu tổ chức dạy học chủ đề về âm học ở lớp 12 các trường vùng Tây Nguyên, cần tổ chức cho
học sinh nghiên cứu các loại đàn mang bản sắc của các dân tộc Tây Nguyên không chỉ về mặt vật
lí, mà cả về sự cải tiến và hoàn thiện chúng, thường gắn liền với nhu cầu cuộc sống sinh hoạt và
sản xuất của các dân tộc Tây Nguyên).
- Ngoài các chủ đề tự chọn được đưa ra hoặc gợi ý trong chương trình, căn cứ vào nhu cầu,
hứng thú, sở trường và trình độ của học sinh, vào thực tiễn địa phương, giáo viên cũng có thể xây
dựng mới hoặc thay đổi, bổ sung nội dung các chủ đề tự chọn, đặc biệt là những chủ đề gắn với
thực tiễn Việt Nam và thực tiễn địa phương, trong đó có sử dụng vốn kinh nghiệm sống của học
4
Một số hướng đổi mới dạy học Vật lí ở trường phổ thông
sinh.
Việc xây dựng và tổ chức dạy học những chủ đề này diễn ra theo các giai đoạn sau:
+ Trên cơ sở xác định các kiến thức, kĩ năng mà học sinh đã có và nghiên cứu các kiến thức
khoa học thuộc chủ đề (từ các nguồn thông tin khác nhau: các tài liệu chuyên khảo, các thông tin
trên mạng internet. . . ), giáo viên (nhiều khi là nhóm giáo viên dạy nhiều môn) xác định nội dung
các kiến thức được đề cập trong chủ đề sao cho phù hợp với trình độ của học sinh và thời lượng có
thể dành cho chủ đề.
+ Lập sơ đồ tiến trình xây dựng các kiến thức thuộc chủ đề: từ nội dung các kiến thức này,
giáo viên xác định chuỗi các vấn đề (các câu hỏi) mà học sinh cần giải quyết trong quá trình nghiên
cứu chủ đề; xác định các giải pháp để với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh có thể trả lời các
câu hỏi nhờ thực hiện các hoạt động tự lực với các phương tiện khác nhau (tài liệu in, các thông
tin trên mạng internet, dụng cụ thí nghiệm. . . ).
+ Xác định mục tiêu dạy học cụ thể của chủ đề đối với việc bồi dưỡng cho học sinh các
thành tố của các loại năng lực.
+ Soạn thảo tiến trình dạy học chủ đề (các hoạt động của giáo viên, của các nhóm học sinh
ứng với các nhiệm vụ cụ thể) và lập các phiếu học tập.
Vì nội dung của chủ đề thường phong phú nên giáo viên cần dựa vào mạch phát triển kiến
thức để phân chia nhiệm vụ cho các nhóm học sinh sao cho số lượng các nhiệm vụ của từng nhóm
là phù hợp, vừa đảm bảo sự phát triển logic của các kiến thức, vừa đảm bảo đủ thời gian để học
sinh suy nghĩ và thực hiện.
+ Dự kiến thời điểm, thời lượng và địa điểm (các hoạt động ở lớp, ở trường, ở nhà) dạy học
chủ đề.
+ Tổ chức dạy học và đánh giá kết quả học tập chủ đề của học sinh (tính khả thi của các dự
kiến về mặt nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, thời lượng dành cho chủ đề. . . ),
mức độ đạt được mục tiêu đã đề ra của học sinh; để từ đó, bổ sung, điều chỉnh các dự kiến ban đầu
trong kế hoạch dạy học chủ đề đã lập [4].
2. Đổi mới phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học
a) Dạy học thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập mang tính tìm tòi nghiên cứu ở tất
cả các giai đoạn của quá trình xây dựng và vận dụng kiến thức của học sinh
- Để kích thích hứng thú học tập của học sinh, giáo viên cần tạo các tình huống để tập cho
học sinh biết phát hiện ra vấn đề, chú trọng các tình huống từ chính thực tiễn sản xuất và đời sống,
khai thác vốn kinh nghiệm hiểu biết của học sinh. Các tình huống thực tiễn được sử dụng không
những để làm nảy sinh vấn đề cần nghiên cứu, tạo nhu cầu nhận thức, mà còn như là những ứng
dụng của các kiến thức đã học mà học sinh cần giải thích.
- Giáo viên cần tạo điều kiện và hướng dẫn học sinh tự mình nêu ra và thực hiện các giải
pháp để giải quyết vấn đề đã phát hiện.
- Học sinh cũng cần được giao những nhiệm vụ học tập đòi hỏi phải vận dụng các kiến thức,
kĩ năng đã thu được không những vào các tình huống quen thuộc, mà còn vào những tình huống
mới, nhất là các tình huống thực tiễn.
Trong giai đoạn vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã thu được, giáo viên có thể giao cho các
nhóm học sinh những nhiệm vụ nghiên cứu, tốt nhất là dưới dạng các dự án học tập đòi hỏi học
sinh phải sưu tầm, thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau (sách báo, các phương tiện nghe
nhìn, trên mạng internet, quan sát tự nhiên, thí nghiệm với các dụng cụ đơn giản tự làm. . . ), xử lí
thông tin theo nhiều cách (lập bảng các giá trị đo, biểu đồ, xử lí kết quả thí nghiệm bằng số, bằng
đồ thị, so sánh phân tích các dữ liệu. . . để rút ra kết luận) và truyền đạt thông tin thông qua thảo
5
Nguyễn Ngọc Hưng
luận, báo cáo viết. . . [5].
Thông qua các hoạt động học tập tự lực, tích cực, học sinh không những chiếm lĩnh được
kiến thức, rèn luyện được kĩ năng, mà còn có niềm vui của sự thành công trong học tập và phát
triển được các loại năng lực với các mức độ khác nhau.
b) Áp dụng rộng rãi kiểu dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
- Áp dụng kiểu dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề vào dạy học vật lí, tiến trình xây
dựng kiến thức vật lí mới có thể diễn ra theo hai con đường: con đường lí thuyết (giải quyết vấn đề
nhờ suy luận lí thuyết, trong đó có suy luận toán học từ các kiến thức mà học sinh đã biết, rồi kiểm
tra kết luận đã rút ra nhờ thí nghiệm) hoặc con đường thực nghiệm (đề xuất giả thuyết và kiểm tra
tính đúng đắn của giả thuyết nhờ thí nghiệm). Còn khi nghiên cứu các ứng dụng kĩ thuật của vật lí,
tiến trình xây dựng kiến thức về ứng dụng kĩ thuật của vật lí cũng diễn ra theo hai con đường: tìm
hiểu bản thân thiết bị kĩ thuật, nguyên tắc cấu tạo, hoạt động của nó và đi tới làm sáng tỏ cơ sở vật
lí của thiết bị kĩ thuật hay dựa trên những kiến thức, kĩ năng mà học sinh đã có, thiết kế, chế tạo
thiết bị kĩ thuật có một chức năng nào đó, đáp ứng được một yêu cầu kĩ thuật xác định, giải quyết
một nhiệm vụ cụ thể trong sản xuất và đời sống.
- Tiến trình chung xây dựng kiến thức vật lí theo kiểu dạy học phát hiện và giải quyết vấn
đề gồm các giai đoạn sau:
* Làm nảy sinh vấn đề cần giải quyết từ tình huống (điều kiện) xuất phát: từ kiến thức cũ,
thực tế sản xuất và đời sống, thí nghiệm, bài tập, truyện kể lịch sử. . .
+ Phát biểu vấn đề cần giải quyết (câu hỏi cần trả lời).
+ Giải quyết vấn đề: suy đoán giải pháp giải quyết vấn đề và thực hiện giải pháp đã suy
đoán.
+ Rút ra kết luận (kiến thức vật lí mới).
* Vận dụng kiến thức vật lí mới để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra tiếp theo. Trong quá
trình vận dụng, nhiều khi đi tới phạm vi áp dụng của kiến thức vật lí mới đã thu được và lại nảy
sinh vấn đề cần giải quyết tiếp.
- Để phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong tiến trình dạy học phát hiện và giải
quyết vấn đề, giáo viên cần lôi cuốn học sinh tham gia vào giai đoạn suy đoán giải pháp giải quyết
vấn đề, đề xuất giả thuyết và giai đoạn thiết kế phương án thí nghiệm để kiểm tra tính đúng đắn
của kết luận đã rút ra được từ việc thực hiện giải pháp đã suy đoán hoặc của giả thuyết đã đề xuất.
- Chính thông qua quá trình giải quyết các vấn đề trong học tập vật lí phỏng theo cách mà
các nhà vật lí sử dụng trong nghiên cứu vật lí, học sinh được bồi dưỡng các phương pháp nhận thức
đặc thù của vật lí, đặc biệt là phương pháp thực nghiệm và phương pháp mô hình.
c) Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học và các hình thức tổ chức dạy học khác nhau
- Các phương pháp dạy học truyền thống quen thuộc như đàm thoại, luyện tập. . . luôn là
các phương pháp dạy học quan trọng. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các
phương pháp dạy học này, mà là sử dụng chúng theo quan điểm mới, trong khuôn khổ các kiểu dạy
học mới (dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy học kiến tạo, dạy học theo tình huống. . . ).
Để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của các phương pháp dạy học truyền thống, cần xác
định đúng nội dung, thời điểm, mức độ cần sử dụng từng phương pháp và vận dụng hợp lí các kĩ
thuật dạy học tích cực: kĩ thuật đặt câu hỏi và xử lí các câu trả lời trong đàm thoại, kĩ thuật làm
mẫu khi cần trong luyện tập, kĩ thuật lập sơ đồ tư duy. . .
- Không có một phương pháp dạy học và một hình thức tổ chức dạy học toàn năng, phù hợp
với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học có
những ưu điểm, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy, việc phối hợp các phương pháp dạy
6
Một số hướng đổi mới dạy học Vật lí ở trường phổ thông
học và hình thức tổ chức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là nội dung quan trọng để nâng
cao chất lượng dạy học.
- Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học. Tùy theo
mục tiêu, nội dung, đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ chức dạy học
thích hợp (học trong các giờ nội khóa và trong các giờ tự chọn, học trong lớp, ngoài lớp, ngoài
trường, học ở nhà), kết hợp học tập cá nhân và học tập hợp tác với các hình thức khác nhau (cặp,
nhóm, lớp). Các hình thức học tập này không những tạo điều kiện để thực hiện dạy học phân hóa
nội tại, mà còn rèn luyện cho học sinh kĩ năng làm việc tập thể trong việc thực hiện nhiệm vụ được
giao (phân công công việc trong nhóm, trao đổi tranh luận bảo vệ ý kiến của mình, tham khảo thảo
luận ý kiến của người khác để chỉnh sửa, đào sâu và hoàn thiện suy nghĩ của mình).
Quá trình tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm thường gồm các giai đoạn sau:
+ Làm việc chung toàn lớp: chia nhóm, xác định và giao nhiệm vụ cho các nhóm, hướng
dẫn cách làm việc theo nhóm.
+ Làm việc trong nhóm: thảo luận nhiệm vụ được giao, phân công nhiệm vụ cụ thể cho
từng cá nhân trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập, rồi toàn nhóm trao đổi, cử đại diện trình
bày kết quả hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm. Trong giai đoạn này, giáo viên theo dõi, giúp
đỡ học sinh khi có khó khăn và có thể sử dụng phiếu học tập phát cho mỗi nhóm học sinh.
+ Thảo luận, tổng kết trước toàn lớp: các nhóm báo cáo kết quả, giáo viên chỉ đạo việc thảo
luận chung ở toàn lớp và tổng kết, khái quát hóa các kết quả để đi tới kết luận chung.
d) Vận dụng các hình thức tổ chức dạy học mở vào dạy học vật lí
- Dạy học mở cho phép bên cạnh những nội dung học tập bắt buộc đối với mọi học sinh,
học sinh có thể lựa chọn một số nội dung học tập theo nhu cầu, hứng thú và sở trường của mình.
Dạy học mở cũng cho phép đối với một số nội dung học tập bắt buộc hoặc tự chọn, học sinh có thể
lựa chọn các phương pháp, cách thức khác nhau và thậm chí cả thời điểm khác nhau để giải quyết
nhiệm vụ của mình [3].
- Khi vận dụng các hình thức dạy học mở vào dạy học vật lí, cần chú trọng tới việc vận dụng
dạy học theo dự án và dạy học theo trạm (góc).
+ Dạy học theo dự án
Dạy học theo dự án là hình thức dạy học trong đó các nhóm học sinh thực hiện một nhiệm
vụ học tập phức hợp, gắn với các tình huống thực tiễn, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành,
tạo ra các sản phẩm có thể công bố và sử dụng được. Nhiệm vụ này được học sinh thực hiện với
tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc
thực hiện nhiệm vụ, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Quá trình thực hiện một dự án học tập có thể được chia thành các giai đoạn sau:
+ Đề xuất, lựa chọn đề tài và xác định mục đích của dự án.
+ Xây dựng đề cương, kế hoạch thực hiện dự án (xác định những công việc cần làm, dự kiến
thời gian, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành, phân công công việc cho từng cá nhân).
+ Thực hiện dự án, tạo ra sản phẩm.
+ Công bố, đánh giá kết quả của việc thực hiện dự án.
Đối với bộ môn vật lí, cần chú trọng những dự án đề cập các ứng dụng kĩ thuật của vật lí
mà sản phẩm do học sinh tạo ra là các mô hình minh họa nguyên tắc cấu tạo, hoạt động của các
thiết bị kĩ thuật (ví dụ: các mô hình về các ứng dụng kĩ thuật của dòng điện Fu-cô: mô hình phanh
điện từ, tốc kế, bếp điện từ) hoặc chính là thiết bị kĩ thuật đơn giản (ví dụ: các thiết bị nhiệt đơn
giản sử dụng năng lượng mặt trời, các dụng cụ quang: ống nhòm, kính tiềm vọng).
7
Nguyễn Ngọc Hưng
+ Dạy học theo trạm (góc)
Dạy học theo trạm là hình thức dạy học trong đó các nhóm học sinh thực hiện các nhiệm
vụ bộ phận nhằm giải quyết một nhiệm vụ tổng quát hoặc thực hiện cùng một nhiệm vụ nhưng với
các phương pháp, phương tiện khác nhau tại các vị trí khác nhau trong lớp học.
Các trạm học tập có thể được thiết kế ứng với các phong cách học tập khác nhau của học
sinh: trạm làm việc với các thí nghiệm, trạm làm việc với các tài liệu in, trạm làm việc với video,
phần mềm dạy học, trạm làm việc với các vật thật. . . , trong đó có những trạm bắt buộc và những
trạm tự chọn.
Đối với bộ môn vật lí, hình thức tổ chức dạy học này có thể được áp dụng khi học sinh
nghiên cứu kiến thức mới (ví dụ: các hiệu ứng khác nhau của cùng một hiện tượng, quá trình vật
lí, định luật vật lí đề cập sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố của một đại lượng vật lí. . . ) và khi củng
cố các kiến thức, kĩ năng đã thu được thông qua làm việc với các thí nghiệm thực hành (ví dụ: xác
định một đại lượng vật lí bằng nhiều phương án khác nhau, với các dụng cụ thí nghiệm khác nhau
trong các bài thí nghiệm thực hành), giải các bài tập vật lí.
e) Dạy học sinh phương pháp tự học thông qua toàn bộ quá trình dạy học
- Kết quả học tập của học sinh không chỉ là những kiến thức, kĩ năng đã thu được, mà quan
trọng hơn là cách học, khả năng tự tổ chức và thực hiện quá trình học tập một cách có hiệu quả.
Mục tiêu bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh chỉ có thể đạt được khi bản thân học sinh chủ
động, tích cực, tự lực hoạt động và chỉ đạt được sau quá trình rèn luyện lâu dài.
- Quá trình tự học thường diễn ra theo các giai đoạn chung sau:
+ Trên cơ sở nhiệm vụ tự học (được giao hoặc tự giao), lập kế hoạch tự học.
+ Thực hiện kế hoạch đã lập, nhận ra những điểm hạn chế, không hợp lí của kế hoạch và
điều chỉnh, bổ sung kế hoạch tự học.
+ Đánh giá kết quả tự học và quá trình tự học của bản thân.
- Trong quá trình học tập vật lí, có rất nhiều việc phải làm: phát hiện vấn đề, đề xuất giải
pháp giải quyết vấn đề đã phát hiện, thực hiện giải pháp đã đề xuất, xử lí kết quả thực hiện giải
pháp, khái quát hóa rút ra kết luận mới và vận dụng kiến thức. Trong một loạt công việc đó, giáo
viên cần tính toán xem với thời gian cho phép trên lớp, trình độ học sinh trong lớp thì việc gì được
giao cho học sinh tự làm (ngay trên lớp hay ở nhà), việc gì cần có sự trợ giúp của giáo viên.
Các nhiệm vụ tự học được giao cho học sinh cần có mức độ yêu cầu tăng dần. Ví dụ: khi
làm việc với sách giáo khoa để tự học một số kiến thức, cần tăng dần mức độ yêu cầu từ việc đọc
một mục trong sách giáo khoa để trả lời câu hỏi cho trước; đọc, phân ý, tìm những ý chính của một
mục đến việc đọc, tóm tắt nội dung của cả một bài học trong sách giáo khoa và trình bày trước
toàn lớp theo cách hiểu của mình.
- Tự học không có nghĩa là không cần sự trợ giúp của giáo viên khi học sinh gặp khó khăn,
không có sự trao đổi tranh luận của học sinh với nhau. Sự giúp đỡ của giáo viên có thể là chia
nhiệm vụ nhận thức thành những nhiệm vụ bộ phận vừa sức học sinh, đưa ra những nhận xét theo
kiểu phản biện, nêu những câu hỏi định hướng quá trình làm việc của học sinh hoặc hướng dẫn học
sinh xây dựng cơ sở định hướng khái quát các hoạt động khi làm việc với các loại thông tin khác
nhau (văn bản, hình vẽ, đồ thị, biểu bảng, thí nghiệm. . . ) từ các nguồn thông tin khác nhau (tài liệu
in, mạng internet, video, phần mềm dạy học, mô hình vật chất-chức năng, thiết bị thí nghiệm) và
xây dựng cơ sở định hướng khái quát của quá trình hình thành các loại kiến thức vật lí khác nhau
(khái niệm về các sự vật, hiện tượng và quá trình vật lí; khái niệm về đại lượng vật lí; định luật,
quy tắc và nguyên lí cơ bản; thuyết; ứng dụng kĩ thuật của vật lí), xây dựng cơ sở định hướng của
việc giải một loại bài tập nào đó. . .
8
Một số hướng đổi mới dạy học Vật lí ở trường phổ thông
3. Đổi mới việc sử dụng phương tiện dạy học
a) Để việc sử dụng phương tiện dạy học góp phần vào việc thực hiện mục tiêu dạy học,
trước hết, cần có quan niệm đúng về vai trò của phương tiện dạy học trong dạy học vật lí: Phương
tiện dạy học không chỉ là phương tiện của việc dạy, mà còn là phương tiện của việc học; không
chỉ là phương tiện trực quan, mà trước hết là phương tiện hoạt động của học sinh ở tất cả các giai
đoạn của quá trình dạy học (định hướng mục đích nghiên cứu, hình thành kiến thức kĩ năng, củng
cố kiến thức kĩ năng và kiểm tra đánh giá); không chỉ là phương tiện để hình thành kiến thức kĩ
năng mới, mà còn là phương tiện tạo động cơ, kích thích hứng thú học tập và phát triển năng lực,
nhất là năng lực thực nghiệm của học sinh.
b) Muốn thực hiện được vai trò nói trên của phương tiện dạy học, ngoài việc cần thiết phải
có phương tiện dạy học phù hợp (được chú ý ở khâu thiết kế, chế tạo và sản xuất phương tiện dạy
học), việc sử dụng phương tiện dạy học phải thỏa mãn không những các yêu cầu về mặt khoa học,
kĩ thuật, mà cả các yêu cầu về mặt dạy học.
Việc sử dụng các phương tiện dạy học trong dạy học vật lí cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Cần tăng cường các hoạt động thực nghiệm của học sinh
* Tổ chức cho học sinh làm đủ các bài thí nghiệm thực hành với các phương án thí nghiệm
khác nhau.
* Cố gắng tăng số lượng thí nghiệm của học sinh ở giai đoạn nghiên cứu kiến thức mới
trong các bài học với các thiết bị thí nghiệm đã được cung cấp cho các trường phổ thông và với các
dụng cụ thí nghiệm tự làm.
* Dù thí nghiệm được tiến hành dưới hình thức thí nghiệm của giáo viên hay thí nghiệm
của học sinh, cần yêu cầu học sinh xác định rõ mục đích của thí nghiệm, thiết kế phương án thí
nghiệm trước khi tiến hành thí nghiệm. Thí nghiệm phải được tiến hành theo đúng tính chất khảo
sát hay kiểm nghiệm, minh họa của nó theo logic hình thành kiến thức.
* Khi giao cho học sinh các bài tập ở nhà, cần có những bài tập thí nghiệm định tính hoặc
định lượng. Để giải những bài tập này, học sinh cần tiến hành các thí nghiệm với những vật liệu
dễ kiếm, rẻ tiền hoặc với các dụng cụ thí nghiệm đơn giản mà học sinh có thể tự chế tạo từ những
vật liệu này. Để không đơn thuần chỉ là sự đòi hỏi hoạt động tay chân, mà phát triển được cả năng
lực trí tuệ của học sinh, nhiều bài tập trong số đó nên được ra dưới dạng các bài tập thiết kế, các
bài tập đòi hỏi học sinh vận dụng những kiến thức đã học để dự đoán hiện tượng diễn ra trong thí
nghiệm trước khi tiến hành thí nghiệm kiểm tra điều đã dự đoán. Những thí nghiệm ở nhà của học
sinh không những để đào sâu, mở rộng các kiến thức, kĩ năng đã có, mà có khi còn để cung cấp
các cứ liệu thực nghiệm cho việc nghiên cứu kiến thức mới trên lớp sau đó.
- Chú trọng sử dụng phối hợp thiết bị thí nghiệm có sẵn và dụng cụ thí nghiệm tự chế tạo,
phương tiện dạy học truyền thống và phương tiện dạy học hiện đại, trong đó có phương tiện dạy
học số.
- Sử dụng hợp lí (đúng lúc, đúng mức độ và đúng phương pháp) những khả năng khác nhau
(hỗ trợ các thí nghiệm thực, mô phỏng minh họa các hiện tượng, quá trình vật lí, phân tích video
ghi các quá trình vật lí thực. . . ) của máy vi tính và phần mềm dạy học trong dạy học vật lí để hỗ
trợ quá trình hoạt động nhận thức tích cực, sáng tạo của học sinh.
4. Đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập vật lí của học sinh
- Mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập của học sinh là so sánh năng lực mà học
sinh đạt được với mức độ yêu cầu của chuẩn năng lực ở từng chủ đề trong chương trình vật lí phổ
thông; để từ đó, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh hoạt động dạy và hoạt động học.
- Vì vậy, nội dung kiểm tra đánh giá chuyển từ chủ yếu chú ý đến yêu cầu về mặt kiến thức,
9
Nguyễn Ngọc Hưng
kĩ năng mà học sinh cần đạt được sang kiểm tra đánh giá năng lực, trong đó chú trọng năng lực
vận dụng kiến thức, kĩ năng trong các tình huống thực tiễn.
- Dựa vào chuẩn năng lực ở từng chủ đề học tập, giáo viên cần xây dựng và sử dụng phối
hợp các công cụ đánh giá thích hợp khác nhau: các câu hỏi trên lớp, các đề kiểm tra viết (kết hợp
trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận), phiếu học tập, hồ sơ học tập, các sản phẩm học
tập khác nhau. . . để đánh giá mức độ đạt được của các thành tố trong từng loại năng lực.
- Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên (đánh giá quá trình) và đánh giá định kì (cuối kì,
cuối năm) để đánh giá đầy đủ, chính xác hơn, kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy và hoạt động học;
phối hợp giữa đánh giá của giáo viên với tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh [2].
3. Kết luận
Các hướng đổi mới dạy học vật lí ở trường phổ thông nêu trên không hoàn toàn tách bạch
nhau, mà có mối liên hệ mật thiết với nhau. Việc đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, phương
pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học, việc sử dụng phương tiện dạy học, kiểm tra đánh giá kết
quả học tập vật lí của học sinh đòi hỏi sự đổi mới quản lí giáo dục ở trường phổ thông và sự đầu tư
về cơ sở vật chất của trường phổ thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo. Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, 7/2015.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo
định hướng phát triển năng lực học sinh. Môn Vật lí cấp THPT (Lưu hành nội bộ). Hà Nội,
2014.
[3] Berge. Offene Lernenformen im Physikunterricht der Sekundarstufe. Zeitschrift
Naturwissenschaften im Unterricht. Physik, Heft 17, 4/1993.
[4] Nguyễn Văn Biên. Xây dựng 15 chuyên đề kiến thức tích hợp để phục vụ bồi dưỡng, nâng
cao năng lực dạy học tích hợp của giáo viên trung học. Báo cáo tổng kết nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ, mã số: B2014-17-05NV. Hà Nội, 3/2016.
[5] J.Leisen. Kompetenzorientiert unterrichten. Physik Zeitschrift Naturwissenschaften im
Unterricht. Physik, Heft 123/124, 7/2011.
ABSTRACT
Innovation trends in Physics education
Nguyen Ngoc Hung
Faculty of Physics, Hanoi National University of Education
The article discusses innovation trends in physics education. The innovation involves
the following aspects: content, instructional methods, learning activities, teaching aids (incl.
experiment and computer), and formative/summative assessments. Changes in these aspects are
consistently aimed at the ultimate objective: development of students’ competency.
Keywords: Innovation in physics education.
10
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4315_nnhung_7781_2131899.pdf