Một số giải pháp tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số tại Thành phố Hồ Chí Minh

Tài liệu Một số giải pháp tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số tại Thành phố Hồ Chí Minh: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 32 Một số giải pháp tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số tại Thành phố Hồ Chí Minh Some employment solutions for ethnic youths in Ho Chi Minh City TS. Trương Hoàng Trương, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP.HCM Truong Hoang Truong, Ph.D., University of Social Science and Humanity - National University, Ho Chi Minh City Vũ Ngọc Thành, Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển Vu Ngoc Thanh, Center of Urban Studies and Development Tóm tắt Nội dung bài viết là một phần nghiên cứu của đề tài về việc làm của thanh niên dân tộc thiểu số tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020. Trong nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn ra ba nhóm thanh niên người Hoa, người Chăm và người Khmer có độ tuổi từ 16 đến 30 hiện đang sinh sống và làm việc tại TP. Hồ Chí Minh để khảo sát với 777 phiếu (366 thanh niên người Hoa, 186 thanh niên Chăm, 225 thanh niên Khmer). B...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số tại Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 32 Một số giải pháp tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số tại Thành phố Hồ Chí Minh Some employment solutions for ethnic youths in Ho Chi Minh City TS. Trương Hoàng Trương, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP.HCM Truong Hoang Truong, Ph.D., University of Social Science and Humanity - National University, Ho Chi Minh City Vũ Ngọc Thành, Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển Vu Ngoc Thanh, Center of Urban Studies and Development Tóm tắt Nội dung bài viết là một phần nghiên cứu của đề tài về việc làm của thanh niên dân tộc thiểu số tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020. Trong nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn ra ba nhóm thanh niên người Hoa, người Chăm và người Khmer có độ tuổi từ 16 đến 30 hiện đang sinh sống và làm việc tại TP. Hồ Chí Minh để khảo sát với 777 phiếu (366 thanh niên người Hoa, 186 thanh niên Chăm, 225 thanh niên Khmer). Bằng phương pháp nghiên cứu xã hội học với mẫu khảo sát được thực hiện theo nguyên tắc phi xác suất và thuận tiện, bài viết đưa ra những giải pháp cho việc định hướng việc giải quyết việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn tương lai. Từ khóa: dân tộc thiểu số, thanh niên dân tộc, việc làm. Abstract The article is a part of the empirical research on employment of the ethnic youths in Ho Chi Minh City at present and with a vision to 2020. In this research, three youth groups (16 to 30 years of age) of Chinese, Cham and Khmer living and working in Ho Chi Minh City were selected for a survey with 777 questionnaires (366 Chinese youths, 186 Cham, 225 Khmer). With the sociological research method under the principles of non-probability and convenience, solutions to employment issues are proposed for the ethnic youths in Ho Chi Minh City at present and in the future. Keywords: ethnic minority, ethnic youths, employment. Theo số liệu tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, cả nước có 54 dân tộc thì tại TP. Hồ Chí Minh hiện có tới 52 dân tộc cùng sinh sống, dân tộc Kinh chiếm đa số với 6.699.124 người, chiếm tỷ lệ 93,5%. Các dân tộc còn lại đều là dân tộc thiểu số. Trong đó có 3 dân tộc thiểu số chiếm khá đông đó là dân tộc Hoa 414.045 TRƯƠNG HOÀNG TRƯƠNG - VŨ NGỌC THÀNH 33 người, chiếm 5,78%, dân tộc Khmer 24.268 người, chiếm 0,33% và dân tộc Chăm 7.819 người, chiếm 0,10% [7]. Thanh niên dân tộc thiểu số (DTTS), với những đặc điểm về nhân khẩu, phong tục tập quán và tín ngưỡng, mạng lưới xã hội, gặp những trở ngại trong cuộc cạnh tranh của thị trường việc làm và không phát huy hết năng lực của bản thân với tư cách là lớp người trẻ tuổi, năng động, sáng tạo, tương lai của cộng đồng và xã hội. Căn cứ kết quả nghiên cứu của công trình, chúng tôi đưa ra một số đề nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn cho vấn đề việc làm của thanh niên DTTS tại TP.Hồ Chí Minh, giúp cho lực lượng này phát huy phẩm chất của người thanh niên qua lao động, việc làm. Các đề nghị và giải pháp đưa ra được hướng tới nhiều đối tượng, trong đó có chính thanh niên DTTS; cộng đồng DTTS; các cơ sở có sử dụng lao động là thanh niên DTTS; các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, cá nhân thực hiện công tác dân tộc; chính quyền địa phương. 1. Nâng cao ý thức và quyết tâm cho thanh niên dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của việc học nghề và giá trị của việc làm để có được một công việc ổn định Cần nâng cao ý thức về sự cần thiết phải có một nghề chuyên môn và việc làm ổn định cho thanh niên DTTS. Kết quả điều tra cho thấy, chỉ có 25,5% trên tổng số thanh niên DTTS đang làm việc là đã từng được học nghề, số không học nghề chiếm đến 74,5%. Xét trên khía cạnh giới, thì nữ thanh niên DTTS có học nghề ít hơn nam thanh niên (22,4% - 77,6%), nhất là nữ thanh niên Khmer có đến 87,9% không học nghề. Đây là những tỷ lệ đáng báo động, có đến ¾ thanh niên đang làm việc không được trang bị kỹ năng nghề cơ bản, điều này cũng đồng thời phản ảnh chất lượng lao động của họ. Có nhiều lý do để giải thích tỷ lệ không học nghề cao ở những thanh niên DTTS đang có việc làm là: một số người thanh niên DTTS làm những việc không cần phải được đào tạo qua các trường lớp hay nơi sản xuất, như thanh niên người Chăm chọn việc làm buôn bán, thanh niên người Hoa làm việc tại các cơ sở gia đình có truyền thống cha mẹ truyền nghề cho con cái, hoặc nữ thanh niên Khmer thì thường làm công việc giúp việc nhà, không cần đến học nghề. Những trường hợp trên cùng với tỷ lệ không học nghề cao, nói lên tình trạng thanh niên DTTS không có quyết tâm cao đối với việc học nghề, chưa nhận thức rõ về tính quyết định của việc học nghề đối với việc phát huy nghề nghiệp và tăng chất lượng lao động, chưa thấy được con đường lâu dài nhưng bền vững mà năng lực chuyên môn đem đến như năng suất lao động cao, uy tín trong lao động. Việc học nghề không phải là tâm điểm chú ý của thanh niên DTTS và thậm chí của gia đình khi thanh niên chuẩn bị vào đời. TP. Hồ Chí Minh là nơi có nhiều cơ sở dạy nghề, lại có Trung tâm Hướng nghiệp, Dạy nghề và Giới thiệu việc làm Thanh Niên TP. Hồ Chí Minh (tên giao dịch là Yes Center) rất năng động và hoạt động có hiệu quả trong việc tư vấn, dạy nghề cho thanh niên thành phố với nhiều hình thức linh động, với nhiều ngày hội hướng nghiệp, dạy nghề. Thanh niên DTTS có tiếp cận, đến tìm hiểu nhưng cũng không mặn mà lắm với việc học nghề tại đây. Thời gian học nghề đối với họ là quá dài, dù có khóa chỉ kéo dài 3 hoặc 6 tháng. Nếu học nghề, họ phải đóng học phí lại phải M T SỐ GIẢI PHÁP TẠO VI C LÀM CHO THANH NIÊN DÂN T C THIỂU SỐ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 34 mưu sinh. Với hai gánh nặng này, họ chọn con đường mưu sinh dễ dàng trong tầm tay. Từ đó, họ ngại học nghề, hoặc bỏ dở dang việc học nghề, đồng thời lại nôn nóng có được thu nhập ngay với những công việc ít đòi hỏi có kỹ năng nghề. Tâm lý không xem trọng việc học nghề không phải chỉ riêng thanh niên DTTS mới có, mà đấy là khuynh hướng chung của xã hội hiện nay. Việc trọng bằng cấp, việc đào tạo mất cân đối nguồn nhân lực với số sinh viên tốt nghiệp đại học ngày một nhiều, trong khi công nhân có tay nghề, đáp ứng được yêu cầu của công việc thì luôn ít, thiếu. Thêm nữa, khuynh hướng tuyển dụng nhân sự có trình độ cao hơn nhu cầu công việc, đặc biệt trong khối các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước đang diễn ra khá phổ biến. Trong một bối cảnh như thế, việc học nghề bị lu mờ và nằm ngoài đích đến của nhiều thanh niên. Vì vậy, cần nâng cao ý thức, tinh thần của thanh niên DTTS trong việc tìm kiếm cơ hội học nghề, quyết tâm học lấy một nghề và nâng cao trình độ tay nghề để có thể cạnh tranh trên thị trường lao động ngày một mở rộng và quyết liệt. Mọi cố gắng giúp đỡ của chính quyền, của người chung quanh đều không thể có hiệu quả nếu bản thân người thanh niên DTTS không cố gắng trong việc học nghề, tìm việc làm, làm việc. Việc nâng cao ý thức về sự cần thiết phải có một nghề chuyên môn và việc làm ổn định là việc làm đòi hỏi sự quyết tâm, kiên trì không chỉ của chính quyền, đoàn thể các cấp, nhất là đoàn thể thanh niên, phụ nữ mà còn là sự quyết tâm của chính bản thân người thanh niên DTTS. Để việc nâng cao ý thức về sự cần thiết phải có một nghề, một việc làm ổn định cho thanh niên DTTS đi vào có hiệu quả, cần có sự hỗ trợ các của các vị chức sắc có tiếng nói trong mỗi cộng đồng dân tộc qua việc giải thích cho thanh niên trong dân tộc mình hiểu rõ tầm quan trọng của việc học nghề, trau dồi kỹ năng nghề, trau dồi kiến thức vì tương lai và sự nghiệp sau này. Khuyến khích và cổ vũ thanh niên dân tộc mình tham gia vào các buổi giao lưu văn hóa, hướng nghiệp tương lai để họ có thể cởi mở hơn và hòa nhập với nếp sống đô thị trong thời kỳ đổi mới. Các chức sắc trong mỗi dân tộc có vai trò quan trọng là cầu nối giữa Nhà nước, chính quyền và thanh niên trong cộng đồng dân tộc của họi. Ngoài ra, thành phố cần có chính sách hỗ trợ, giúp đỡ thanh niên DTTS về kinh phí học nghề. Mặc dù ở thành phố có nhiều trung tâm dạy nghề, trường dạy nghề, nhưng chưa thu hút được thanh niên DTTS. Thành phố cũng chưa có chính sách riêng về dạy nghề cho người DTTS [3, tr.30]. Kết quả điều tra cho thấy, trên thực tế chỉ có ¼ số thanh niên DTTS có học nghề. Khó khăn lớn nhất trong việc học nghề là kinh phí (bao gồm học phí và những chi phí phụ), chiếm tỷ lệ 31,8% ý kiến, cao hơn hẳn các ý kiến khác như thiếu định hướng nghề nghiệp (24,8%), xa nơi cư trú (16,7%),... Ngoài kinh phí cho việc học nghề, thì người đi học cũng phải chi tiêu cho cuộc sống như ăn, mặc, ở trong thời gian học. Chính vì thế việc giúp đỡ cho người thanh niên DTTS trong kinh phí học nghề sẽ tạo điều kiện cho họ dễ dàng trong việc tìm lấy một nghề để mưu sinh. Ngoài việc tiếp tục thực hiện chính sách miễn học phí cho các dân tộc Chăm, Khmer từ cấp mầm non đến cấp trung học phổ thông từ năm học 2013 - 2014 đến năm học 2019 - 2020 và chính TRƯƠNG HOÀNG TRƯƠNG - VŨ NGỌC THÀNH 35 sách Hỗ trợ chi phí học tập cho sinh viên là người DTTS thuộc hộ nghèo, cận nghèo giai đoạn 2014 - 2020 [8, tr.16], thì cũng nên quan tâm đến việc học nghề cho thanh niên DTTS. 2. Quan tâm đến việc hướng nghiệp, chọn đúng nghề cần học, căn cứ vào nhu cầu việc làm của địa phương, của cộng đồng, đồng thời phù hợp với khả năng, điều kiện của bản thân Đa số thanh niên DTTS đang cần sự giúp đỡ trong nghề nghiệp, việc làm thuộc diện nghèo, học vấn thấp, vì thế, bị hạn chế hiểu biết về nhu cầu lao động của thành phố, nhất là xu hướng sắp đến của các vấn đề này khi các hiệp định về kinh tế quốc tế mà Việt Nam tham gia có hiệu lực. Do đó, họ rất cần sự giúp đỡ trong định hướng nghề nghiệp để sau một thời gian học nghề, dài hay ngắn, có thể có được việc làm phù hợp với khả năng, có thu nhập khá và ổn định. Cuộc điều tra định lượng của đề tài cho biết, trong các thanh niên có đi học nghề có 24,2% có ý kiến là gặp khó khăn vì thiếu định hướng nghề nghiệp. Tức là, đã đi học nghề rồi, nhưng vẫn nhận định là thiếu định hướng nghề nghiệp nên gặp khó khăn trong việc học. Khó khăn này chỉ đứng sau khó khăn vì học phí thấp. Định hướng nghề cho thanh niên DTTS để họ tự xác lập nghề nghiệp và đi tới quyết định việc chọn lựa một cách có ý thức nghề chuyên môn phù hợp với khả năng của bản thân, yêu cầu của xã hội và với sinh hoạt của cộng đồng với những đặc điểm về văn hóa, tôn giáo. Ví dụ như người Chăm Hồi giáo thì thích những nghề tự do như nghề lái xe vì ngoài thu nhập khá, họ còn không bị gò bó trong giờ giấc (phù hợp đặc điểm dân tộc), có thể dùng bữa mang theo những món ăn phù hợp với qui định của tôn giáo mà lại khó tìm được ở các quán ăn trên đường. Để việc hướng nghiệp này đi vào hoạt động có hiệu quả, cần phải thực hiện việc hướng nghiệp cho thanh niên DTTS ngay ở bậc học phổ thông, bằng cách tổ chức thường xuyên các hoạt động “sinh hoạt hướng nghiệp”, trực tiếp tìm hiểu thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động, những lợi ích khi có nghề phù hợp, những thiệt thòi khi không có nghề nhất định. Các hoạt động giáo dục khác như tham quan sản xuất, tìm hiểu nghề và các lĩnh vực kinh tế qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua tủ sách hướng nghiệp, sự hướng dẫn của những người có trách nhiệm trong cộng đồng và các tổ chức xã hội. Thông qua hướng nghiệp, các thanh niên được làm quen với những nghề cơ bản trong xã hội, những nghề phù hợp để phát triển ở ngay cộng đồng mình. Công việc này được thể hiện trong suốt những năm còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhiệm vụ đó giúp các thanh niên có điều kiện tìm hiểu nghề trong xã hội. Từ sự làm quen này, sẽ giúp cho các thanh niên DTTS trả lời câu hỏi: Trong giai đoạn hiện nay, những nghề nào đang cần phát triển nhất, thái độ đối với nghề như thế nào là đúng v.v... Đồng thời, các thanh niên còn phải biết những yêu cầu tâm sinh lý mà nghề đặt ra, những điều kiện vào học nghề v.v Tóm lại, nhiệm vụ chính là hình thành ở thanh niên một quá trình xác định đúng đắn về những nghề cần phát triển đối với bản thân. Trong quá trình tìm hiểu nghề, ở học sinh sẽ xuất hiện và phát triển hứng thú nghề nghiệp. 3. Chủ động cung cấp thông tin tuyển dụng cho thanh niên dân tộc thiểu số và kiên trì theo dõi Thanh niên DTTS gặp khó khăn trong M T SỐ GIẢI PHÁP TẠO VI C LÀM CHO THANH NIÊN DÂN T C THIỂU SỐ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 36 việc tiếp cận với doanh nghiệp. Họ thiếu người giới thiệu cho các nơi thu nhận công nhân, thu nhận người lao động là thanh niên DTTS. Để giải quyết vấn đề này, cần tăng cường hoạt động của các Trung tâm giới thiệu việc làm vì cơ quan này dễ tiếp cận với các doanh nghiệp hơn cá nhân người thanh niên DTTSii. Các Trung tâm dạy nghề, Thành Đoàn, Đoàn Thanh niên, Trung tâm giới thiệu việc làm và hướng nghiệp cần chủ động hơn nữa trong việc cung cấp thông tin trực tiếp đến cho lao động là thanh niên DTTS, bởi vì bản thân thanh niên DTTS có phần thụ động, nhất là những thanh niên nhập cư, thanh niên người Chăm, nữ thanh niên người Khmer, thường thiếu thông tin về việc làm, định hướng việc làm. Vì thế, ngoài việc chủ động tiếp cận, cần có tinh thần kiên trì, theo dõi giải quyết mọi việc tới cùng, phòng ngừa tình trạng bỏ cuộc nửa chừng vì nhiều lý do như ngại làm thủ tục hành chính, thiếu những giấy tờ tùy thân, nhiễu thông tin Các trung tâm Dịch vụ Việc làm, trung tâm Giới thiệu Việc làm ở các quận/ huyện nên cử cán bộ đến các xã/phường, tham dự các buổi sinh hoạt, cuộc họp của các đoàn thể như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ để thông báo tin tức tuyển dụng của các doanh nghiệp tuyển dụng tại các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất đóng trên địa bàn quận/huyện (trước đó đã gửi đến phòng Lao động hoặc Trung tâm dạy nghề của quận/huyện) để tư vấn hướng nghiệp về những ngành nghề nào phù hợp với thanh niên. Các tổ chức, đoàn thể làm cầu nối cho chính quyền đến với thanh niên có nhu cầu tìm việc làm. Thông qua các tổ chức này thông tin về việc làm đến được với thanh niên. Thường xuyên tổ chức “Ngày hội hướng nghiệp việc làm” với quy mô lớn nhằm giúp thanh niên chưa có việc làm hoặc việc làm không ổn định có cơ hội giao lưu trực tiếp với các đơn vị tuyển dụng, nộp hồ sơ, phỏng vấn xin việc... [5, tr.37]. 4. Nâng cao chất lượng nguồn lao động thanh niên DTTS Chất lượng lao động của thanh niên DTTS mới chỉ dừng lại ở mức độ giản đơn, phần đông chưa qua đào tạo tay nghề. Do vậy, cần nâng cao năng lực lao động của lực lượng này, để họ có tay nghề vững vàng, có chuyên môn - kỹ năng sâu nhằm hội nhập vào thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của một đô thị năng động, phân hóa sâu sắc như TP. Hồ Chí Minh. Đào tạo, tái đào tạo tay nghề cho thanh niên DTTS không phải là vấn đề mới nhưng vẫn luôn là vấn đề cấp bách hiện nay. Việc nâng cấp năng lực cần được tổ chức thường xuyên và định kỳ với các khảo sát thống kê tình hình năng lực lao động của thanh niên DTTS, từ đó xây dựng cơ sở dữ liệu để có những phương hướng cụ thể tương thích. 5. Củng cố tính bền vững của các việc làm phi chính thức, tăng cường quản lý khu vực kinh tế phi chính thức ở đô thị Một khi khu vực kinh tế phi chính thức được giám sát và quản lý và nâng đỡ, thì người lao động trong đó có thanh niên DTTS sẽ được hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp từ các việc kiểm soát hoạt động đăng ký kinh doanh, minh bạch hóa các chế độ lương bổng và bảo hiểm lao động, nâng cao tay nghề trong lao động giản đơn ở các cơ sở dịch vụ đô thị. Việc giám sát khu vực kinh tế phi chính thức nhằm thúc đẩy tính bền vững TRƯƠNG HOÀNG TRƯƠNG - VŨ NGỌC THÀNH 37 cho việc làm của lực lượng lao động là một điều không thể thực hiện ngày một ngày hai và cũng không phải chỉ bởi một số cơ quan Nhà nước, nhưng hiện nay đang gặp thuận lợi vì Việt Nam đã hợp tác với tổ chức ILO tiến hành chương trình hợp tác quốc gia ILO - Việt Nam về việc làm bền vững năm 2006 - 2010 và hiện nay đang thực hiện Chương trình tiếp theo, giai đoạn 2012 - 2016. Ban chỉ đạo của Chương trình này, gọi là Ban chỉ đạo Quốc gia về Việc làm Bền vững đã được thành lập vào tháng 5/2012, do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội (LĐTBXH) làm chủ tịch. Chương trình có mục tiêu thúc đẩy công tác bảo trợ xã hội, giải quyết nhu cầu việc làm bền vững cho nhóm lao động thiệt thòi và dễ bị tổn thương và có nhiều dự án để thực hiện mục tiêu của Chương trình như Dự án hỗ trợ phát triển việc làm cho lao động trẻ nông thôn ở 4 quốc gia (trong đó có Việt Nam), Dự án Tăng cường Quyền và Cơ hội cho Người Khuyết tật - Bình đẳng thông qua pháp chế thực hiện trong năm 2012 - 2013. Các nhóm DTTS và người nghèo thuộc vào đối tượng cần được hỗ trợ của Chương trình này. Vì thế, đây là một cơ hội có thể gắn kết vấn đề việc làm bền vững của người DTTS nghèo vào Chương trình quốc gia này [9]. 6. Những chủ trương, chính sách trong công tác dân tộc, đặc biệt là về phát triển việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số cần chú ý đến sự chi phối của yếu tố văn hóa, phong tục tập quán của từng cộng đồng dân tộc thiểu số đối với việc làm. Thực tế cho thấy, những yếu tố văn hóa, phong tục tập quán của cộng đồng DTTS mà chủ yếu là của người Khmer và người Chăm đang gây ra những khó khăn rất lớn trong công việc không chỉ cho bản thân mỗi thanh niên dân tộc mà còn gây khó khăn cho cả những người sử dụng lao động là các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất... Người Khmer mỗi năm thường có 4 lễ hội truyền thống như lễ hội Chol Chnam Thmây, lễ hội Ok Om Bok, Dolta, lễ hội đua bò Bảy Núi An Giang... thu hút đông đảo người Khmer xa quê trở về cùng tham gia vào đời sống văn hóa cộng đồng. Những lễ hội này rất thiêng liêng đối với người Khmer, thường kéo dài nhiều ngày. Nhiều thanh niên dân tộc Khmer ở thành phố cũng kéo nhau về quê tham gia vào sinh hoạt cộng đồng ảnh hưởng đến việc sản xuất ở những nơi có sử dụng lao động nói trên. Đối với người Chăm, giáo lý trong kinh Qur’an của người Chăm Islam bắt buộc mỗi ngày họ phải hành lễ 5 lần, trong năm sẽ có tháng Ramadan để các tín đồ nhịn chay. Việc nhịn chay mỗi năm một tháng là bắt buộc và nó mang đến cho người Chăm rất nhiều lợi ích, xét về mặt tín ngưỡng, nhịn chay giúp cho mọi người đồng cảm với những người có cuộc sống khó khăn, kém may mắn, không có cái ăn cái mặc, xét về mặt y học nhịn chay giúp con người thanh lọc cơ thể, tránh được bệnh tật. Đây cũng là một lý do khiến người Chăm ở thành phố thường chọn các công việc có tính chất linh hoạt về mặt thời gian. Nhưng, các nơi sử dụng lao động đều có kỷ luật lao động, đều có những quy định cụ thể về giờ giấc làm việc mà nhân viên của họ phải tuân thủ, không thể người lao động nghỉ làm đến 1 tháng trong năm. Việc này gây khó khăn cho thanh niên người Chăm, buộc họ phải lựa chọn giữa việc làm và tín ngưỡng. Và kết quả là hoặc họ không gắn bó với công việc hoặc nơi sử M T SỐ GIẢI PHÁP TẠO VI C LÀM CHO THANH NIÊN DÂN T C THIỂU SỐ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 38 dụng lao động cho họ nghỉ việciii. Vì thế, những chủ trương, chính sách về công tác dân tộc cần chú ý đến yếu tố văn hóa, phong tục tập quán của từng cộng đồng, có biện pháp khắc phục được những hạn chế nêu trên. Thực tế, có những cơ sở sản xuất đã khá linh hoạt về thời gian lao động đối với những công nhân Chăm Islam. Vào tháng Ramadan, họ chấp thuận cho thanh niên Chăm lấy ngày phép năm để nghỉ (10- 12 ngày), những ngày còn lại thì được nghỉ không ăn lương. Sự thỏa thuận này làm cho công nhân gắn bó với việc làm và với cơ sở sử dụng lao động. 7. Phát huy lợi thế của đặc thù văn hóa để tạo việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số Những đặc thù trong văn hóa của người DTTS mang đến cho thanh niên DTTS một số bất lợi trong việc làm, nhưng nếu biết khai thác, thì những đặc thù này sẽ là những lợi thế. Người Hoa có thế mạnh về sản xuất thủ công nghiệp và thương mại, dịch vụ với loại hình kinh doanh chủ yếu là hộ gia đình. Do đó, thành phố cần có cơ chế và giải pháp nhằm hỗ trợ, khuyến khích tạo điều kiện cho việc thành lập và phát triển cả về số lượng, quy mô, hình thức của các doanh nghiệp hộ gia đình thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi về mặt thủ tục thành lập và các thủ tục hành chính khác, qua đó góp phần tạo việc làm cho thanh niên dân tộc ngay trong chính hộ gia đình, trong cộng đồng đang sinh sống. Tương tự như vậy, người Chăm cũng có thế mạnh trong buôn bán nhỏ lẻ, đặc biệt có sản phẩm dệt thổ cẩm Chăm nổi tiếng mà nhiều người Hồi giáo Đông Nam Á ưa thích sử dụng. Nổi bật nhất trong sản phẩm dệt Chăm là loại lụa được dệt bằng kỹ thuật Ikat công phu và nghệ thuật mà hiện nay phương Tây rất ưa chuộng vì tính thẩm mỹ và độ lạ của sản phẩmiv. Chợ Bến Thành là nơi đến của nhiều người Hồi giáo du lịch. Những du khách này tạm trú rất đông xung quanh khu vực này và đã có một số người Chăm đến để giao dịch buôn bán. Họ cần có cửa hàng hoặc kiot nhỏ lẻ ở đó để buôn bán, nhưng giá thuê rất cao, họ đặt vấn đề vay mượn vốn, nhưng vay nhiều thì không thể. Vì vậy, cần có đề xuất hỗ trợ cho người Chăm khuếch trương lợi thế này ở nơi đây, qua đó tạo được việc làm không những cho thanh niên Chăm mà còn làm phát triển nghề dệt Chăm. Tục chỉ ăn các loại thịt ăn được phải do chính người Hồi giáo chế biến cũng là một điểm đáng lưu ý và là điều kiện giúp cho người Chăm ở thành phố có thể tìm kiếm việc làm. Hiện nay, ở TP. Hồ Chí Minh có nhiều công ty xuất khẩu gạo, nước uống, mì, cà phê cho các nước Hồi giáo Trung Đông, nếu tiếp nhận thanh niên người Chăm (đa số theo Hồi giáo) vào làm, sẽ đáp ứng phần nào yêu cầu về ẩm thực của người Hồi giáo qua việc xác nhận sản phẩm làm ra là do chính người Islam sản xuất. Bên cạnh đó, các nhà hàng ăn uống dành cho du khách người Hồi giáo ở TP. Hồ Chí Minh có thể sử dụng lao động là thanh niên người Chăm Islam để chế biến thức ăn, phục vụ thực khách, đáp ứng mọi yêu cầu trong ăn uống của người Hồi giáo theo đúng những qui định của tôn giáo v . Các cơ quan thực hiện công tác dân tộc, các cơ sở giới thiệu việc làm, các đề án hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm có thể tham khảo đề xuất này, bổ sung vào chương trình hành động của mình, nhằm TRƯƠNG HOÀNG TRƯƠNG - VŨ NGỌC THÀNH 39 tạo nhiều hơn nữa cơ hội việc làm cho các thanh niên DTTS. 8. Huy động sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số theo hình thức xã hội hóa về giáo dục, đào tạo nghề - hướng nghiệp cho thanh niên dân tộc thiểu số Theo đó, Nhà nước và cộng đồng DTTS (theo cơ chế Nhà nước và nhân dân cùng làm) cùng phối hợp nghiên cứu, xây dựng cơ sở dạy nghề (Trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề) một cách chuyên nghiệp, chính quy và có quy mô và chất lượng cao có sức thu hút thanh niên DTTS theo học. Đặc biệt đào tạo tay nghề đáp ứng nhu cầu của xã hội, chú trọng về kỹ năng nghề, tác phong và kỷ luật lao động. Mở rộng dạy học song ngữ. Mở lớp dạy nghề cho người dân tộc thiểu số. Đào tạo những ngành nghề phù hợp với thế mạnh từng cộng đồng DTTS, phù hợp với truyền thống, tập quán của họ để họ phát huy hơn năng lực của bản thân. 9. Tạo lập một hệ thống kết nối thông minh giữa các tác nhân liên quan: Nơi sử dụng lao động + trung tâm hướng nghiệp + cơ sở dạy nghề + cơ sở giới thiệu việc làm + thanh niên và cộng đồng dân tộc thiểu số + cơ quan công tác dân tộc Cần phải có sự phối hợp giữa nhiều cơ quan liên quan đến việc làm như các cơ sở sản xuất, cơ quan ban ngành, các cơ sở đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, các trung tâm hướng nghiệp, các trường trung học nghề, cao đẳng, đại học trong thành phố để cung và cầu lao động hiểu rõ nhau, để đào tạo nghề phù hợp với xu hướng tuyển dụng, người học nghề, người dự tuyển nắm được các yêu cầu cụ thể. Hiện nay các cơ sở dạy nghề, cơ quan cần tuyển dụng nhân lực đều sử dụng internet để thông báo nhu cầu tìm nhân lực và chính bản thân người lao động cũng tìm việc làm qua mạng. Kết quả điều tra cho biết, có 36/198 ý kiến cho biết là tìm được việc làm qua mạng internet. Những động thái ấy chỉ mới là bước đầu đơn giản trong hệ thống kết nối mà chúng tôi muốn đề cập. Hệ thống kết nối thông minh giữa các tác nhân liên quan sẽ tích hợp các thông tin chi tiết và cụ thể hơn, hướng đến phát triển trong tương lai, đều được kết nối qua mạng vô tuyến và hữu tuyến vào mạng Internet, từ đó phát triển “mạng lưới kết nối mọi thứ”. Việc thiết lập hệ thống kết nối thông minh này không đòi hỏi kinh phí, mà chỉ cần một cơ quan nào đó có sử dụng trang mạng thì có thể tích hợp vào để vận hành. 10. Đẩy mạnh chương trình xuất khẩu lao động, mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, trong đó cần chú trọng đến các thị trường có hiệu quả kinh tế cao và có yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của lao động thanh niên dân tộc thiểu số. Thành phố cần thực hiện các chương trình nghiên cứu và xác định những ngành nghề và quốc gia xuất khẩu lao động phù hợp với thanh niên DTTS trên địa bàn, đặc biệt là lao động ở Malaysia, Indonesia và các nước ở khu vực Trung Đông (Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, Ả-rập Xê- út) nơi có nhiều người Hồi giáo sinh sống rất dễ tiếp cận đối với thanh niên người Chăm hoặc các nước như Đài Loan, Singapore, Malaysia cũng là những thị trường lao động truyền thống đối với thanh niên người Hoa do cùng chung ngôn ngữ và những yếu tố về văn hóa, phong tục tập quán có nhiều điểm tương đồng. Để việc thực hiện chương trình xuất M T SỐ GIẢI PHÁP TẠO VI C LÀM CHO THANH NIÊN DÂN T C THIỂU SỐ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 40 khẩu lao động thanh niên DTTS trở nên có hiệu quả, thành phố cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp sau đây nhằm góp phần giải quyết việc làm cho thanh niên DTTS: - Khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế tham gia xuất khẩu lao động, tích cực tìm kiếm thị trường lao động mới phù hợp với lao động thanh DTTS để giảm áp lực việc làm trong nước đồng thời tạo điều kiện cho thanh niên DTTS có cơ hội tham gia vào thị trường xuất khẩu lao động. - Hỗ trợ kinh phí cho thanh niên DTTS trong việc xuất khẩu lao động, chủ yếu là tiền đặt cọc, thế chân, tiền chi phí đào tạo học ngoại ngữ, pháp luật... để được ra nước ngoài lao động. Đây vốn là những khó khăn chung của đa số lao động Việt Nam khi tham gia vào thị trường xuất khẩu lao động, những khó khăn này còn cao hơn nhiều đối với thanh niên DTTS vì họ là những người yếu thế hơn về mọi mặt. - Đảm bảo nguồn lao động cung ứng cho thị trường xuất khẩu lao động cả về chất lượng cũng như số lượng. Để làm được điều này, các doanh nghiệp, tổ chức xuất khẩu lao động cần liên kết với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, các trung tâm dịch vụ việc làm thực hiện tốt công tác đào tạo nghề, ngoại ngữ, tin học, kiến thức pháp luật nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng. Đối với những lao động thanh niên DTTS đa số chưa có trình độ tay nghề - học vấn thấp, vẫn có thể tham gia vào thị trường xuất khẩu lao động bằng những công việc giản đơn như lao động phổ thông, giúp việc nhà, trông trẻ... giúp họ có việc làm và có một số vốn nhất định để làm ăn sau khi về nước. Chú thích i Ý kiến của Haji Y Sa Umơ trong hội thảo “Việc làm của thanh niên người dân tộc thiểu số tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020 - trường hợp người Hoa, người Chăm và người Khmer”, Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh, tháng 11/2015. ii Ý kiến của Arafat trong hội thảo “Việc làm của thanh niên người DTTS số tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020 - trường hợp người Hoa, người Chăm và người Khmer”, Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh, tháng 11/2015. iii Ý kiến của Haji Y Sa Umơ trong hội thảo “Việc làm của thanh niên người dân tộc thiểu số tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020 - trường hợp người Hoa, người Chăm và người Khmer”, Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh, tháng 11/2015. iv Ikat là phương pháp tạo hoa văn trên lụa bằng kỹ thuật “chống nhuộm”. Hoa văn của sản phẩm này không phải được hình thành thông thường từ cách dệt các sợi chỉ có nhiều màu theo những mô hình khác nhau, mà được hình thành từ khoảng trống không nhuộm màu của từng sợi chỉ. v Ý kiến của Phú Văn Hẳn trong hội thảo “Việc làm của thanh niên người dân tộc thiểu số tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020 - trường hợp người Hoa, người Chăm và người Khmer”, Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh, tháng 11/2015. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thái Văn Chải, Trần Thanh Pôn (đồng chủ nhiệm) (1998), Người Khmer tại TP. Hồ Chí Minh và mối quan hệ với bên ngoài, đề tài của Sở Khoa học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh. 2. Phan Văn Dốp, Vương Hoàng Trù (2011), Người Chăm ở Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh. TRƯƠNG HOÀNG TRƯƠNG - VŨ NGỌC THÀNH 41 3. Lê Thanh Hải (chủ nhiệm) (2014), Đào tạo nghề cho người dân tộc thiểu số trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, đề tài của Viện Nghiên cứu Phát triển TP. Hồ Chí Minh. 4. Trần Hồi Sinh (chủ nhiệm) (2008), Quan hệ kinh tế giữa người Hoa ở TP. Hồ Chí Minh với người Hoa ở Đông Nam Á, đề tài của Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh. 5. Vũ Ngọc Thành (2014), “Vấn đề hướng nghiệp dạy nghề cho thanh niên vùng đô thị hóa TP. Hồ Chí Minh nhìn từ phía chính quyền huyện Nhà Bè” trong Kỷ yếu hội thảo Biến động việc làm ở TP. Hồ Chí Minh - thực trạng và những vấn đề đặt ra, Viện Nghiên cứu Phát triển TP. Hồ Chí Minh tổ chức ngày 20/8/2014. 6. Trương Hoàng Trương (chủ nhiệm) (2016), Việc làm của thanh niên dân tộc thiểu số tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020 (trường hợp người Hoa, người Chăm và người Khmer), đề tài do Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển chủ trì, dưới sự quản lý của Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh. 7. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: kết quả toàn bộ, Nxb Thống kê, Hà Nội. 8. Ban dân tộc TP. Hồ Chí Minh (2015), “Thực trạng việc làm của thanh niên người dân tộc thiểu số tại TP. Hồ Chí Minh” trong Kỷ yếu hội thảo Việc làm của thanh niên người DTTS tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020 - trường hợp người Hoa, người Chăm và người Khmer, Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển tổ chức, TP. Hồ Chí Minh ngày 27/11/2015. 9. ILO (2012), “Chương trình hợp tác Quốc gia ILO – Việt Nam về việc làm bền vững giai đoạn 2012-2016”, truy cập từ nmaterials/WCMS_434273/lang-- vi/index.htm. 10. Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển (2015), Kỷ yếu hội thảo Việc làm của thanh niên người dân tộc thiểu số tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay và tầm nhìn đến năm 2020 - trường hợp người Hoa, người Chăm và người Khmer, TP. Hồ Chí Minh, ngày 27/11/2015. Ngày nhận bài: 07/4/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20/8/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf45_2717_2215097.pdf
Tài liệu liên quan