Một số giải pháp phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản Việt Nam

Tài liệu Một số giải pháp phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản Việt Nam: 1 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA CÁC SẢN PHẨM GỖ VÀ LÂM SẢN VIỆT NAM TS. NguyÔn M¹nh Dòng I. Mở đầu Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành chế biến gỗ và lâm sản đã đạt được những thành tựu to lớn cả về số lượng, chất lượng doanh nghiệp chế biến, kim ngạch xuất khẩu và thị trường tiêu thụ sản phẩm... Các sản phẩm gỗ chế biến đang ngày càng trở nên đa dạng hơn, có mẫu mã và chất lượng sản phẩm ngày càng phù hợp hơn với cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Từ chỗ chỉ tập trung để tái xuất khẩu sang một nước thứ ba, đến nay, các sản phẩm gỗ chế biến của Việt Nam đã có mặt ổn định ở trên 120 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới với nhiều doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu sang các thị trường quan trọng. Do vậy, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ cũng đang ngày càng tăng một cách ổn định. Nếu như năm 2000, giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ của nước ta chỉ mức khiêm tốn là 214 triệu đô la Mỹ thì đến năm 2...

pdf50 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Một số giải pháp phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA CÁC SẢN PHẨM GỖ VÀ LÂM SẢN VIỆT NAM TS. NguyÔn M¹nh Dòng I. Mở đầu Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành chế biến gỗ và lâm sản đã đạt được những thành tựu to lớn cả về số lượng, chất lượng doanh nghiệp chế biến, kim ngạch xuất khẩu và thị trường tiêu thụ sản phẩm... Các sản phẩm gỗ chế biến đang ngày càng trở nên đa dạng hơn, có mẫu mã và chất lượng sản phẩm ngày càng phù hợp hơn với cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Từ chỗ chỉ tập trung để tái xuất khẩu sang một nước thứ ba, đến nay, các sản phẩm gỗ chế biến của Việt Nam đã có mặt ổn định ở trên 120 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới với nhiều doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu sang các thị trường quan trọng. Do vậy, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ cũng đang ngày càng tăng một cách ổn định. Nếu như năm 2000, giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ của nước ta chỉ mức khiêm tốn là 214 triệu đô la Mỹ thì đến năm 2004 kim ngạch xuất khẩu này đã lần đầu tiên vượt mốc 01 tỷ đô la Mỹ để đạt giá trị 1,154 tỷ USD và năm 2017 kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản đã chạm mức 8 tỷ USD, tăng 10,2% so năm 2016 và về trước 3 năm so với kế hoạch đề ra trong Chiến lược phát triển ngành lâm sản giai đoạn 2006 - 2020. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn thứ 5 thế giới với gần 5,0% thị phần thương mại đồ gỗ nội thất thế giới, thứ hai 2 châu Á và đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Nói cách khác, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm gỗ và lâm sản đã và đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng, chủ lực trong nền kinh tế của nước ta. Đây là một ngành kinh tế không những tạo công ăn, việc làm, đem lại thu nhập cho người lao động mà còn là một trong những ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn của nước ta. Tuy nhiên, vẫn đang tồn tại một nghịch lý là trong khi các doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản đang ngày càng đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, chế biến sản phẩm xuất khẩu sang các thị trường khác nhau trên thế giới thì thị trường trong nước với sức tiêu thụ của hơn 90 triệu người dân có nhu cầu ngày càng tăng cao, ước tính khoảng 2-4 tỉ USD/năm lại đang bị bỏ ngỏ cho các doanh nghiệp nước ngoài. Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vietfores), thị trường trong nước đang bị các sản phẩm gỗ xuất xứ từ Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan,... chiếm lĩnh. Kết quả một số cuộc điều tra, khảo sát thị trường của Vietfores gần đây cho thấy, chỉ có khoảng 20% doanh số tiêu thụ đồ gỗ trong nước thuộc về các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam, còn lại 80% thuộc về các sản phẩm của các doanh nghiệp Malaysia, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan... Các loại lâm sản ngoài gỗ như tre, nứa, song mây... (dùng để lấy sợi); thảo quả, quế, hồi... (dùng làm dược liệu) hoặc măng tre, nứa... chế biến các loại (làm thực phẩm)... cũng vẫn trong tình trạng chỉ hướng mạnh đến xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng mây, tre, cói, thảm thường luôn chỉ duy trì ở mức 200 - 280 triệu USD mỗi năm, chỉ cá biệt có một vài năm lên đến 400 - 500 triệu USD. Các sản phẩm hàng hóa như thảo quả, quế, hồi, nhựa thông, mật ong,... cho dù có 3 nhiều ưu điểm và lợi thế trên thị trường nội địa, nhưng cũng chủ yếu được chế biến dành cho xuất khẩu. Số lượng sản phẩm tiêu dùng cho thị trường nội địa hầu hết là các sản phẩm tự cung, tự cấp hoặc sản phẩm chất lượng không cao, không xuất khẩu được hoặc bị các thị trường thế giới trả về. Trong khi đó, sản phẩm chế biến từ các loại lâm sản ngoài gỗ này của nước ngoài như sữa ong chúa, sâm alipas... lại được quảng cáo, tiêu thụ trong nước lại rất rầm rộ, với giá bán khá cao. Để phát triển thị trường nội địa sản phẩm gỗ và lâm sản tương ứng với hoạt động xuất khẩu các sản phẩm này, cũng như tương xứng với tiềm năng của ngành, cần có những hoạt động phù hợp điều kiện hiện tại, năng lực của các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm và cơ sở hạ tầng và các khâu của chuỗi cung ứng sản phẩm trên thị trường. Việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phát triển thị trường nội địa là rất cần thiết trong thời điểm hiện nay, khi cả nước đang thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2017 - 2020 nói chung và ngành lâm nghiệp nói riêng theo Quyết định số 1819/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có việc tái cơ cấu lĩnh vực chế biến, thương mại lâm sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. II. Thực trạng thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản 2.1. Thực trạng chế biến gỗ và lâm sản 2.1.1. Thực trạng chế biến lâm sản ngoài gỗ Khai thác và chế biến lâm sản ngoài gỗ hiện tại chưa được quan tâm đúng mức. Do đó chưa hình thành được hệ thống thông tin được cập nhật thường xuyên về các hoạt động chế biến lâm sản ngoài gỗ, kể cả chế biến trong nước và nhập 4 khẩu. Rất khó có thể có được các số liệu cụ thể, chính xác và cập nhật trong lĩnh vực này. Các sở nông nghiệp và phát triển nông thôn địa phương do chưa quan tâm thật sự đến lĩnh vực này nên cũng hầu như không thống kê, lưu trữ các số liệu liên quan đến hoạt động chế biến lâm sản ngoài gỗ một cách có hệ thống và cập nhật. Chế biến lâm sản ngoài gỗ hiện nay gồm 3 phương thức chủ yếu là sơ chế sau thu hoạch, chế biến thủ công và chế biến công nghiệp. - Sơ chế lâm sản sau thu hoạch, bao gồm những biện pháp thủ công chủ yếu như phơi khô, sấy khô, ướp muối, ngâm chua, để hạn chế tác động của nấm mốc, mục, mọt và thuận lợi cho quá trình lưu thông. - Chế biến thủ công chủ yếu là nghề đan lát thủ công mỹ nghệ mây, tre. Tại một số địa phương đã triển khai được các công nghệ chế biến ở quy mô hợp tác xã như các công nghệ, thiết bị chưng cất tinh dầu hồi, quế song số lượng không nhiều và chất lượng sản phẩm chưa cao. - Chế biến công nghiệp hiện tại chỉ sử dụng các lâm sản ngoài gỗ chủ yếu như tinh dầu, nhựa thông, bột giấy và một số sản phẩm cao cấp từ mây, tre. Chế biến lâm sản ngoài gỗ hiện cũng đang tồn tại 03 hình thức tổ chức sản xuất là: (i) chế biến tại hộ gia đình (chiếm chủ yếu), (ii) chế biến trong các hợp tác xã, tổ sản xuất, và (iii) chế biến trong các doanh nghiệp. Số lượng hộ, cơ sở chế biến lâm sản ngoài gỗ hiện khó có thể xác định chính xác do chưa có nguồn thống kê tin cậy. 5 Nhìn chung, sản phẩm lâm sản ngoài gỗ (kể cả sơ chế và chế biến) chưa thực sự trở thành hàng hóa, trừ một số sản phẩm đặc thù thuộc nhóm cây có sợi như các sản phẩm mây tre, giang đan; sản phẩm nhóm tinh dầu, nhựa.... Có thể nói, công nghệ chế biến lâm sản ngoài gỗ còn rất lạc hậu. Ngoài các doanh nghiệp chế biến tre, trúc, song, mây, dược liệu, nhựa thông... của nhà nước có quy mô tương đối lớn và tập trung, còn các doanh nghiệp chế biến lâm sản ngoài gỗ thuộc các loại hình sở hữu khác đều có quy mô nhỏ, phân tán, năng lực chế biến thấp. Chưa công bố được các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm đối với các sản phẩm đã và đang lưu thông trên thị trường. Chính vì vậy, nên chất lượng sản phẩm lâm sản ngoài gỗ tham gia vào thị trường đều không cao. Gần đây, có khá nhiều doanh nghiệp chế biến tre thành các sản phẩm công nghiệp như ván sàn tre, tre ép khối, tre ghép thanh... đã đầu tư hệ thống dây chuyền, thiết bị khá hiện đại từ Trung Quốc nhằm sản xuất ra khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn phục vụ xuất khẩu. 2.1.2. Thực trạng chế biến gỗ Tính đến cuối năm 2017, cả nước có khoảng 3.000 doanh nghiệp chế biến gỗ và nhiều hộ gia đình, cơ sở chế biến gỗ, nhất là ở các làng nghề. Theo số liệu của Tổng cục lâm nghiệp và Vietfores, năng lực chế biến gỗ của cả nước ước đạt trên 30 - 35 triệu m3/năm gỗ quy tròn. Đa phần các doanh nghiệp chế biến gỗ của nước ta là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có đến 47% tổng số các doanh nghiệp có công suất thiết kế sử dụng dưới 500 m 3 gỗ tròn/năm. Có 21,67% tổng số doanh nghiệp có công suất thiết kế sử dụng trên 10.000 m3 gỗ nguyên liệu một năm. Các doanh nghiệp này hầu hết là các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, doanh nghiệp sản xuất trong hệ thống phân phối 6 của nước ngoài (ví dụ như IKEA), các tập đoàn chế biến gỗ trong nước hoặc các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu dăm gỗ và các doanh nghiệp chế biến ván nhân tạo (MDF, ván dăm). Có 11,51% doanh nghiệp có quy mô thiết kế từ 1.000 - 10.000 m 3 gỗ nguyên liệu một năm. Đa phần là các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, được thiết kế và thành lập từ khá lâu với công nghệ, thiết bị lạc hậu. Các doanh nghiệp này có quy mô thiết kế 500 - 1.000 m3 nguyên liệu một năm, chiếm 19,78% tổng số doanh nghiệp chế biến cả nước. Phần lớn các doanh nghiệp chế biến gỗ (56,1%) sản xuất nhiều dạng sản phẩm như gỗ xẻ, dăm gỗ, gỗ mỹ nghệ, Chỉ có 8,6% tổng số doanh nghiệp chế biến tham gia chế biến ván nhân tạo như MDF, ván (gỗ) dán, ván dăm, gỗ ghép thanh Đây là ngành chế biến gỗ có nhiều tiềm năng phát triển do tận dụng được nguồn nguyên liệu là gỗ rừng trồng, nhất là gỗ rừng trồng khai thác sớm, cũng như một số phụ phẩm của ngành chế biến và tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tuy nhiên, do là lĩnh vực chế biến mới nên cần có thời gian để các doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư, nhất là đầu tư công nghệ và thiết bị chế biến hiện đại vào lĩnh vực này. Có 18,1% doanh nghiệp chế biến đồ gỗ nội thất và 13,7% tổng số doanh nghiệp đang chế biến đồ gỗ ngoại thất. Giá trị sản phẩm gỗ tham gia vào thị trường nội địa khoảng 2,5 tỷ USD/năm. Xét theo khía cạnh sở hữu thì có đến 81,7% tổng số doanh nghiệp là thuộc sở hữu ngoài nhà nước (doanh nghiệp dân doanh), có khoảng 14% là doanh nghiệp FDI, và 4,3% tổng số doanh nghiệp chế biến gỗ thuộc sở hữu của nhà nước. Đa phần (80,3%) các doanh nghiệp chế biến gỗ tập trung ở vùng Duyên hải Nam Trung bộ và vùng Đông Nam bộ. 7 2.2. Thực trạng thị trường nội địa 2.2.1 Thực trạng thị trường lâm sản ngoài gỗ Về nguyên liệu: Hằng năm, sản lượng nước ta khai thác và sử dụng khoảng 50.000 - 100.000 tấn lâm sản ngoài gỗ các loại. Trong đó, đáng chú ý là một số loại có sản lượng khai thác lớn và có tiềm năng tre, nứa, trúc... (581.000 cây/năm); song mây (8.821 tấn/năm)...; nhựa thông (15.000 - 20.000 tấn); thảo quả (3.000 - 5.000 tấn quả); quế (5.000 - 9.000 tấn); hồi (3.000 - 8.000 tấn quả); sa nhân (2.000 tấn);.. Về sản phẩm chế biến: trên thị trường nội địa tre, luồng, vầu... là nhóm sản phẩm chiếm ưu thế vượt trội với khoảng từ 91,11% đến 95,015 tổng lượng sản phẩm, tùy theo thời gian. Xếp thứ hai là nứa các loại với tỷ trọng khoảng 4,35% - 8,07%. Các loại sản phẩm khác chỉ chiếm dưới 1,00% tổng lượng sản phẩm lưu thông trên thị trường. Các loại lâm sản ngoài gỗ chế biến đa phần được tiêu thụ tại địa phương sản xuất dưới hình thức tự sản, tự tiêu. Chỉ có một số sản phẩm chế biến có khối lượng lớn được tiêu thụ có tính chất hàng hóa trên thị trường như măng (măng khô, măng chua, măng ngâm dấm, măng muối ớt...) với sản lượng khoảng 200.000 - 250.000 tấn/năm; colopan (chế biến từ nhựa thông) với sản lượng khoảng 1.000 tấn/năm, chủ yếu cho công nghiệp giấy và công nghiệp hóa chất và khoảng 100 tấn/năm tinh dầu thông. Ngoài ra, các loại sản phẩm mây tre đan là nhóm sản phẩm chủ đạo, chiếm khối lượng lớn trên thị trường nội địa. Các sản phẩm nhóm này rất đa dạng như các loại khay, đĩa, bình, lọ, rổ, rá, lẵng hoa, lẵng quả..., nhưng giá trị sản phẩm không cao, thị trường và mẫu mã sản phẩm lại không ổn định nên khó có 8 thể xác định được cơ cấu sản phẩm cụ thể tham gia vào thị trường này một cách khả thi. Về đối tượng sử dụng: Đa phần các sản phẩm mang tính chất hàng hóa đều sử dụng để xuất khẩu. Thị trường nội địa hầu hết chỉ là tự sản, tự tiêu trong các chợ truyền thống. Người sử dụng đều mang tính chất vùng, miền của nơi gây trồng, khai thác và chế biến. Các siêu thị, trung tâm thương mại lớn đều không hoặc có rất ít sản phẩm lâm sản ngoài gỗ chế biến. Thị trường đáng nói nhất đối với nhóm sản phẩm này là thị trường dành cho khách du lịch. Nguyên nhân là do các sản phẩm này đều chưa công bố được tiêu chuẩn nên không được chấp nhận tiêu thụ tại các siêu thị, trung tâm thương mại lớn. Gần đây một số sản phẩm được phát triển trên phạm vi rộng hơn, nhất là trên thị trường thương mại điện tử không chính thức nhờ có sự can thiệp mạnh mẽ của internet, nhất là qua các mạng xã hội. 2.2.2. Thực trạng thị trường sản phẩm gỗ 2.2.2.1. Thị trường theo cơ cấu sản phẩm Gỗ và sản phẩm gỗ tham gia vào thị trường trong nước bao gồm một số mặt hàng chính sau: - Gỗ nguyên liệu: Bao gồm gỗ xẻ, gỗ tròn, gỗ nhân tạo (ván dăm, ván sợi, ván dán, gỗ ghép thanh...). Các loại sản phẩm này đều đến từ hai nguồn, khai thác, chế biến trong nước và nhập khẩu. Trong đó, khai thác từ các nguồn trong nước chiếm ưu thế cao hơn. Trong giai đoạn 2012 – 2015, cả nước chỉ nhập khẩu mỗi năm khoảng 4,0 - 4,9 triệu m3 nguyên liệu gỗ tự nhiên và 400.000 m3 ván nhân tạo MDF trong tổng số 20 - 27 triệu m3 gỗ nguyên liệu sử dụng cho chế biến các loại. Trong năm 2017, theo tính toán của một số cơ quan, tổ chức, 9 lượng gỗ nhập khẩu đã lên đến khoảng trên 7,5 triệu m3, kim ngạch nhập khẩu gỗ là 2,1 tỷ USD và chiếm trên 21% lượng gỗ nguyên liệu dành cho chế biến của cả nước. - Sản phẩm đồ gỗ ngoài trời (bàn, ghế ngoài trời): Người tiêu dùng trong nước ít quan tâm đến các loại đồ gỗ ngoài trời, trừ một số ít địa phương khu vực phía Nam có sử dụng một vài loại sản phẩm ít phổ biến như bàn ghế để ở sân, vườn, song lại chủ yếu được chế biến từ các loại gỗ lũa, gốc cây... Có thể nói đồ gỗ ngoài trời đúng nghĩa hiện chưa có mặt trên thị trường nước ta. - Đồ gỗ nội thất, bao gồm nội thất phòng ngủ (giường, tủ áo, bàn phấn, bàn trang điểm...), nội thất nhà bếp (bàn ăn, tủ bếp), nội thất phòng khách (bàn, ghế phòng khách, sofa, kệ TV, tủ gương, tủ góc...), nội thất văn phòng: Đây là các sản phẩm chủ yếu trên thị trường trong nước hiện nay. - Sản phẩm gỗ phục vụ xây dựng, bao gồm một số sản phẩm chính như cốp pha, xà gồ, cột chống, khuôn cửa, cầu thang... - Đồ gỗ thủ công mỹ nghệ, bao gồm những sản phẩm như tượng gỗ, tranh khắc gỗ, khảm trai, tranh ghép gỗ, độc bình, đồ sơn mài, chạm khắc, các sản phẩm trang trí lưu niệm, quảng cáo như cốc, chén, đĩa, khay, thìa (muỗng), quạt, lọ, bình, cung, kiếm, đế lọ, guốc, bài vị, thảm hạt, chuỗi hạt, hộp các loại, huy hiệu, biểu tượng, biểu trưng, khung tranh, khung ảnh, phào mỹ nghệ, thuyền buồm mỹ nghệ các loại, mành trang trí, giá đỡ hàng mỹ nghệ,.... Đôi khi người ta còn xếp một số đồ nội thất phòng khách thuộc nhóm sản phẩm truyền thống, được chế biến từ các loại gỗ tốt, gỗ quý vào nhóm này như tràng kỷ, salon gỗ, tủ góc, tủ thờ, bàn thờ, đôn kỷ, án thư, bàn trà, tủ chè, tủ chùa, tủ đồng hồ, tủ gương,... vào nhóm này do có độ 10 cầu kỳ, tinh xảo trong chế biến và các sản phẩm hầu hết đều được sản xuất từ các làng nghề chế biến gỗ truyền thống. Trong nhiều trường hợp nhóm sản phẩm này được biết đến dưới tên gọi là đồ gỗ cao cấp. Nếu tách riêng nhóm sản phẩm sau ra thì thị phần của nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ khá hạn chế. Trong khi nếu tính cả hai nhóm thì thị phần của chúng cũng khá cao, nhất là tại thị trường các địa phương phía Bắc. - Các sản phẩm gỗ khác: Nhóm sản phẩm này bao gồm các sản phẩm như nhạc cụ, đồ chơi trẻ em, vợt cầu lông, vợt tennis, vợt bóng bàn, gậy chơi bi-da, gậy chăn cừu, ót giầy (cái đón gót), chân tay giả, dù cán gỗ, chổi cán gỗ, cán chổi sơn, sản phẩm gỗ mỹ nghệ kết hợp song, mây, tre, trúc, vật liệu khác,... - Cơ cấu thị trường của nhóm sản phẩm nội thất Bàn, ghế là loại sản phẩm chiếm ưu thế trong nhóm đồ gỗ nội thất với khoảng 56,84% - 66,91% tổng lượng sản phẩm lưu thông trên thị trường nội địa. Tuy nhiên, nhóm sản phẩm này đang có xu hướng giảm, nhường chỗ cho loại sản phẩm khác. Giường, tủ là nhóm sản phẩm có tỷ trọng cao thứ hai trong nhóm (24,32% - 35,30%) và đang có xu hướng tăng dần đều trong những năm gần đây. Các sản phẩm khác như kệ các loại, ván sàn, ốp tường, ốp trần có khuynh hướng ổn định. Kệ các loại chiếm khoảng 3,46% - 3,81%. Ván sàn cũng ổn định ở mức 2,71% - 3,04% tổng lượng sản phẩm trong nhóm. Trong khi đó, tỷ trọng của ốp tường và ốp trần chỉ là 1,15% - 1,36%. - Cơ cấu thị trường của nhóm sản phẩm phục vụ xây dựng (khuôn cửa, cầu thang...). 11 Bảng 1: Cơ cấu thị trường theo loại hình sản phẩm Nă m Gỗ nội thất Gỗ ngoại thất và gỗ xây dựng Gỗ thủ công mỹ nghệ Gỗ và ván nhân tạo Gỗ dăm và bột giấy Gỗ chống lò, cốp pha và bao bì Tổng 201 2 - Khối lượng (m3) 86.1 86,88 34. 171,17 9.8 53,40 28. 315,00 1.191. 607,00 321. 442,20 1.671. 575,65 - Tỷ trọng (% so tổng SP) 5,16 2,0 4 0,5 9 1,6 9 71,29 19,2 3 100,0 0 201 3 - Khối lượng (m3) 100. 789,29 43. 255,27 11. 684,50 91. 034,00 795.7 96,00 355. 789,60 1.398. 348,66 - Tỷ trọng (% so tổng SP) 7,21 3,0 9 0,8 4 6,5 1 56,91 25,4 4 100,0 0 201 4 - Khối lượng (m3) 127. 961,29 57. 142,77 13. 671,20 31. 261,00 877.8 99,10 362. 080,10 1.470. 015,46 - Tỷ trọng (% so tổng SP) 8,70 3,8 9 0,9 3 2,1 3 59,72 24,6 3 100,0 0 (Nguồn: Dự án điều tra thị trường gỗ và lâm sản nội địa) 12 Trong nhóm này, các sản phẩm nói chung đều ổn định từ năm 2012 cho đến nay. Cửa các loại là loại sản phẩm có sự thay đổi đáng kể theo chiều hướng tăng lên và chiếm tỷ trọng cao thứ hai với 34,26% - 38,79%. Khuôn cửa các loại chiếm tỷ trọng cao nhất với 34,62% - 39,16% tổng số sản phẩm lưu thông trên thị trường, nhưng đang có chiều hướng giảm. Sự giảm sút này có lẽ do các loại khuôn cửa thường được làm từ các loại gỗ tốt, quý, hiếm mà các loại gỗ này đang bị hạn chế khai thác. Thêm vào đó là sự tăng lên đáng kể của các loại sản phẩm thay thế không sử dụng gỗ. Cầu thang gỗ chiếm tỷ trọng thứ ba một cách ổn định với 16,99% - 18,37% tổng lượng sản phẩm trong nhóm. Cuối cùng là các loại sàn phẩm ốp sàn, ốp tường, chiếm 5,00% - 5,12% tổng lượng sản phẩm trong nhóm lưu thông trên thị trường. - Cơ cấu thị trường của nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ Nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ là nhóm đa dạng nhất về chủng loại sản phẩm gỗ chế biến, mặc dù tỷ trọng của nhóm này không cao. Các loại giường tủ là tiểu nhóm sản phẩm có tỷ trọng cao nhất và đang có xu hướng tăng trong thời gian gần đây, với 25,45% - 29,41%. Xếp thứ hai là sản phẩm tượng gỗ với 14,31% - 14,58%. Đặc trưng của tiểu nhóm sản phẩm này là độ ổn định tương đối cao. Tiếp đó là các loại áo quan cao cấp với khoảng trên 13,00%, nhưng cho đến năm 2014, sản phẩm loại này chỉ còn chiếm khoảng 10,46%. Bàn ghế cao cấp cũng chiếm tỷ trọng khá và ổn định trong khoảng 12,82% đến 14,55%. Bàn thờ các loại cũng chiếm tỷ trọng khá với 8,00%, nhưng hiện đang giảm và chỉ còn chiếm 6,37% tổng lượng sản phẩm lưu thông của nhóm. Tranh gỗ, tủ chùa, đôn kỷ chiếm khoảng 4,8% đến 6,27% tùy loại sản phẩm và tùy theo thời gian. Tủ chè, tủ gương cũng 13 chỉ chiếm từ 3,32% đến 4,34% tổng lượng sản phẩm trong nhóm mỗi loại. Cuối cùng là các sản phẩm tượng gỗ, chỉ chiếm 0,18% đến 0,24% tổng lượng sản phẩm và đang có xu hướng giảm. Đáng chú ý là án thư, mặc dù là một loại sản phẩm tương đối ấn tượng trong nhóm này, song trong 3 năm gần đây đã hoàn toàn vắng bóng trên thị trường nội địa. 2.2.2.2. Cơ cấu thị trường theo nguồn gốc sản phẩm Nhìn chung, trên thị trường nội địa, sản phẩm gỗ và lâm sản sản xuất trong nước chiếm ưu thế hơn các sản phẩm nhập ngoại. Đây là một kết quả trái với nhận định cảm tính của một số chuyên gia trong lĩnh vực này. Xét trên tổng số thì các sản phẩm gỗ nhập ngoại là không nhiều so với các sản phẩm gỗ sản xuất trong nước để tiêu thụ trên thị trường nội địa. Tỷ lệ sản phẩm nhập ngoại và sản phẩm gỗ sản xuất trong nước dao động trong khoảng 1,74% - 2,76%. Tỷ lệ này dao động tùy thời điểm và chưa có quy luật rõ ràng. Sản phẩm gỗ ngoại thất và gỗ xây dựng có số lượng sản phẩm ngoại nhập lớn nhất trong các nhóm đồ gỗ trên thị trường nội địa. Tỷ lệ giữa sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm sản xuất trong nước của nhóm này đang ở mức 45,89% - 54,83% và đang có chiều hướng ngày càng có nhiều sản phẩm ngoại nhập về để tiêu thụ trong nước. Nếu như tỷ lệ này là 45,89% (năm 2012) thì năm 2013 đã là 47,67% và năm 2014 tăng mạnh lên 54,83%. Một điều cần lưu ý là các sản phẩm gỗ thủ công mỹ nghệ lại có tỷ lệ sản phẩm nhập khẩu khá cao so với sản lượng sản phẩm sản xuất trong nước (đứng thứ hai) với 34,21% - 44,31%. Tuy nhiên, xu hướng nhập ngoại các sản phẩm này vào thị trường nội địa đang giảm khá mạnh từ 44,31% năm 2012 xuống còn 34,21% năm 2014. Các sản phẩm gỗ nội thất có tỷ lệ sản phẩm nhập ngoại đứng 14 hàng thứ ba với 7,27% - 17,61%. Tỷ lệ này đang tăng với tốc độ cao, từ 7,27% năm 2012 lên 17,61% năm 2014. Các nhóm sản phẩm gỗ còn lại hầu như không có sản phẩm ngoại nhập vào để tiêu thụ tại thị trường nội địa. Các xu hướng nhập ngoại sản phẩm đồ gỗ này chứng tỏ khả năng hội nhập cao của nền kinh tế Việt Nam vào kinh tế thế giới và cũng phần nào cho thấy sự thay đổi thị hướng của người tiêu dùng trong nước về đồ gỗ theo tốc độ hội nhập với các sản phẩm chung của thế giới. 2.2.2.3. Các sản phẩm thay thế đồ gỗ Hiện đang có nhiều loại sản phẩm thay thế nguyên liệu gỗ trong chế biến sản phẩm đồ gỗ. Các sản phẩm thay thế tập trung chủ yếu vào nhóm sản phẩm xây dựng và phục vụ xây dựng. Trong đó phải kể đến các sản phẩm từ sắt, thép... thay thế cho các loại cốp pha gỗ truyền thống trong xây dựng, nhất là trong xây dựng các công trình lớn và các loại chung cư cao tầng. Nhiều loại vật liệu từ lâm sản ngoài gỗ như tre ép khối, ván sàn tre, nhôm, kính... cũng được sử dụng ngày càng rộng rãi thay thế cho đồ gỗ trong việc chế tạo khuôn cửa, cánh cửa, sàn nhà... Các dạng vật liệu thay thế khác như gỗ nhựa, đồ nhựa... cũng đã và đang dần thay thế đồ gia dụng làm từ gỗ, lâm sản ngoài gỗ. 2.2.2.4. Kênh thị trường, chuỗi cung ứng, mạng lưới, hình thức phân phối các sản phẩm gỗ và lâm sản và đối tượng tiêu thụ Khác với xuất khẩu, việc lưu thông, phân phối gỗ và sản phẩm lâm sản trên thị trường nội địa rất đa dạng và phức tạp, phụ thuộc vào từng địa phương và từng loại sản phẩm. Tuy nhiên, có thể thấy rõ là cho đến nay trên thị trường này chưa có những kênh thị trường và mạng lưới phân phối sản phẩm lâm sản nào hoạt động có hiệu quả và có tính chất chi phối trên phạm vi cả nước. Hầu 15 hết các kênh thị trường và mạng lưới phân phối sản phẩm đều là tự phát, mang tính địa phương và không có khả năng chi phối một cách tự giác đến nhà sản xuất, khai thác và chế biến. Theo kết quả điều tra của Dự án “Điều tra, đánh giá thực trạng, đề xuất cơ chế chính sách phát triển thị trường nội địa về sản phẩm gỗ, lâm sản toàn quốc phục vụ tái cơ cấu ngành” do Tổng cục Lâm nghiệp làm chủ đầu tư, thực hiện năm 2015 – 2016, cho đến hết năm 2014, cả nước có khoảng 36.688 - 41.660 đơn vị, hộ gia đình và doanh nghiệp (sau đây gọi chung là cơ sở) ở các hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào mạng lưới phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản. Trong đó, khu vực miền Trung có số lượng lớn nhất với 18.323 cơ sở phân phối. Tiếp đến là khu vực miền Bắc với 11.652 cơ sở. Miền Nam hiện tại có 4.841 cơ sở, còn khu vực Duyên hải miền Trung có 974 và Tây Nguyên có 898 cơ cở trong mạng lưới phân phối sản phẩm. Trong hệ thống phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản cả nước các hộ kinh doanh cá thể chiếm phần đa số với 88% (năm 2014) tổng số doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân tham gia mạng lưới này. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước tham gia phân phối sản phẩm hết sức nhỏ bé với 0,1% tổng số cơ sở tham gia. Quy mô của các doanh nghiệp tham gia vào thị trường nội địa cũng hết sức nhỏ bé. Các doanh nghiệp có quy mô vốn đầu tư dưới một tỷ đồng chiếm số lượng lớn nhất với 61,09% - 70,04% tổng số doanh nghiệp, cơ sở. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ 1 đến 5 tỷ đồng chiếm khoảng 21% - 27%. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư càng lớn thì tỷ trọng trong hệ thống phân phối sản phẩm càng thấp. Chỉ có 6,44% - 9,70% tổng số doanh nghiệp là có vốn trên 5 tỷ đồng đến dưới 10 tỷ đồng. Trong khi đó, tỷ lệ doanh nghiệp có vốn đầu tư trên 10 tỷ chỉ là 2,08% - 2,53%. 16 Tính đến năm 2014, cả nước có 14.566 doanh nghiệp, cơ sở tham gia vào hệ thống phân phối theo các loại sản phẩm gỗ và lâm sản. Trong đó có 7.974 doanh nghiệp, cơ sở (54,74% tổng doanh nghiệp, cơ sở) chuyên phân phối sản phẩm đồ gỗ nội, ngoại thất; 5.343 cơ sở (36,68%) chuyên phân phối đồ thủ công mỹ nghệ; 403 cơ sở (2,77%) phân phối ván dăm và bột giấy; 175 cơ sở (1,20%) phân phối ván nhân tạo; 440 cơ sở (3,02%) phân phối gỗ chống lò, cốp pha, bao bì và chỉ có 231 cơ sở (1,59%) cơ sở chuyên phân phối sản phẩm lâm sản ngoài gỗ. Hình thức doanh nghiệp vừa sản xuất, chế biến, vừa trực tiếp tham gia phân phối sản phẩm chiếm đa phần trong các loại doanh nghiệp tham gia vào hệ thống phân phối sản phẩm, nhất là ở khu vực phía Bắc. Đối với gỗ nguyên liệu được khai thác trong nước (chủ yếu là gỗ rừng trồng) được tiêu thụ theo 3 kênh thị trường với đối tượng tiêu thụ chính sau: - Kênh 1: Các hộ trồng rừng bán cho các xưởng mộc tại địa phương (bán lẻ) để sản xuất các loại đồ mộc dân dụng, các đồ nội thất gia đình như giường, tủ, bàn ghế, cửa... và các sản phẩm phục vụ xây dựng như cột chống, cốp pha, xà gồ... Kênh thị trường này phần nhiều mang tính địa phương và tự cung, tự cấp. Các công ty lâm nghiệp, doanh nghiệp trồng và khai thác ít tham gia vào mạng lưới phân phối này. - Kênh 2: Hộ gia đình, liên hộ gia đình, các hợp tác xã, thậm chí một số doanh nghiệp trồng rừng và khác thác gỗ quy mô nhỏ bán gỗ cho người thu gom (bán buôn). Người thu gom vận chuyển và bán lại cho các cơ sở, doanh nghiệp chế biến gỗ. - Kênh 3: Hộ gia đình, liên hộ gia đình, các hợp tác xã, thậm chí một số doanh nghiệp trồng rừng và khác thác gỗ bán gỗ cho các doanh nghiệp, cơ sở chế biến gỗ theo hợp đồng ký giữa các 17 bên. Các đơn vị có khối lượng gỗ lớn, gỗ có chứng chỉ (FSC, PEFC...) và một phần gỗ nhập khẩu thường tổ chức tiêu thụ theo kênh này. - Kênh 4: Gỗ nhập khẩu, gỗ rừng tự nhiên, gỗ cao su... thường được tiêu thụ thông qua các chợ gỗ, các phiên đấu giá gỗ. Hiện phần lớn gỗ cao su đại điền, gỗ nhập khẩu, gỗ rừng tự nhiên khai thác trong nước, gỗ tịch thu... được phân phối qua kênh tiêu thụ này. Hầu như các địa phương có lượng tiêu thụ gỗ nguyên liệu lớn như Bắc Ninh, Nam Định, Bình Định, Đồng Nai,... đều hình thành các chợ gỗ lớn. Một số doanh nghiệp lớn như TAVIMEX (Đồng Nai) còn tự tổ chức chợ gỗ của riêng mình nhằm phân phối gỗ (chủ yếu là nhập khẩu) cho các doanh nghiệp chế biến. Ngoài ra, các doanh nghiệp chế biến còn trực tiếp nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ nước ngoài về phục vụ cho hoạt động chế biến của mình. Tuy nhiên, kênh phân phối này không lớn và hoạt động không thường xuyên. Đối với sản phẩm gỗ: Có thể nói chắc chắn rằng cho đến nay trên thị trường nội địa chưa có những kênh phân phối sản phẩm đồ gỗ nào có quy mô đủ lớn, có ảnh hưởng bao phủ trong phạm vi khu vực, cũng như cả nước và có hoạt động có hiệu quả. Cũng đã hình thành một vài chuỗi phân phối sản phẩm của của doanh nghiệp lớn như “Nhà Xinh”, “Vietmay Home”... nhưng chừng đó là chưa đủ. Vấn đề đáng lo ngại hiện nay là dù chúng ta có nguồn cung và nhu cầu đồ gỗ rất lớn, nhưng hệ thống phân phối cho sản phẩm gỗ trong nước lại chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Một số doanh nghiệp như Hoàng Anh Gia Lai, Hòa Phát... bước đầu đã có hệ thống phân phối riêng, nhưng còn nhỏ lẻ về quy mô và sản phẩm chưa phong phú. 18 Hình thức phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản trên thị trường nội địa vẫn chỉ là các hình thức phân phối truyền thống. Các hình thức phân phối sản phẩm hiện đại như chợ điện tử, phân phối sản phẩm trên mạng internet... đã bắt đầu hình thành, nhưng chủ yếu vẫn là tự phát, nhỏ lẻ và khó kiểm soát. Đối tượng tiêu thụ các lọai sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa khá đa dạng. Cư dân thành thị và tầng lớp có thu nhập cao thường có xu hướng sử dụng các loại đồ gỗ cao cấp, đắt tiển, đồ gỗ ngoại nhập,.. trong khi cư dân nông thôn và tầng lớp trung lưu trở xuống lại thường có xu hướng sử dụng đồ gỗ bình dân, đồ gỗ từ các loại ván nhân tạo, đồ gỗ chế biến trong nước... Một điểm chung duy nhất là phần lớn người tiêu dùng hiện nay đang chuyển dần sang dùng các sản phẩm thay thế đồ gỗ như các loại đồ nhựa, đồ sắt, nhôm, kính,.., hoặc các sản phẩm từ gỗ phối hợp với các loại vật liệu khác. Chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa: Chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa theo sơ đồ sau. Sản phẩm Doanh nghiệp/cơ sở cung ứng Doanh nghiệp/cơ sở phân phối Khách hàng Thông tin về thị trường Sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm Thông tin về sản phẩm 19 a. Về sản phẩm Theo kết quả điều tra của Dự án “Điều tra, đánh giá thực trạng, đề xuất cơ chế chính sách phát triển thị trường nội địa về sản phẩm gỗ, lâm sản toàn quốc phục vụ tái cơ cấu ngành” thì tổng lượng sản phẩm thị trường nội địa dao động trong khoảng 1.500.000 - 3.000.000 m 3 gỗ nguyên liệu quy tròn. Trong đó, sản phẩm sản xuất trong nước dao động trong khoảng 66,7% - 77,8% tổng lượng sản phẩm tham gia thị trường; phần còn lại là các sản phẩm nhập khẩu. Điều đó cho thấy, rõ ràng là các sản phẩm gỗ được sản xuất bởi các cơ sở sản xuất, chế biến gỗ trong nước là chủ yếu. Tuy nhiên, do đa phần nguyên liệu dùng để sản xuất, chế biến đồ gỗ tham gia thị trường trong nước là thuộc nhóm gỗ quý hiếm nên việc khai thác nguyên liệu trong nước khá hạn chế, chủ yếu là nhập nội từ các nước trong khu vực như Lào, Campuchia hay các nước thuộc châu Phi. Nhìn chung, sản xuất đồ gỗ nội địa tiêu tốn nguồn tài nguyên thiên nhiên từ rừng tự nhiên là chủ yếu. Việc phân phối sản phẩm gỗ nội địa đến người tiêu dùng thể hiện việc phân bổ nguồn tài nguyên quý hiếm của xã hội nói chung. b. Về thông tin Có thể nói rằng cả thông tin về đơn vị sản xuất, chế biến, thông tin về chất lượng, mẫu mã sản phẩm... từ nhà sản xuất đến người tiêu thụ (khách hàng) lẫn thông tin về thị hiếu khách hàng, về biến động thị trường,.. từ khách hàng đến đơn vị sản xuất, chế biến và cung ứng, phân phối đều không rõ ràng. Hiện chưa xác định được cơ chế, cũng như nguồn cung cấp thông tin trong lĩnh vực này. Đây là vấn để rất quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển thị trường nội địa một cách bền vững nên cần có sự đầu tư nghiên cứu, điều tra làm rõ để đề xuất những biện pháp phù hợp. 20 Nhìn chung, các doanh nghiệp chế biến sản phẩm gỗ nội địa đều sản xuất theo sở trường, kỹ năng vốn có của mình mà chưa quan tâm đến nhu cầu thị trường, thị hiếu của khách hàng. Theo chiều ngược lại, khách hàng cũng chỉ biết mua những sản phẩm sẵn có trên thị trường mà chưa có được nhiều những tác động của mình đến nhà sản xuất hoặc cung ứng (trong trường hợp nhập khẩu). Chính vì vậy, khả năng tiêu thụ sản phẩm khá hạn chế, khả năng tạo ra đột biến trong sản xuất và về thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng không cao. Mỗi biến động về thị hiếu của người tiêu dùng hay nhu cầu thị trường thường chậm ảnh hưởng đến đơn vị sản xuất, cung ứng sản phẩm. Sự hạn chế về nguồn, cơ chế cung cấp thông tin khiến cho những cố gắng trong hoạch định chính sách của các cơ quan nhà nước, xây dựng kế hoạch xúc tiến thương mại, chiến lược phát triển thị trường thường rất khó khăn do thiếu thông tin và cơ sở khoa học. c. Về các đơn vị cung ứng và phân phối sản phẩm Trong chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ nội địa, các doanh nghiệp tư nhân chiếm ưu thế với tỷ lệ từ 32,1% đến 35,2% tùy theo thời điểm. Có điều đáng suy nghĩ là trong khi nhà nước đang khuyến khích hình thành các doanh nghiệp dân doanh thì tỷ lệ các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ lại có chiều hướng giảm sút. Tỷ trọng của khối doanh nghiệp này đã giảm từ 35,2% tổng số doanh nghiệp tham gia trong chuỗi (năm 2012) xuống còn 32,3% (năm 2014). Tiếp sau đó là các công ty TNHH, tỷ trọng của khối doanh nghiệp loại này chiếm 24,5% - 29,2% tổng doanh nghiệp tham gia chuỗi và cũng có chiều hướng giảm theo thời gian. Các công ty tư nhân chiếm số lượng hàng thứ 3 với tỷ lệ 15,4% -16,5% và có chiều hướng tăng nhẹ. Các hộ 21 gia đình có tỷ trọng khoảng 10,3% - 17,0% và cũng có chiều hướng tăng nhanh theo thời gian. Các doanh nghiệp nhà nước hầu như không tham gia vào chuỗi cung ứng nhóm hàng gỗ nội địa. Tỷ trọng của khối doanh nghiêp này chỉ dưới 0,5% và đang có chiều hướng giảm. Xem xét về quy mô vốn đầu tư của các đơn vị tham gia vào chuỗi cung ứng sản phầm gỗ trên thị trường nội địa hiện nay, có thể thấy hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở tham gia đều có quy mô vốn đầu tư rất nhỏ. Tỷ lệ doanh nghiệp/cơ sở có vốn đầu tư dưới 1,0 tỷ đồng chiếm đa số, dao động trong khoảng 86% - 90% tổng số đơn vị trong chuỗi. Tiếp đến là các đơn vị có quy mô vốn đầu tư từ 1,0 - 5,0 tỷ đồng, chiếm 10,2% đến 14,0% tổng số đơn vị tham gia chuỗi. Chỉ có 0,02% tổng số doanh nghiệp tham gia chuỗi có vốn đầu tư từ 5,0 tỷ đồng đến 10,0 tỷ đồng và không có doanh nghiệp nào có vốn đầu tư trên 10 tỷ đồng. Điều này cho thấy, hầu như không thể có doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng nhóm sản phẩm này có khả năng làm chủ, chi phối và điều tiết được hệ thống phân phối sản phẩm trong chuỗi cung ứng nhóm sản phẩm này trên thị trường nội địa. Đánh giá về các doanh nghiệp tham gia vào việc cung ứng và phân phối sản phẩm có thể thấy: - Không có sự khác nhau nhiều về tỷ lệ giữa các nhóm tham gia vào chuỗi cung ứng theo tính chất thị trường của mỗi nhóm, ngoại trừ nhóm doanh nghiệp chuyên môi giới tiêu thụ hàng gỗ thủ công mỹ nghệ. - Nhóm doanh nghiệp có tỷ trọng lớn nhất trong chuỗi cung ứng sản phẩm này là nhóm doanh nghiệp vừa cung ứng, vừa phân phối sản phẩm với 23,2% - 26,0% tổng số doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng. Điều này phản ánh tình trạng một 22 cách tương đối rõ ràng tình trạng các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm, hàng hóa vừa phải lo sản xuất, vừa lo cung ứng và tiêu thụ sản phẩm. - Nhóm doanh nghiệp chỉ phân phối sản phẩm dưới hình thức đại lý, bán buôn, bán lẻ sản phẩm đứng thứ hai với 24,3% - 25,2% tổng số doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng, tương đương với nhóm doanh nghiệp chuyên cung ứng sản phẩm (20,0% - 24,6%). Tuy nhiên, có sự khác nhau về xu hướng phát triển giữa hai nhóm này. Trong khi nhóm chuyên phân phối sản phẩm có xu hướng ngày càng phát triển, số lượng doanh nghiệp trong nhóm tăng từ 24,3% (2012) lên 25,2% (năm 2014) thì nhóm doanh nghiệp chuyên cung ứng sản phẩm lại có sự suy giảm khá rõ ràng, giảm từ 24,6% (năm 2012) xuống chỉ còn 20,0% (năm 2014). Rõ ràng là có sự chuyển đổi trong chuỗi cung ứng sản phẩm hàng hóa theo hướng giảm trung gian và tăng khả năng bán sản phẩm đến người tiêu dùng. - Nhóm các doanh nghiệp bán lẻ cũng chiếm khoảng 20,4% - 22,7% tổng số doanh nghiệp tham gia trong chuỗi cung ứng và thấp nhất trong số các nhóm doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng. Mặc dù sự khác nhau về số lượng doanh nghiệp giữa các nhóm là không lớn, song với tỷ trọng thấp nhất thuộc về nhóm bán lẻ chứng tỏ khả năng phát triển thị trường là khá hạn chế. Các tầng lớp trung gian trong chuỗi cung ứng còn khá nhiều làm hạn chế khả năng tiếp cận thị trường của sản phẩm. Điều đáng mừng là số lượng doanh nghiệp trong nhóm bán lẻ cũng đang ngày càng tăng. Tỷ trọng nhóm doanh nghiệp này tăng đều từ 20,4% (2012) lên 22,7% (năm 2014). Có thể thấy, thị trường bán lẻ đồ gỗ nội địa đã và đang có sự khởi sắc trong thời gian gần đây. Đây cũng là xu thế tất yếu của sự phát triển thị trường đồ gỗ 23 và lâm sản trong quá trình hội nhập quốc tế và trong tiến trình phát triển nói chung của một xã hội đang phát triển theo hướng thị trường. - Mặc dù có tỷ trọng thấp nhất trong các nhóm tham gia vào chuỗi cung ứng song nhóm các cơ sở môi giới sản phẩm đã đang tăng lên một cách đáng kể. Điều này cho thấy, thông tin giữa các thành tố trong chuỗi cung ứng, nhất là giữa các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm với các doanh nghiệp chế biến, tạo ra sản phẩm đã được cải thiện. d. Về khách hàng Có thể thấy, nhóm khác hàng sản phẩm gỗ trên thị trường nội địa có một số đặc điểm sau: - Cơ hội nhận được thông tin về nhà sản xuất, cung ứng... cũng như chất lượng, thiết kế và mẫu mã sản phẩm hạn chế. Đa phần họ thực hiện mua sắm sản phẩm theo cảm tính, theo thông tin truyền tai, không chính thống, mua hàng theo tâm lý đám đông. - Cơ hội phản ánh thị hiếu, nhu cầu mua hàng hóa của mình đến các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, cung ứng sản phẩm một cách chính thống cũng rất hạn chế, nếu không muốn nói là hầu như không có. - Nhóm khách hàng là các hộ gia đình chiếm tỷ lệ khá cao, nhất là các hộ gia đình ở khu vực nông thôn và các hộ gia đình ở tầng lớp trung lưu trở lên. - Các khách hàng là cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan nhà nước cấp địa phương cũng là nhóm khách hàng quan trọng trong mua sắm đồ gỗ. Họ luôn là đối tượng khách hàng quan trọng của các đơn vị chế biến đồ gỗ trong khu vực làng nghề. Tuy nhiên, nhóm khách hàng này chịu ảnh hưởng của các quy định mua sắm 24 công từ phía nhà nước, cũng như chịu ảnh hưởng từ tâm lý vốn không nhất quán, nặng cảm tính của các lãnh đạo đương thời, do vậy ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng, phân phối sản phẩm đồ gỗ, nhất là đồ gỗ văn phòng không lớn như kỳ vọng của thị trường. - Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp dân doanh thành lập trong thời gian gần đây hầu như không phải là khách hàng trong chuỗi cung ứng này. Lý do là họ chuộng những loại đồ gỗ đơn giản, rẻ tiền và tiện lợi, đặc biệt là nhóm đồ gỗ ngoại nhập do đáp ứng được yêu cầu về tính tiện lợi và giá trị sử dụng cao. Trong khi nhóm sản phẩm đồ gỗ có tính thủ công mỹ nghệ lại không có được đặc điểm này. - Khách du lịch nước ngoài cũng là một trong những nhóm khách hàng khá quan trọng của đồ gỗ nội địa, đặc biệt là đối với nhóm hàng gỗ thủ công mỹ nghệ với tư cách là các hàng lưu niệm. Tuy nhiên, nhóm khác hàng này lại đang có nguy cơ sụt giảm dù lượng khách du lịch đến Việt Nam vẫn tăng do khách hàng nước ngoài, nhất là các khách hàng đến từ châu Âu, châu Mỹ hoặc từ các nước phát triển ưa chuộng các sản phẩm thủ công có hình khối, hoặc đường nét đơn giản, trong khi các sản phẩm gỗ thủ công mỹ nghệ của Việt Nam lại đa phần là hàng chạm, khắc với những đường nét hoa văn cầu kỳ, nhiều nét uốn lượng nên dễ bắt bụi và dễ vướng víu khi trưng bày, sử dụng. Quan trọng hơn là nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm thường ít được quan tâm thể hiện trên từng sản phẩm. Mỗi khách du lịch khi mua một sản phẩm lưu niệm rất quan tâm đến điều này bởi họ muốn gắn các kỷ niệm đó với những chuyến du lịch của họ tới những vùng đất mới, nhưng các sản phẩm hàng lưu niệm của Việt Nam, nhất là sản phẩm của làng nghề đã không thể hiện được điều đó. Nhiều sản phẩm đồ gỗ trong các làng nghề thường 25 gắn với những điển tích Trung Hoa và không có xuất xứ cụ thể (made in Việt Nam) nên khó thu hút khách du lịch. III. Chính sách phát triển thị trường nội địa sản phẩm gỗ và lâm sản Chính sách của nhà nước đã có những tác động đến thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản. Định hướng phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản cũng đã được thể hiện qua một số nội dung cơ chế ưu đãi về lưu thông, vận chuyển sản phẩm gỗ và lâm sản; về xúc tiến thương mại và phát triển thương hiệu; về thuế và phí trong sản xuất, kinh doanh lâm nghiệp; và một số hỗ trợ ưu đãi khác (đất đai, hỗ trợ đầu tư, tín dụng ...). Tuy nhiên, những chính sách liên quan đến phát triển thị trường gỗ nội địa nói chung vẫn rời rạc, thiếu đồng bộ, nhiều chính sách có sự chồng chéo, thậm chí là mâu thuẫn nhau. Bên cạnh đó, có nhiều nội dung chính sách chưa có quy định đầy đủ về cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các đối tượng sản xuất kinh doanh khi tham gia thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản; thiếu cơ chế đặc thù để hỗ trợ tích tụ đất đai, vốn và tín dụng và ưu đãi đầu tư. Đặc biệt là chưa có chính sách riêng biệt, có giá trị thực thi cao để tạo ra bước đột phá phát triển ngành chế biến gỗ nói chung và thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản nói riêng. Nhóm chính sách về lưu thông vận chuyển gỗ và sản phẩm gỗ đã xác định được các thủ tục và hồ sơ cần thiết trong quá trình lưu thông, lưu kho bến bãi; chỉ rõ được quy định về việc xác minh gỗ đang lưu thông là hợp pháp, quy định cụ thể thời gian xác minh và trả kết quả. Chính sách đã tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý lâm sản trên thị trường. Tuy nhiên, các chính sách chưa có sự thống nhất cao trong nội dung quy định, còn sự chồng chéo nhau, khó khăn cho việc thực thi chính sách. Ngoài ra, 26 chính sách chưa có hướng dẫn cụ thể việc đổi mới trong quản lý lưu thông lâm sản. Trong phát triển thị trường lâm sản gỗ rừng trồng, thiếu chính sách hỗ trợ phát triển thương hiệu, chương trình xúc tiến thương mại cho các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ, đặc biệt thiếu hoạt động nghiên cứu phân tích và dự báo thị trường nội địa và quốc tế của các sản phẩm gỗ rừng trồng. Nhóm chính sách về thuế, phí trong sản xuất, kinh doanh gỗ và sản phẩm gỗ đã được ban hành, triển khai và đạt được nhiều thành quả trong việc khuyến khích phát triển lâm nghiệp. Tuy nhiên, các quy định về thuế suất, nhập khẩu lâm sản đã thay đổi liên tục và có sự chồng chéo nhau làm cho các doanh nghiệp và cơ quan thừa hành gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, bị động trong kế hoạch sản xuất kinh doanh. Một số chính sách hỗ trợ khác như chính sách đất đai trong trồng rừng nguyên liệu, chính sách thuế và phí sử dụng đất trồng rừng, chính sách đầu tư, tín dụng đã được quy định trong các luật và một số văn bản. Những chính sách này đã góp phần thúc đẩy các chủ rừng trồng rừng nói chung và trồng rừng sản xuất nguyên liệu nói riêng. Tuy nhiên, các chính sách này thường ưu tiên đối với các chủ đầu tư doanh nghiệp và công ty lâm nghiệp có nguồn gốc nhà nước và các hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số mà chưa có những hỗ trợ thực sự đầy đủ cho các đối tượng trồng rừng sản xuất khác. Với những khoảng trống chính sách nêu trên, đặt ra yêu cầu cấp thiết và căn cứ khoa học rõ ràng để xây dựng và ban hành một văn bản chính sách đặc thù để hỗ trợ phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản, nhằm thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu ngành lâm nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế 27 quốc tế hiện nay. IV. Dự báo về thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản 4.1. Dự báo tình hình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến năm 2020 và 2030 Dựa trên tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới và những tác động của chúng đến phát triển kinh tế của Việt Nam, cuối năm 2015, Trung tâm Thông tin và Dự báo Quốc gia (NCSEIF) đã xây dựng 03 kịch bản kinh tế Việt Nam đến năm 2020. Đó là kịch bản trung bình, kịch bản thấp và kịch bản cao. Trong đó, kịch bản trung bình, cũng là kịch bản chủ đạo, với nhiều khả năng xảy ra nhất. Trong đó, giả thiết tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục ổn định ở mức trung bình 4%. Đầu tư khu vực nhà nước được cải thiện hơn cả về tốc độ và hiệu quả và giữ vai trò điều tiết nền kinh tế. Điều hành chính sách có nhiều cải thiện, thủ tục pháp lý và môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện. Tốc độ tăng đầu tư trung bình giai đoạn tăng 7%. Mô hình kinh tế phần nào được chuyển đổi nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế tăng trưởng dựa vào vốn và nhập siêu. Hệ thống tài chính khá ổn định, điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ tương đối linh hoạt. Các hiệp ước quốc tế có hiệu lực, giúp đầu tư và xuất khẩu Việt Nam cải thiện hơn. Khi đó, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2016 - 2020 có thể đạt mức 6,67%, trong khi lạm phát duy trì ở mức thấp, khoảng 5%. 4.2. Dự báo tình hình phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản Qua nghiên cứu, đánh giá và phân tích các điều kiện phát triển kinh tế xã hội Việt Nam từ nay đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 cho thấy, tăng trưởng kinh tế toàn giai đoạn 2016 - 28 2020 có thể đạt mức 6,67%, trong khi lạm phát duy trì ở mức thấp, khoảng 5%. Các nguồn nguyên liệu gỗ và lâm sản cho chế biến luôn đảm bảo. Tuy nhiên, các loại gỗ tốt, quý hiếm phục vụ cho hoạt động chế biến đồ gỗ truyền thống, cao cấp của các làng nghề chế biến gỗ có khả năng giảm sút do chính sách đóng cửa rừng tự nhiên, hạn chế khai thác, xuất khẩu gỗ tròn, gỗ quý của nhiều nước trên thế giới, cũng như vậy sẽ kéo theo có sự hạn chế về nguồn cung. Mặt khác, do nhiều thị trường chính sách mới có hiệu lực tại các như Hoa Kỳ, EU, Ôxtrâylia... với những quy định ngày càng khắt khe hơn về việc sử dụng gỗ hợp pháp trong chế biến đồ gỗ, cùng với đó là các chính sách khuyến khích phát triển chế biến sản phẩm phục vụ thị trường nội địa nên nhiều doanh nghiệp chế biến, kinh doanh sản phẩm gỗ sẽ chuyển dần từ hoạt động chế biến đồ ngoại thất nhằm xuất khẩu sang chế biến đồ gỗ nội thất, vừa phục vụ thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa. Các hoạt động gây trồng, khai thác và chế biến lâm sản ngoài gỗ sẽ được đẩy mạnh một cách chủ động và dài hơi theo các chiến lược phát triển được hoạch định trước. Thông tin về sản phẩm, về cơ sở, doanh nghiệp chế biến gỗ cũng sẽ được rõ ràng, thông suốt và minh bạch hơn. Thị hiếu của người tiêu dùng cũng ngày càng rõ ràng hơn. Và quan trọng hơn cả là do sự có mặt của các doanh nghiệp nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thị hiếu thị trường sản phẩm gỗ nội địa có thể sẽ được một số doanh nghiệp chế biến lớn cả trong và ngoài nước, chú trọng nghiên cứu và định hướng phát triển theo hướng ưu tiên sử dụng gỗ rừng trồng trong nước và trình độ công nghệ chế biến hiện có. Theo sự phát triển này thị trường nội địa sẽ khá sôi động. Cơ cấu sản phẩm gỗ và lâm sản sẽ có những sự thay đổi rõ nét. Hệ thống phân phối, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm cũng có sự phát triển theo hướng tích cực nhờ sự đầu tư của các nước trong khu vực, 29 của các doanh nghiệp và sự mở cửa thị trường bán lẻ nói chung của Chính phủ Việt Nam. V. Đánh giá chung về thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản 5.1. Một số tồn tại, hạn chế - Các sản phẩm gỗ và lâm sản vẫn chỉ được sản xuất, chế biến hướng vào thị trường xuất khẩu là chủ yếu, chưa có nhiều doanh nghiệp chú ý đến thị trường nội địa nên thị trường này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng cả về chuỗi cung ứng, mạng lưới tiêu thụ, kênh phân phối sản phẩm... lẫn số lượng và chất lượng các thành tố tham gia vào thị trường. - Hệ thống phân phối sản phẩm, các kênh phân phối sản phẩm... hầu hết là tự phát nên vừa nhỏ, lẻ, vừa không hiệu quả và khó kiểm soát, quản lý để hình thành một thị trường ổn định và có tính định hướng. - Có quá nhiều doanh nghiệp, cơ sở tham gia vào thị trường, nhưng số lượng doanh nghiệp cơ sở chuyên nghiệp và có quy mô lớn lại không nhiều. Thị trường mang nặng về tự sản, tự tiêu, nhất là đối với các loại lâm sản ngoài gỗ. Tính chuyên nghiệp của các doanh nghiệp tham gia vào thị trường không cao. - Thông tin về thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản vừa thiếu, vừa yếu, nhất là các thông tin về sản phẩm, thị hiếu của người tiêu dùng và các thông tin dự báo thị trường khiến cho năng lực của doanh nghiệp sản xuất, chế biến khó thỏa mãn nhu cầu thị trường. Cơ cấu và thiết kế sản phẩm chưa thật sự hợp lý và linh hoạt theo biến đổi của thị hiếu người tiêu dùng. - Các kênh và hình thức tiêu thụ sản phẩm vẫn chủ yếu là truyền thống. Thiếu vắng các kênh, hình thức tiêu thụ sản phẩm hiện đại, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của xã hội. 30 - Các phân khúc thị trường chưa được hình thành một cách rõ ràng và ổn định. - Thị hiếu của thị trường chưa rõ ràng, chưa được định hướng. Người tiêu dùng vẫn sử dụng sản phẩm theo tâm lý đám đông. - Chuỗi cung ứng sản phẩm chưa phát triển. Hệ thống bán lẻ quá manh mún và thiếu cả cơ sở hạ tầng cũng như công nghệ thương mại. - Hệ thống xúc tiến thương mại ở mọi cấp độ đều vừa thiếu vừa yếu, lại vừa không được chú ý đầu tư, cải thiện. - Thiếu các cơ chế chính sách chung, cũng như đặc thù, nhất là các chính sách phát triển rừng trồng gỗ lớn để phát triển thị trường nội địa tương xứng tiềm năng của ngành. 5.2. Một số nguyên nhân chủ yếu - Các doanh nghiệp sản xuất, chế biến có quy mô nhỏ, thiếu vốn và hoạt động tự phát nên chưa có chiến lược phát triển, nhất là chiến lược phát triển thị trường nội địa. - Thị trường nội địa vừa có khối lượng sản phẩm theo mỗi đơn hàng nhỏ, lại vừa không được ưu đãi về thuế, cũng như các chính sách hỗ trợ khác (xúc tiến thương mại, đầu tư cơ sở hạ tầng...) so với xuất khẩu. - Việc nghiên cứu, thiết kế mẫu mã sản phẩm đồ gỗ chưa đủ năng lực thiết kế sản phẩm phù hợp với thị hiếu thị trường hiện tại và định hướng phát triển thị trường trong tương lai. - Số lượng các doanh nghiệp chuyên về phân phối tiêu thụ sản phẩm gỗ và lâm sản trên thị trường chưa nhiều và hầu hết lại có quy mô nhỏ, nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực trong quản trị doanh nghiệp và phát triển thị trường còn hạn chế nên tính chuyên nghiệp chưa cao. - Chưa có các nghiên cứu cơ bản và thường xuyên về thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản. 31 - Chưa hình thành được các trung tâm thông tin thị trường nhằm kết nối doanh nghiệp sản xuất, chế biến với doanh nghiệp phân phối sản phẩn và người tiêu dùng. - Các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh sản phẩm gỗ và lâm sản, cũng như các cơ quan có trách nhiệm của nhà nước chưa hoặch định được các chiến lược trung, dài hạn trong việc phát triển thị trường nội địa cả về điều kiện xúc tiến thương mại, xây dựng cơ sở hạ tầng lẫn đào tạo, chuyển giao công nghệ thương mại sản phẩm gỗ và lâm sản trên thị trường này. - Vai trò hỗ trợ của Nhà nước chưa cao, nhất là trong việc hoạch định các chính sách và hỗ trợ phát triển thị trường, đào tạo nguồn nhân lực,... Trong đó, chưa hình thành một chính sách đặc thù để hỗ trợ phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản toàn quốc. VI. Một số giải pháp phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản 6.1. Mục tiêu và những nguyên tắc định hướng trong phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản Phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản cần hướng đến các mục tiêu tổng quát là: Phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản tương xứng với tiềm năng hiện có nhằm nâng cao giá trị sản xuất, kinh doanh rừng trồng và phát triển lâm nghiệp bền vững, gắn kết theo chuỗi giá trị từ trồng rừng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm để nâng cao giá trị lâm sản hàng hóa, góp phần thực hiện thành công đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp. Trong thời gian từ nay đến năm 2020 cần đạt được một số mục tiêu cụ thể như: (i) Xây dựng hệ thống kênh phân phối và các hình thức phân phối sản phẩm hiện đại cho thị trường sản phẩm gỗ và lâm sản nội địa trong cả nước. Đến năm 2020, 32 xây dựng được mạng lưới phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản phù hợp ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, (ii) Tạo tiền đề xây dựng mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến sản phẩm gỗ và lâm sản với các doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ trên thị trường cả nước. Đến năm 2020 có được ít nhất 03 mô hình liên kết các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm điển hình, và (iii) Xây dựng được cơ chế khuyến khích phát triển thị trường nội địa, đẩy mạnh hỗ trợ xúc tiến thương mại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gỗ rừng trồng trong nước, góp phần nâng tổng kim ngạch tiêu dùng nội địa sản phẩm gỗ và lâm sản lên trên 4 tỷ USD vào năm 2020. Để đạt được các mục tiêu nêu trên, việc phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản nên dựa vào các nguyên tắc định hướng sau: - Phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh gỗ và lâm sản, người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận các kênh thị trường trong nước, giảm chi phí trung gian. Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ và lâm sản Việt Nam trên thị trường nội địa trong quá trình hội nhập. - Phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản nhằm kích thích chế biến và tiêu thụ gỗ rừng trồng trong nước, tạo ra động lực để phát triển bền vững khu vực này. - Tạo điều kiện để khu vực mua sắm, đầu tư công tiếp cận các sản phẩm chế biến gỗ rừng trồng trong nước. 6.2. Các nội dung phát triển thị trường nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sảnViệt Nam 33 6.2.1. Xây dựng các chương trình phát triển thị trường nội địa sản phẩm gỗ và lâm sản - Phát triển và đẩy mạnh đa dạng hóa các kênh phân phối sản phẩm. Tạo dựng được mạng lưới phân phối sản phẩm hoạt động có hiệu quả trong phạm vi cả nước. Đẩy mạnh việc xây dựng các kênh phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản hiện đại, kết hợp với duy trì, ổn định và nâng cao năng lực hoạt động của các kênh phân phối sản phẩm truyền thống. Kết hợp hài hòa giữa hệ thống bán buôn và bán lẻ sản phẩm ở tất cả các cấp độ thị trường. - Nghiên cứu và xây dựng mối liên kết, kết nối các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản với các doanh nghiệp trong khâu phân phối và tiêu thụ sản phẩm và khách hàng. Trước mắt xây dựng một số mô hình liên kết thí điểm với những mặt hàng quan trọng, chủ lực trên thị trường nội địa như đồ gỗ nội thất, đồ gỗ mỹ nghệ... tại các địa phương có thị phần lớn của sản phẩm gỗ và lâm sản như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,... - Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách mua sắm công, hướng đến mục tiêu ưu tiên sử dụng các sản phẩm đồ gỗ chế biến từ gỗ rừng trồng trong nước trong mua sắm công. - Xây dựng và ban hành kế hoạch hằng năm, chương trình trung và dài hạn phát triển thị trường nội địa sản phẩm gỗ và lâm sản. Nội dung này cần được coi như là một nội dung tổng thể, quan trọng nhất nhằm tạo ra động lực chung (vốn, nguồn vốn,) cho việc phát triển thị trường nội địa. Trong đó, bao gồm các nội dung nhỏ như xây dựng, đa dạng hóa các kênh và hình thức phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản trên thị trường nội địa vốn đã không được chú ý từ nhiều năm nay; Xây dựng được các mối liên 34 kết từ sản xuất đến tiêu dùng theo chuỗi theo định hướng của Bộ Nông nghiệp và PTNT, nhất là mối liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ gỗ rừng trồng; đặt ra vấn đề sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách mua sắm công nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, cũng như phù hợp với xu thế chung của thế giới, của các Hiệp định FTA mà Việt Nam đã ký kết, tham gia. Nội dung này hướng đến việc khắc phục khó khăn, hạn chế được đề ra ở phần trên. Đó là việc: (i) Các sản phẩm gỗ và lâm sản vẫn chỉ được sản xuất, chế biến hướng vào thị trường xuất khẩu là chủ yếu, chưa có nhiều doanh nghiệp chú ý đến thị trường nội địa nên thị trường này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng cả về mạng lưới tiêu thụ, kênh phân phối sản phẩm... lẫn số lượng và chất lượng các thành tố tham gia vào thị trường; (ii) Hệ thống phân phối sản phẩm, các kênh phân phối sản phẩm, ... hầu hết là tự phát nên vừa nhỏ, lẻ, vừa không hiệu quả và khó kiểm soát, quản lý để hình thành một thị trường ổn định và có tính định hướng”. Đồng thời, giải pháp này cũng phần nào đáp ứng được yêu cầu của Chính phủ Việt Nam hiện nay là cải thiện, mở rộng chính sách mua sắm công đối với sản phẩm gỗ nhằm phát huy thế mạnh về chế biến gỗ rừng trồng phục vụ tiêu dùng nội địa. 6.2.2. Phát triển các trung tâm triển lãm và giới thiệu sản phẩm Cho đến nay, nhìn chung các hội chợ, triển lãm đồ gỗ và lâm sản trên thị trường nội địa hiện nay đều mang tính tự phát, địa phương, mạnh ai nấy làm, có kinh phí thì làm, thiếu tiền thì bỏ không làm nữa, năm nay chưa làm thì sang năm tới sẽ làm... chưa có tính hệ thống và quan trọng hơn là chưa có tác dụng định hướng thị trường, chưa tạo ra thị hiếu lành mạnh cho người tiêu 35 dùng. Cho đến nay, cũng chỉ mới có hội chợ VIPA HOME của Hội thủ công mỹ nghệ thành phố Hồ Chí Minh (HAWA) là quan tâm đến thị trường đồ gỗ nội địa được làm thường xuyên, nhưng cũng chỉ mới thực hiện được khoảng 3 năm gần đây. Chính vì vậy, nhằm khắc phục hạn chế thứ tư và thứ năm đã được chỉ ra trong mục 5.1 và 5.2 rất cần phải phát triển các trung tâm triển lãm và giới thiệu sản phẩm gỗ và lâm sản trên phạm vi cả nước. Trước mắt, trọng tâm của vấn đề này là: - Xây dựng đồng bộ một hệ thống để “tiến tới xây dựng đồng bộ các trung tâm triển lãm và giới thiệu sản phẩm trong cả nước và xuyên suốt thời gian trong năm nhằm quảng bá, đưa thông tin sản phẩm đến đông đảo người tiêu dùng”. Có một hệ thống triển lãm và giới thiệu sản phẩm lâm sản đồng bộ và xuyên suất thời gian trong năm là ý tưởng mới quan trọng và cần thiết để đưa thông tin sản phẩm đến người tiêu dùng, góp phần định hướng thị trường và xây dựng thị hiếu cho người tiêu dùng. Việc xây dựng một, hai, thậm chí là ba, bốn trung tâm triển lãm, giới thiệu sản phẩm có thể không có ý nghĩa gì, song xây dựng được cả một hệ thống trải dài trong không gian cả nước và kéo dài (xen kẽ nhau) trong thời gian suốt cả năm lại là một vấn đề rất có ý nghĩa đối với cả người tiêu dùng và doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ lâm sản. - Và quan trọng hơn là: Khi đã hình thành, đi vào hoạt động ổn định các trung tâm này sẽ dần chuyển thành các chuỗi siêu thị đồ gỗ đồng bộ trên cả nước tạo ra một kênh tiêu thụ sản phẩm gỗ hiện đại, đồng bộ và hiệu quả, kết nối các doanh nghiệp trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị đồ gỗ và lâm sản với thị trường”. Đây chính là những chuỗi cung ứng sản phẩm, kênh thị trường 36 hiện đại, đồng bộ khiến cho thị trường nội địa lâm sản phát triển bền vững trong tương lai. 6.2.3. Xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại Hiện tại, hầu như chưa có một chương trình trình xúc tiến thương mại đồ gỗ và lâm sản nào mang tầm quốc gia, hoặc có hệ thống ở tầm địa phương được hoạch định và thực hiện cho thị trường nội địa, kể cả các chương trình xúc tiến thương mại trung hạn lẫn dài hạn. Do vậy, hoạch định và đưa vào thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại tạo ra động lực quan trọng để phát triển thị trường này. Điều này cũng tạo ra cơ sở để các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ lâm sản có thêm nguồn lực, hoạch định và thực thi chiến lược phát triển của mình hướng đến thị trường nội địa, thay vì vẫn chỉ sản xuất dành cho xuất khẩu như hiện nay. Điểm mới là các chương trình xúc tiến thương mại thị trường nội địa gỗ và lâm sản cần được xây dựng ở tất cả các cấp độ chứ không phải chi chăm chú xây dựng ở Bộ Nông nghiệp và PTNT hay Bộ Công Thương, không phải là chỉ xây dựng các kế hoạch hoạt động trong năm mà là việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại đặc thù cho sản phẩm cả trung và dài hạn. Các chương trình xúc tiến thương mại này cần hướng đến việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại của mình. Các chương trình xúc tiến thương mại cần được xây dựng ở cả cấp độ kế hoạch hằng năm, trung hạn và dài hạn nhằm chủ động các hoạt động và nguồn vốn cho các hoạt động này. Các chương trình xúc tiến thương mại này được xây dựng ở cả cấp độ quốc gia, địa phương và trong mỗi doanh nghiệp cụ thể nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong một hệ thống phát triển thị trường. 37 6.2.4. Xây dựng thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp Xây dựng thương hiệu cho nông sản nói chung và cho lâm sản nói riêng đang là một định hướng ưu tiên của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Thực tế cho thấy, sản phẩm hàng hóa luôn có sức cạnh tranh cao trên thị trường khi có thương hiệu. Thương hiệu càng nổi tiếng, càng dễ tiêu thụ. Các kết quả điều tra cho thấy, lâm sản, cũng như đồ gỗ của các doanh nghiệp nội địa thời gian qua thường yếu thế, kém cạnh tranh hơn so với hàng ngoại nhập không chỉ vì chất lượng mà phần lớn là vì thương hiệu, xuất xứ sản phẩm (có đôi phần là từ mẫu mã thiết kế). Người tiêu dùng trong nước vẫn chuộng hàng ngoại với những tên tuổi nổi tiếng hơn so với hàng nội địa. Ngay cả với đồ gỗ truyền thống thì sản phẩm mang xuất xứ từ những làng nghề nổi tiếng như Đồng Kỵ, La Xuyên, cũng có sức hút cao hơn, giá bán cao hơn và dễ tiêu thụ hơn sản phẩm cùng loại của các làng nghề khác. Do vậy xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, cho doanh nghiệp cần là một nội dung trong phát triển thị trường đồ gỗ và lâm sản nội địa. Việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm gỗ và lâm sản cần hướng đến các nội dung sau: - Nhà nước hỗ trợ các hoạt động xây dựng thương hiệu sản phẩm, xây dựng thương hiệu doanh nghiệp cho những sản phẩm chủ lực, các doanh nghiệp có thị phần lớn và quan trọng, nhất là các sản phẩm, doanh nghiệp chế biến gỗ rừng trồng trong nước trên thị trường nội địa nhằm tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm này, góp phần hoàn thiện hệ thống thị trường nội địa theo hướng “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”. - Hoạt động xây dựng thương hiệu cần phải được coi như một hoạt động quan trọng trong phát triển thị trường nội địa gỗ và lâm sản. Hoạt động này góp phần cải thiện hoạt động mua sắm công 38 đối với sản phẩm gỗ và lâm sản sản xuất trong nước, sản phẩm chế biến gỗ rừng trồng, Đồng thời, phải được coi là một biện pháp quan trọng trong quảng bá sản phẩm trên thị trường nội địa. - Trước mắt nên chọn một số sản phẩm có ưu thế và 1 - 2 doanh nghiệp có thị phần lớn trên thị trường nội địa để tập trung nguồn lực xây dựng chỉ dẫn địa lý hoặc thương hiệu, đồng thời, rút kinh nghiệm xây dựng cho những sản phẩm và doanh nghiệp khác. 6.2.5. Xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu về sản phẩm của các doanh nghiệp, cơ sở và làng nghề chế biến gỗ và lâm sản - Xây dựng hệ thống các trung tâm thông tin sản phẩm, thông tin doanh nghiệp chế biến, kinh doanh sản phẩm gỗ và lâm sản, cũng như hệ thống, mạng lưới phân sản phẩm trên thị trường nội địa. - Xây dựng mới và đẩy mạnh hoạt động của các trang thông tin điện tử chuyên ngành, các chợ điện tử sản phẩm gỗ là lâm sản trên thị trường nội địa. - Hỗ trợ phổ biến nhận thức, cung cấp thông tin về các chính sách, thông tin về thị trường và năng lực các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh gỗ, lâm sản ở Việt Nam, thông qua các hình thức như: Tổ chức hội thảo, xuất bản các bản tin, ấn phẩm và quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng khác. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ tạo ra một kênh thông tin có khả năng kết nối người sản xuất với người tiêu dùng; kết nối giữa doanh nghiệp chế biến với doanh nghiệp thương mại và với người sử dụng sản phẩm. Kênh thông tin này vừa góp phần vào việc sản xuất ra cái thị trường cần chứ không phải bán ra thị trường cái mà doanh nghiệp có. Đồng thời, đây cũng là biện pháp góp phần định hướng thị trường và tạo ra thị hiếu cho người tiêu dùng phù hợp 39 với nguyên liệu và năng lực của ngành chế biến đồ gỗ và lâm sản của cả nước, tạo ra hiệu quả cao trong sử dụng gỗ rừng trồng trong nước. Nói cách khác, đây chính là giải pháp nhằm kết nối doanh nghiệp chế biến sản phẩm gỗ và lâm sản với thị trường, hướng việc sản xuất của họ vào các tín hiệu của thị trường tiêu thụ, cải thiện cách phân phối, tiêu thụ sản phẩm một cách tự phát, tự cung, tự cấp như hiện nay. 6.2.6. Phát triển nguồn nhân lực Phát triển nguồn nhân lực trong chế biến và kinh doanh sản phẩm gỗ và lâm sản trong hoàn cảnh thị trường nội địa chưa phát triển như hiện nay cần hướng vào các nhiệm vụ sau: - Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực thương mại cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường nội địa sản phẩm gỗ và lâm sản tạo ra một đội ngũ có tính chuyên nghiệp cao trong mọi hoạt động thị trường. - Triển khai các hoạt động năng cao năng lực quản trị doanh nghiệp trong chuỗi giá trị sản phẩm gỗ và lâm sản, nhất là các doanh nghiệp trong khâu phân phối và tiêu thụ sản phẩm. - Nghiên cứu đưa vào các kỹ năng, hoạt động thương mại vào chương trình giảng dạy của các khoa chế biến gỗ và lâm sản trong các trường lâm nghiệp ở các cấp học như cao đẳng, đại học và dạy nghề. - Triển khai các hoạt động thiết kế mẫu mã sản phẩm phù hợp thị hiếu thị trường. - Coi trọng hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực trong phát triển thị trường nội địa. 40 - Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp phân phối sản phẩm chuyên nghiệp, có trình độ tham gia vào thị trường gỗ và lâm sản nội địa. 6.2.7. Xây dựng các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) trên thị trường nội địa Việt Nam ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng. Điều này đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều cơ hội cho các sản phẩm gỗ nước ngoài xâm nhập vào thị trường nước ta. Các sản phẩm này ngoài các thế mạnh về thương hiệu, về hệ thống cung cấp, phân phối sản phẩm còn rất nhanh chóng thay đổi mẫu mã, thiết kế sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu từng phân khúc người tiêu dùng trong nước. Chính vì vây, việc xây dựng các hàng rào kỹ thuật trong thương mại nhằm tạo ra một sự cạnh tranh công bằng không những đối với sản phẩm nhập ngoại mà còn cả đối với những doanh nghiệp chế biến đồ gỗ và lâm sản trong nước. Các doanh nghiệp bắt buộc phải cạnh tranh với nhau bằng chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ và giá thành sản phẩm. Kết quả là giá của sản phẩm sẽ có điều kiện giảm xuống, các dịch vụ và chất lượng có cơ hội tốt hơn. Thị trường sẽ được điều chỉnh theo hướng phát triển bền vững, không phân biệt nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, nhưng đem lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng. Xây dựng hàng rào kỹ thuật trong thương mại nhằm: - Đẩy mạnh việc xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật ở các cấp độ đối với các sản phẩm gỗ và lâm sản tham gia vào thị trường nội địa. - Trước mắt chú trọng xây dựng các tiêu chuẩn cho những sản phẩm chủ lực, có thị phần lớn trên thị trường nội địa và xây dựng quy chuẩn kỹ thuật cho những sản phẩm có ảnh hưởng tới người tiêu dùng đối với nhóm sản phẩm hàng hóa nhóm II lĩnh vực lâm 41 nghiệp thuộc nhóm hóa chất, phụ gia trong chế biến lâm sản đối với ngưỡng an toàn về môi trường như sơn, véc ni, keo dán gỗ, thuốc bảo quản lâm sản đặc biệt là ngưỡng phát thải formaldehyt đối với các loại ván gỗ nhân tạo (ván dăm, ván sợi, ván ghép thanh, gỗ dán,..), sản phẩm sản xuất từ các loại ván gỗ nhân tạo, - Nghiên cứu, xây dựng các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) khác nhằm thực hiện bảo hộ sản xuất, chế biến sản phẩm gỗ và lâm sản trong nước, giảm áp lực cạnh tranh của các sản phẩm ngoại nhập. - Mở rộng phạm vi sử dụng sản phẩm gỗ và lâm sản chế biến từ rừng trồng trong nước đối với các hoạt động mua sắm công. 6.3. Các giải pháp thực hiện 6.3.1. Giải pháp về quy hoạch Triển khai xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống thương mại nội địa các sản phẩm gỗ và lâm sản, trong đó chú trọng quy hoạch các kênh phân phối sản phẩm phù hợp với điều kiện từng vùng, từng địa phương, gắn hoạt động của các doanh nghiệp chế biến sản phẩm gỗ và lâm sản với các doanh nghiệp kinh doanh và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Quy hoạch này phải dựa trên Đề án tổ chức lại thị trường trong nước và thị trường biên mậu và Chương trình tổng thể phát triển thị trường trong nước giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 được xây dựng và phê duyệt theo yêu cầu của Nghị quyết 35/2016/NQ-CP ngày 16/5/2016 nhằm phát huy hiệu quả của cơ sở vật chất chung và sự hỗ trợ của nhà nước đối với thị trường nội địa nói chung. Xây dựng quy hoạch định hướng phát triển hệ thống các trung tâm triển lãm, giới thiệu sản phẩm gỗ và lâm sản ở các vùng trọng 42 điểm, thực hiện xây dựng đồng bộ các trung tâm triển lãm và giới thiệu sản phẩm một cách đồng bộ trong cả nước và xuyên suốt thời gian trong năm nhằm quảng bá, đưa thông tin sản phẩm đến đông đảo người tiêu dùng. Triển khai các hoạt động, chế tài đưa quy hoạch đã xây dựng vào thực tiễn hoạt động thương mại ở mọi cấp độ. 6.3.2. Giải pháp về chính sách a. Hoàn thiện và bổ sung chính sách đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng thương mại Kết cấu hạ tầng thương mại nói chung, hạ tầng thương mại sản phẩm gỗ và lâm sản nói riêng còn rất thiếu và yếu. Trên thị trường, nhất là thị trường nông thôn hiện nay vẫn tồn tại phổ biến các loại hình bán lẻ truyền thống (chợ, cửa hàng tư nhân), loại hình cửa hàng tự chọn chỉ chiếm khoảng 3,0% và siêu thị mới chỉ chiếm dưới 2,0% số lượng cơ sở bán lẻ. Hơn nữa, quy mô của các cửa hàng bán lẻ phổ biến là hộ gia đình, sử dụng ít lao động và thiếu tính chuyên nghiệp. Chợ ở địa bàn nông thôn phân bố không đều, nhất là tại địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người còn rất thưa thớt. Phần lớn chợ có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật lạc hậu, nghèo nàn, hoạt động không hiệu quả. Hơn thế nữa, ngoài một số địa phương phát triển, đã xuất hiện những khu chợ đồ gỗ thì đa phần sản phẩm gỗ và lâm sản thường được mua bán tại cơ sở, nhà sản xuất, thông qua sự quen biết hoặc truyền tai nhau. Việc sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ phát triển hạ tầng thương mại ở địa bàn nông thôn nói chung, hạ tầng thương mại cho sản phẩm gỗ và lâm sản nói riêng là rất cần thiết, theo đó: - Nhà nước cần có các hướng dẫn cụ thể để các dự án đầu tư hạ tầng thương mại chủ yếu (kho, trung tâm logistic), chợ nông thôn, 43 trung tâm hội chợ trong danh mục được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định tại Nghị định 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư. - Cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại ở nông thôn được hưởng các chính sách khuyến khích đầu tư như các dự án về nông nghiệp theo Nghị định 210/2010/NĐ-CP về chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. - Áp dụng chính sách giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp mở rộng cơ sở kinh doanh trực thuộc ở địa bàn nông thôn hoặc sử dụng các hợp tác xã (HTX), hộ kinh doanh (ở mức độ nhất định) trên địa bàn nông thôn làm đại lý mua hàng hóa gỗ và lâm sản, nhất là các sản phẩm gỗ và lâm sản đã qua chế biến. Mức giảm thuế nhiều hay ít tuỳ thuộc vào số cơ sở kinh doanh tăng thêm, số hợp tác xã và hộ kinh doanh tham gia vào hệ thống phân phối của doanh nghiệp với tư cách đại lý. - Hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh, là đại lý mua, bán sản phẩm gỗ và lâm sản của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, HTX, Liên hiệp HTX... được xem xét giảm thuế thu nhập cá nhân hằng năm. Mức giảm cụ thể căn cứ vào số lượng hàng nông sản được tiêu thụ và số vật tư cung ứng cho nông dân (có chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã). - Nghiên cứu và ban hành mức thu thuế VAT đối với cá doanh nghiệp và sản phẩm tham gia thị trường nội địa tương ứng với mức thuế VAT áp dụng cho hàng xuất khẩu. Một nghịch lý khiến cho thị trường nội địa các sản phẩm gỗ chế biến khó có thể phát triển được mạnh mẽ là trong khi các đơn hàng trên thị trường này hầu hết lại nhỏ hơn các đơn hàng xuất khẩu; các doanh nghiệp thường phải thay đổi thiết kế, quy trình chế biến cho phù hợp,... 44 nên chi phí sản xuất thường cao lại còn phải chịu thuế VAT từ 5% trở lên. Ngược lại các doanh nghiệp và sản phẩm gỗ xuất khẩu mặc dù có khối lượng hàng hóa xuất khẩu lớn, dễ sản xuất hàng loạt khiến cho chi phí sản xuất thấp lại không phải chịu thuế VAT. Chính vì vậy, việc đưa ra các mức thuế VAT phù hợp giữa sản phẩm gỗ chế biến tham gia vào thị trường trong và ngoài nước sẽ có tác dụng quan trọng trong phát triển thị trường nội địa đối với nhóm sản phẩm này. b. Ứng dụng thương mại điện tử để thu thập và sử dụng có hiệu quả các nguồn thông tin thị trường Bối cảnh quốc tế và trong nước đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với hoạt động tư vấn và cung cấp thông tin thị trường, cả về sự đa dạng của nguồn tin lẫn nội dung và hình thức, cả về loại hình và nội dung của lượng thông tin cần tư vấn và cung cấp cho doanh nghiệp. Trong điều kiện Việt Nam, các phương pháp tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin thị trường theo kiểu truyền thống (sử dụng chuyên gia, sách báo, hồ sơ lưu trữ, điện thoại, hội nghị, hội thảo...) sẽ vẫn tồn tại song song với việc sử dụng những phương tiện, công cụ hiện đại như: Đĩa CD-ROM, máy tính nối mạng, hệ thống truyền thông đa phương tiện... Các loại thẻ tín dụng, thẻ nợ, thẻ thông minh đang mở ra khả năng để áp dụng các phương thức cung cấp thông tin và thanh toán chi phí mới, tiện dụng. Thương mại điện tử giúp cho doanh nghiệp thu được nguồn thông tin thị trường phong phú, cập nhật và giảm chi phí thu thập thông tin. Để tận dụng có hiệu quả sự hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp cần có giải pháp tích cực hoàn thiện kết cấu hạ tầng thông tin, sử dụng các chương trình phần mềm hệ thống thích hợp với hoạt động của doanh nghiệp, hoàn thiện và đào tạo đội ngũ làm thông tin để tận dụng được sự hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra 45 mạng Internet và dịch vụ cung cấp thông tin qua mạng là các nguồn thông tin thị trường trợ giúp tìm kiếm thông tin với tốc độ cao. Để có thể khai thác nguồn thông tin này có hiệu quả, các doanh nghiệp cần có những cán bộ khai thác thông tin thị trường am hiểu về kỹ thuật khai thác tin và nhanh nhạy trước phản ứng của thị trường. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hỗ trợ tổ chức một số hội chợ cấp miền, cấp vùng cho những nhóm ngành hàng của doanh nghiệp sản xuất trong nước cần tiêu thụ. Cần kết nối hệ thống phân phối trên toàn quốc để tổ chức tiêu thụ sản phẩm gỗ và lâm sản theo các hoạt động như “Tuần bán hàng Việt Nam”, “Tháng bán hàng Việt Nam” có thưởng, có khuyến mãi... tạo thành một sự kiện chung có quy mô toàn quốc thay vì từng doanh nghiệp phải quảng cáo khuyến mại. c. Thực thi các chương trình khai thác thị trường nội địa - Cần sớm ban hành, cũng như việc thực thi hệ thống luật liên quan tới bán lẻ. Bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện có để hướng dẫn kinh doanh bán lẻ phát triển lành mạnh và làm cơ sở để các cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm soát thị trường. - Có định chế tài chính, tín dụng, chính sách đầu tư, đất đai và thuế thích hợp để hỗ trợ thực hiện quy hoạch xây dựng hạ tầng thương mại. - Chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện chính sách mua sắm công theo hướng mở rộng khả năng sử dụng các sản phẩm đồ gỗ sản xuất trong nước và từ rừng trồng khai thác trong nước. - Tổ chức tốt cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” đi vào chiều sâu, thực chất, đến với số đông người tiêu dùng, chú trong hơn nữa đối với sản phẩm gỗ và lâm sản trong cuộc vận động này. Hiệp hội Bán lẻ và Siêu thị phải làm đầu mối vận động các đơn vị hội viên nâng cao tỷ trọng hàng Việt Nam tại 46 các trung tâm bán lẻ và siêu thị, kết hợp với các biện pháp quảng cáo, khuyến mại phù hợp. 6.3.3. Hỗ trợ doanh nghiệp phân phối Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh và phát triển thị trường - Tăng cường đối thoại công tư về chính sách phát triển hệ thống phân phối và các biện pháp phát triển thị trường phân phối. - Tăng cường liên kết hợp tác giữa các nhà phân phối trong nước kể cả mua bán, sáp nhập để tạo sức mạnh tài chính đổi mới công nghệ; liên kết giữa nhà sản xuất, nhà phân phối để ổn định nguồn hàng và thị trường tiêu thụ. Khuyến khích hình thành 1.000 - 1.500 doanh nghiệp chuyên nghiệp có trình độ cao trong phân phối (bán buôn, bán lẻ) sản phẩm gỗ và lâm sản trên thị trường nội địa. - Hoàn thiện quy chế quản lý về quảng cáo, ngăn chặn tình trạng các công ty mẹ ở nước ngoài chi trả quảng cáo cho các công ty trong nước vượt quá định mức, tạo ra sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. 6.3.4. Giải pháp về khoa học công nghệ - Đẩy mạnh khai thác các hình thức thương mại điện tử trên thị trường nội địa. Khuyến khích và có hình thức hỗ trợ để các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh sản phẩm gỗ và lâm sản thực hiện ngày càng chủ động và mạnh mẽ các hính thức giao dịch điện tử và phân phối sản phẩm. Xây dựng các chế độ và công cụ bảo mật hiệu quả cho các giao dịch này. - Khẩn trương xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp cho từng loại sản phẩm, nhất là các hàng rào kỹ thuật 47 trong thương mại (TBT) để bảo hộ sản phảm trong nước, sản phẩm của các làng nghề. - Triển khai các hoạt động thực thi các bộ luật liên quan như luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật Đặc biệt, chú trọng khâu hướng dẫn thực thi các luật này đối với các doanh nghiệp chế biến, kinh doanh sản phẩm quy mô nhỏ và vừa, nhất là việc xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn cơ sở về sản phẩm lưu thông trên thị trường nội địa. - Hỗ trợ và phát triển hệ thống xây dựng thương hiệu sản phẩm, chỉ dẫn địa lý hoặc tên gọi xuất xứ Trước mắt, tập trung thực hiện đối với các sản phẩm là đặc sản hoặc mang đặc điểm riêng biệt của vùng, miền và của Việt Nam. Đồng thời, tổ chức nhiều hoạt động về thiết kế sản phẩm để ngày càng phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng hơn. - Tăng cường kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa lưu thông trên thị trường bảo đảm sự cạnh tranh công bằng giữa các loại sản phẩm hàng hóa tuân thủ pháp luật, có chất lượng phù hợp với các loại sản phẩm làm giả, làm nhái, hàng ngoại nhập - Chú trọng phát triển các chương trình nghiên cứu sử dụng các vật liệu thay thế nguồn nguyên liệu gỗ đang khan hiếm như nghiên cứu sử dụng tre ép khối; các phương pháp nâng cao chất lượng của gỗ nhóm 4, 5, 6; vật liệu hỗn hợp gỗ nhựa - Đẩy mạnh chương trình trồng rừng gỗ lớn tạo nguồn nguyên liệu bền vững cho chế biến gỗ và lâm sản, nhất là chế biến gỗ tại các làng nghề. 6.3.5. Về đào tạo nguồn nhân lực - Xây dựng các chương trình đào tạo và tổ chức đào tạo kỹ năng thương mại phù hợp với trình độ của các quy mô doanh nghiệp 48 chế biến, kinh doanh sản phẩm gỗ và lâm sản tham gia thị trường nội địa. Phấn đấu đến năm 2030 có đủ nhân lực trình độ cao tham gia vào hoạt động của 1.000 - 1500 doanh nghiệp phân phối sản phẩm chuyên nghiệp, có trình độ cao. - Hỗ trợ Hiệp hội trong việc tổ chức đào tạo các nhà phân phối nội địa, nhất là đào tạo các nhà phân phối nhỏ lẻ. - Triển khai mạnh mẽ việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật đến các doanh nghiệp, nhất là các quy định của pháp luật về sử dụng, kinh doanh gỗ hợp pháp, các quy định về chất lượng sản phẩm hàng hóa, quy định về quản lý thị trường, về lưu thông sản phẩm,.. trên thị trường nội địa. 6.3.6. Hợp tác quốc tế - Tạo điều kiện để các doanh nghiệp phân phối sản phẩm gỗ và lâm sản trong nước trao đổi, học tập kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng thương mại, kỹ năng phân phối sản phẩm và các kỹ năng khác trong thương mại truyền thống, cũng như thương mại điện tử. - Học tập kinh nghiệm phát triển thị trường nội địa của các nước trong khu vực như Thái Lan, Đài Loan - Hợp tác với các tổ chức quốc tế trong việc xây dựng và quảng bá thương hiệu, xây dựng các hàng rào kỹ thuật trong thương mại 49 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2014, Quyết định số 957/QĐ-BNN-TCLN ngày 08/5/2014, Phê duyệt Kế hoạch hành động phát triển thị trường gỗ và sản phẩm gỗ giai đoạn 2014-2020. 2. Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối, 2014, Báo cáo tổng hợp dự án điều tra thực trạng chế biến, bảo quản nông lâm thủy sản trong các loại hình tổ chức sản xuất. Phê duyệt tại Quyết định số 2298/QĐ-CB-NS ngày 30/12/2014. 3. Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối, 2014, Báo cáo kết quả điều tra làng nghề nông thôn năm 2013. 4. Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối, Các tài liệu quản lý nhà nước chuyên ngành chế biến, bảo quản, thương mại gỗ và sản phẩm gỗ. 5. Dũng, Nguyễn Mạnh, 2012, Xây dựng mô hình chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, Tạp chí Nông nghiệp và PTNT số 19/2012, trang 3-12. 6. Dũng, Nguyễn Mạnh, 2013, Định hướng và giải pháp phát triển bền vững ngành chế biến gỗ Việt Nam, Bản tin phục vụ Lãnh đạo số 5/2013. 7. Dũng, Nguyễn Mạnh, 2014, Nâng cao giá trị gia tăng của tre, luồng bằng các giải pháp chế biến công nghiệp, Bản tin phục vụ Lãnh đạo số 11/2014. 8. Dũng, Nguyễn Mạnh, Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chế biến gỗ. Cổng thông tin điện tử Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 50 9. Dự án “Điều tra, đánh giá thực trạng, đề xuất cơ chế chính sách phát triển thị trường nội địa về sản phẩm gỗ, lâm sản toàn quốc phục vụ tái cơ cấu ngành”, Tổng cục Lâm nghiệp, 2016. 10. Hải, Võ Đại, Thị trường lâm sản rừng trồng sản xuất tại các tỉnh miền núi phía Bắc và các chính sách để phát triển. 11. Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), MUTRAP activity code: NSO-5, Báo cáo nghiên cứu hỗ trợ Hiệp hội thực hiện nghiên cứu chiến lược phát triển ngành chế biến gỗ. 12. Phương, Nguyễn Thủy, Đại học Huế, 2013, Thực trạng thị trường lâm sản Việt Nam hiện nay. 13. Skodyrkerne, 2012, Khảo sát thị trường gỗ và lâm sản ngoài gỗ tại huyện Cao Phong và Đà Bắc-tỉnh Hòa Bình. 14. Viforest, Forest Trends, 2012, Làng nghề chế biến gỗ trong bối cảnh thực thi FLEGT và REDD+ tại Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfld_06_2018_1751_2207584.pdf
Tài liệu liên quan