Tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện nghiệp vụ Sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp cho sinh viên ngành giáo dục mầm non trường Cao đẳng Sơn La - Nguyễn Thị Hồng Vân: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 29-32; 23
29
Email: hongvancdsl@gmail.com
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ RÈN LUYỆN
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN
NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƠN LA
Nguyễn Thị Hồng Vân - Trường Cao đẳng Sơn La
Ngày nhận bài: 10/01/2019; ngày sửa chữa: 25/01/2019; ngày duyệt đăng: 06/02/2019.
Abstract: Teaching in preschool is a special job in the society, which requires teachers to have
professional competency about caring, nurturing and educating preschool children, and they also
have pedagogical competency. The pedagogical competency must be trained through teaching and
learning pedagogical profession at the pedagogical colleges. So it is necessary to train pedagogical
skills to improve the quality and effectiveness of training preschool teachers to meet the need of
society today. The article mentions some solutions to improve the effectiveness of pedagogical
skill training accord...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 418 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện nghiệp vụ Sư phạm theo chuẩn nghề nghiệp cho sinh viên ngành giáo dục mầm non trường Cao đẳng Sơn La - Nguyễn Thị Hồng Vân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 29-32; 23
29
Email: hongvancdsl@gmail.com
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ RÈN LUYỆN
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN
NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƠN LA
Nguyễn Thị Hồng Vân - Trường Cao đẳng Sơn La
Ngày nhận bài: 10/01/2019; ngày sửa chữa: 25/01/2019; ngày duyệt đăng: 06/02/2019.
Abstract: Teaching in preschool is a special job in the society, which requires teachers to have
professional competency about caring, nurturing and educating preschool children, and they also
have pedagogical competency. The pedagogical competency must be trained through teaching and
learning pedagogical profession at the pedagogical colleges. So it is necessary to train pedagogical
skills to improve the quality and effectiveness of training preschool teachers to meet the need of
society today. The article mentions some solutions to improve the effectiveness of pedagogical
skill training according to career standards for preschool education students at Son La College.
Keywords: Pedagogical skill training, vocational competence, improve, preschool education.
1. Mở đầu
Đối với mỗi sinh viên (SV), bên cạnh học các kiến
thức chuyên môn nghiệp vụ thì việc rèn luyện nghiệp vụ
sư phạm là một trong những yêu cầu cơ bản và quan
trọng. Bởi nghiệp vụ sư phạm cũng chính là một trong
những con đường, biện pháp để dạy học, để truyền tải
kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho SV; hướng dẫn SV
hoạt động tìm tòi, chiếm lĩnh, củng cố kiến thức và hình
thành các kĩ năng nghề nghiệp, kĩ năng sống. Hoạt động
rèn nghiệp vụ sư phạm trở thành điều kiện quan trọng để
rèn luyện kĩ năng sư phạm cho SV, là cầu nối giữa lí luận
đào tạo giáo viên mầm non với thực tiễn giáo dục mầm
non, góp phần thực hiện nhiệm vụ đào tạo đội ngũ giáo
viên mầm non có chất lượng cao đáp ứng những yêu cầu
của đổi mới giáo dục mầm non.
Do đó, trong quá trình đào tạo, bên cạnh việc trang bị
hệ thống tri thức cho SV, giảng viên (GV) cần hình thành
cho SV hệ thống kĩ năng nghề nghiệp thông qua hoạt
động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm để SV khi ra trường
đáp ứng năng lực của giáo viên mầm non ở các cơ sở
giáo dục mầm non. Bài viết đề cập một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo
năng lực nghề cho SV ngành Giáo dục mầm non, Trường
Cao đẳng Sơn La.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khách thể và phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu thực trạng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
theo năng lực nghề cho SV ngành Giáo dục mầm non,
Trường Cao đẳng Sơn La, chúng tôi tiến hành khảo sát
100 SV ngành Giáo dục mầm non, trong đó có 35 SV
năm thứ nhất, 35 SV năm thứ hai và 30 SV năm thứ ba
từ tháng 6/2017-6/2018 bằng nhiều phương pháp nghiên
cứu như: điều tra bằng bảng hỏi, quan sát, xử lí số liệu
bằng thống kê toán học.
2.2. Kết quả nghiên cứu
2.2.1. Thực trạng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo năng
lực nghề cho sinh viên ngành giáo dục mầm non, Trường
Cao đẳng Sơn La
2.2.1.1. Nhận thức của sinh viên về hoạt động rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm theo năng lực nghề
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, giáo dục ý thức, định
hướng nghề nghiệp cho SV ngay từ năm thứ nhất. Khi
đăng kí vào học chuyên ngành đào tạo giáo viên mầm
non của Trường Cao đẳng Sơn La, SV phải ý thức được
rằng bản thân cần học tập, rèn luyện để trở thành những
giáo viên mầm non trong tương lai. Bởi vậy, SV cần phải
chủ động, tự giác, tự học và tham gia các hoạt động về
nghiệp vụ sư phạm. Chính vì thế, việc định hướng cho
SV hiểu về nghề dạy học và hiểu rõ nội dung, chương
trình mà bản thân SV phải rèn luyện để trở thành những
giáo viên mầm non có năng lực sau này là điều hết sức
quan trọng và thiết thực.
Kết quả khảo sát cho thấy, đa số SV (chiếm 84%)
cho rằng công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là việc
rất cần thiết và quan trọng, không thể thiếu được trong
nhà trường, đặc biệt là ngành Giáo dục mầm non. Nhận
thức của SV năm thứ nhất, năm thứ 2 và năm thứ 3 có
sự khác nhau đáng kể (tỉ lệ lần lượt là 80,0%; 83,3% và
86,7%). SV hiểu rằng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm gắn
liền với nghề nghiệp của mình sau này. Đó cũng chính
là động lực thúc đẩy GV rèn nghiệp vụ sư phạm theo
năng lực nghề cho SV ngành Giáo dục mầm non để
nâng cao chất lượng giáo dục.
2.2.1.2. Mức độ rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo năng
lực nghề của sinh viên ngành Giáo dục mầm non
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 29-32; 23
30
Mức độ rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo năng lực
nghề của sinh viên ngành Giáo dục mầm non Trường Cao
đẳng Sơn La chỉ ở mức trung bình. Trong đó, nội dung
được đánh giá tốt nhất là kĩ năng làm đồ dùng dạy học và
làm đồ chơi cho trẻ (chiếm 75% khá và tốt); luyện tập các
bài hát, múa trong chương trình giáo dục mầm non (67%
khá và tốt); một số nội dung được đánh giá ở mức trung
bình như: rèn kĩ năng ghi chép, nhận xét, rút kinh nghiệm
khi dự giờ (55% khá và tốt); rèn luyện kĩ năng giao tiếp,
ứng xử với trẻ, phụ huynh, đồng nghiệp (52% khá và tốt);
tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều nội dung được đánh giá có
mức yếu (10-15%) như các hoạt động: soạn giáo án và tổ
chức hoạt động học có chủ đích theo hướng tích hợp chủ
đề; rèn kĩ năng nói và sửa lỗi phát âm; tham gia Hội thi
nghiệp vụ sư phạm cấp lớp, cấp khoa.
Khi được hỏi nguyên nhân vì sao kết quả rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm vẫn còn có những kĩ năng ở mức độ
yếu và trung bình thì SV cho biết đó là những SV chưa
chủ động khi học các môn học cung cấp kiến thức ngành
nghề cũng như không tự học và tự rèn luyện thì kết quả
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của SV đó vẫn không thể
tốt được. Mặt khác, cơ sở vật chất còn thiếu thốn và kinh
phí còn hạn hẹp, nên khó có thể đẩy mạnh, tăng cường
chất lượng tổ chức hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm cho SV ngành Giáo dục mầm non.
Thực tế ở Trường Cao đẳng Sơn La cho thấy có nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm cho SV ngành Giáo dục mầm non như: chất lượng
đầu vào thấp; phòng thực hành rèn nghề còn ít, đồ dùng
phục vụ cho hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của
SV còn thiếu. Mặt khác, SV chủ yếu là con em vùng
đồng bào dân tộc thiểu số nên còn thiếu tự tin chưa chủ
động trong rèn luyện nghiệp vụ chuyên môn.
2.2.1.3. Đánh giá ưu điểm và hạn chế của hoạt động
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo năng lực nghề cho
sinh viên ngành Giáo dục mầm non ở Trường Cao
đẳng Sơn La
* Ưu điểm
Trong những năm qua, công tác rèn luyện nghiệp vụ
sư phạm cho học sinh, SV ngành đào tạo giáo viên Mầm
non được Ban giám hiệu, các phòng ban, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, GV, đã chủ động, quan tâm
và đề ra kế hoạch, chương trình hàng năm.
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã tổ chức
các phong trào văn hóa, văn nghệ chào mừng các ngày lễ
lớn: 26/3, 8/3/, 20/11, các buổi giao lưu với các đơn vị
ngoài trường, thông qua đó rèn kĩ năng cho học sinh
SV về tổ chức, lập kế hoạch, giao tiếp, ứng xử, xử lí tình
huống
- Đa số học sinh, SV đều nhận thức được tầm quan
trọng của việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
- Các nội dung rèn kĩ năng được thực hiện theo một
tiến trình tốt.
- Đội ngũ GV có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy.
- Các địa điểm cho SV tham quan kiến tập và thực
tập sư phạm thuận lợi cho SV đi lại và có cơ sở vật chất
tương đối đầy đủ. Các trường Mầm non hàng năm đều
nhận SV về thực tập nên đã có nhiều kĩ năng trong
hướng dẫn SV thực tập. Nhà trường có kế hoạch,
chương trình rõ ràng về giảng dạy, truyền đạt, rèn luyện
các kĩ năng và tổ chức các hoạt động rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm cho SV.
* Hạn chế
- Một bộ phận không nhỏ SV chưa nhận thức được
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là nghề nghiệp chuyên
môn. Nhiều SV quan niệm rèn nghiệp vụ sư phạm chỉ là
phần thực hành chuyên môn nên trong quá trình rèn kĩ
năng nghề còn mang tính đối phó.
- Việc tổ chức hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm chỉ tập trung chủ yếu vào các môn khối kiến thức
chuyên ngành, chưa có sự kết hợp đồng bộ trong việc rèn
kĩ năng giữa khối kiến thức chung và khối kiến thức
chuyên ngành.
- Sự kết hợp giữa các lực lượng để tổ chức hoạt động
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho SV ngành Giáo dục
mầm non chưa cao và chưa đồng bộ.
- Số lượng SV tham gia không đáng kể trong hội thi
nghiệp vụ sư phạm.
- Các hoạt động ngoại khóa cho SV còn ít và đơn điệu.
- Một số GV chưa thực sự nhiệt tình, chưa nêu cao
tinh thần trách nhiệm khi rèn luyện các kĩ năng sư phạm
cho SV trong các giờ thực hành.
- Kinh phí hạn hẹp, chưa kích thích được tâm thế của
SV và những thành phần tham gia hoạt động rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm cho SV.
2.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo năng lực nghề cho
sinh viên ngành đào tạo giáo viên mầm non, Trường
Cao đẳng Sơn La
2.3.1. Lựa chọn nội dung rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
theo năng lực nghề cho sinh viên ngành đào tạo giáo viên
mầm non
Nội dung rèn nghiệp vụ sư phạm theo năng lực nghề
cho SV ngành đào tạo giáo viên mầm non, Trường Cao
đẳng Sơn La hiện nay được cụ thể hóa trong từng năm
học như sau:
* Đối với SV năm thứ nhất: tập trung vào rèn luyện
năng lực thiết kế môi trường và sử dụng thiết bị, đồ dùng
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 29-32; 23
31
dạy học; năng lực tổ chức hoạt động nuôi dưỡng và chăm
sóc trẻ mầm non.
* Đối với SV năm thứ hai: tập trung vào rèn năng
lực năng lực tổ chức hoạt động giáo dục tích hợp theo
chủ đề.
* Đối với SV năm thứ ba: tập trung rèn năng lực triển
khai chương trình giáo dục mầm non; năng lực thuyết
trình, tư vấn.
Việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo năng lực nghề
mới bắt đầu triển khai nên nội dung rèn nghề bước đầu
giúp cho học sinh SV nhận ra được ưu - nhược điểm của
cá nhân khi rèn nghề. Từ đó, SV thường xuyên trao đổi
với bạn bè, GV, giáo viên mầm non để tìm ra những giải
pháp phù hợp với cá nhân trong quá trình rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm thường xuyên và có phối hợp với các
kĩ năng cơ bản chung của người giáo viên một cách hợp
lí sao cho SV khi ra trường có được các năng lực cơ bản
đáp ứng được nhu cầu của xã hội (yêu cầu của người sử
dụng lao động, điều kiện hành nghề...).
2.3.2. Một số giải pháp rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo
năng lực nghề cho sinh viên ngành giáo dục mầm non tại
Trường Cao đẳng Sơn La
- Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên trong
giờ học
Hiện nay Trường Cao đẳng Sơn La đang thực hiện
quy trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho SV, gồm các
bước sau:
+ Bước 1: GV hướng dẫn SV nghiên cứu sách giáo
khoa, tài liệu tham khảo để SV định hướng cho việc tiến
hành các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe và
giáo dục trẻ mà mình cần thực hiện.
+ Bước 2: GV thao tác mẫu các hoạt động nuôi
dưỡng, chăm sóc sức khỏe và giáo dục, SV dự hoạt động
mẫu và tiến hành phân tích hoạt động mẫu, rút kinh
nghiệm hoạt động mẫu.
+ Bước 3: SV xây dựng kế hoạch hoạt động theo yêu
cầu (soạn giáo án) và chuẩn bị đồ dùng, phương tiện thực
hiện hoạt động.
+ Bước 4: SV tổ chức luyện tập thực hiện hoạt động
nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ.
Luyện tập có thể tiến hành ở nhóm trên lớp học với
các điều kiện như thật về thời gian, không gian, đồ dùng,
các tình huống có thể và SV đóng vai trẻ,... cũng có thể
tiến hành với trẻ tại trường mầm non. GV và SV cùng dự
bài giảng tập của SV. Ghi chép cẩn thận, chi tiết bài giảng
tập để rút kinh nghiệm.
+ Bước 5: Rút kinh nghiệm và đánh giá hoạt động
nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ theo
những tiêu chí được ghi trong phiếu mẫu.
Các bước của quy trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
này được tiến hành ngay trong thời gian SV học lí thuyết
nhằm bước đầu hình thành cho SV những kĩ năng thiết
kế, thực hiện và đánh giá các hoạt động nuôi dưỡng,
chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ.
Quy trình này cần đảm bảo sự thống nhất với các tri
thức về lí luận dạy học và phương pháp dạy học bộ môn,
SV cần nắm được các tri thức về lí luận dạy học mầm
non, về phương pháp dạy học bộ môn trước khi thực
hành rèn nghề. Trên cơ sở đó đưa ra các mục tiêu luyện
tập và quy trình luyện tập sao cho tạo ra sự tích cực hóa
việc vận dụng tri thức của SV thống nhất với sự chỉ đạo
của giáo viên hướng dẫn. Hơn nữa, đó là cơ sở để thống
nhất việc hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá từng kĩ năng và
toàn bộ quá trình rèn nghiệp vụ sư phạm một cách chính
xác và khách quan.
- Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ngoài giờ học có
hướng dẫn của GV
Vào đầu năm học, tổ chuyên môn ngành Giáo dục
mầm non xây dựng kế hoạch rèn luyện kĩ năng cho từng
môn học trong một thời điểm nhất định và trình Ban chủ
nhiệm khoa, Phòng Đào tạo và Ban Giám hiệu phê duyệt.
Thời gian tổ chức hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm sắp xếp ngoài thời gian mỗi môn học trong học kì
để SV có sự liên kết, vận dụng lí thuyết vào thực hành
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo năng lực nghề.
GV tham gia hướng dẫn SV rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm theo năng lực nghề bằng hình thức bắt tay chỉ việc
(GV làm mẫu cho SV trong các hoạt động hướng dẫn kĩ
năng sư phạm) và nhận xét đánh giá cho từng cá nhân
SV trong quá trình rèn nghiệp vụ sư phạm theo thời gian
đã xây dựng trong kế hoạch của tổ chuyên môn.
- Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ngoài giờ học không
có hướng dẫn của GV
Công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm được thực
hiện bằng nhiều cách như:
+ Khuyến khích SV tự rèn kĩ năng nghề vào thời
gian ngoài giờ học chính khóa và hoạt động nhóm theo
ý thích.
+ Khích lệ SV chủ động đi thực tế ở trường mầm non
theo nhóm nhỏ hoặc cá nhân.
+ Tự học, tự bồi dưỡng qua mạng internet.
+ SV báo cáo nội dung tự rèn nghiệp vụ ngoài giờ
học của mình qua video và gửi cho GV để xin ý kiến
nhận xét. Từ đó tự rút ra những bài học kinh nghiệm,
khắc phục những mặt còn hạn chế.
- Tổ chức hội thi nghiệp vụ sư phạm
Để tổ chức tốt hội thi “Nghiệp vụ sư phạm” thì Ban
lãnh đạo khoa, tổ xây dựng kế hoạch, dự trù kinh phí, lựa
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 29-32; 23
32
chọn nội dung mang tính chuyên môn cao giúp SV hiểu
biết về ngành, nghề sư phạm, về vai trò, yêu cầu của giáo
dục mầm non, về những phẩm chất và năng lực giáo viên
mầm non cần có.
Bên cạnh phần thi hiểu biết thì ở phần thi kĩ năng SV
được thực hành tổ chức các hoạt động giáo dục (thi
giảng, làm đồ chơi, thi hát, múa, đọc, kể diễn cảm tác
phẩm văn học...), các hoạt động ngoại khóa cho trẻ, kĩ
năng đánh giá trẻ, kĩ năng chăm sóc sức khỏe cho trẻ...
và các kĩ năng mềm khác của người giáo viên mầm non
như kĩ năng giao tiếp và ứng xử với trẻ (vừa nhẹ nhàng,
âu yếm, mềm mỏng, vừa nghiêm để giáo dục trẻ), với
đồng nghiệp, với phụ huynh học sinh, kĩ năng rèn luyện
các tài lẻ của giáo viên như thiết kế đồ dùng dạy học, đồ
chơi, trang trí lớp học, xây dựng và dẫn chương trình vui
chơi, ngoại khóa..., kĩ năng sống khác như làm chủ cảm
xúc của bản thân, xây dựng hình ảnh của bản thân trước
trẻ, chia sẻ với đồng nghiệp...
Đánh giá kết quả của hội thi rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm được dựa trên các tiêu chí rõ ràng, cụ thể của từng
kĩ năng công việc để đánh giá đúng năng lực người học.
Tham gia hội thi nghiệp vụ sư phạm cũng là 1 tiêu chí
trong đánh giá kết quả rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
thường xuyên cho các SV và được theo dõi từ các tuần
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Bảng đánh giá kết quả
này do bộ phận phụ trách thực hành sư phạm của khoa
quản lí. Nếu tổng điểm rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
cuối cùng của SV qua 5 học kì không đạt điểm từ 5 trở
lên thì không được đi thực tập sư phạm. Điều này sẽ
giúp SV ý thức hơn về nhiệm vụ rèn luyện nghiệp vụ
sư phạm của bản thân.
- Tăng cường phối hợp giữa Trường Cao đẳng Sơn
La và các trường mầm non để rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm theo năng lực nghề cho SV
+ Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít giữa
nhà trường sư phạm với trường mầm non thực hành, tạo
điều kiện thuận lợi cho SV xuống các trường mầm non
thực hành để rèn nghiệp vụ sư phạm thường xuyên tại
trường mầm non sau các buổi học; được trực tiếp quan
sát, thường xuyên tiếp xúc với các công việc của người
giáo viên mầm non và tiếp xúc với trẻ để rèn nghề qua
hoạt động thực tế sư phạm; SV bước đầu tập làm giáo
viên mầm non qua thực tế sư phạm, thực tập sư phạm lần
1 và thực tập sư phạm lần 2. Giáo viên mầm non và GV
trường cao đẳng cùng tham gia hướng dẫn SV rèn nghiệp
vụ sư phạm theo năng lực nghề nhằm nâng cao kĩ năng,
năng lực của người giáo viên mầm non cho SV.
+ Cần thiết tổ chức các buổi hội thảo đánh giá về việc
tổ chức rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho SV ngoài
trường mầm non giữa Ban chủ nhiệm khoa, các GV trực
tiếp phụ trách công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm và
các trường mầm non thực hành. Các buổi hội thảo này là
cơ hội để trao đổi cởi mở yêu cầu của các cơ sở mầm non
cũng như chất lượng thực tế của SV thực hành, nhằm
giúp các nhà quản lí và GV của khoa nắm bắt kĩ hơn và
điều chỉnh công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm phù
hợp, hiệu quả hơn.
- Xây dựng chế độ chính sách phù hợp cho hoạt động
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của GV
+ GV hướng dẫn cho học sinh SV rèn nghiệp vụ sư
phạm thực hiện theo đúng tiến trình, đúng mục tiêu đề ra.
Sau mỗi buổi rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, GV kí xác
nhận đã lên lớp rèn luyện cho SV theo đúng kế hoạch.
+ Thống kê số giờ rèn nghiệp vụ sư phạm cho SV của
GV để tính giờ lao động cho GV theo quy định chuyên
môn và quy định chế độ làm việc của nhà giáo của
Trường Cao đẳng Sơn La.
+ Trường sư phạm xây dựng quy chế phân bổ kinh
phí hợp lí cho hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ở
các trường mầm non thực hành, đảm bảo một khoản thù
lao xứng đáng cho giáo viên hướng dẫn, đảm bảo một
phần kinh phí khấu hao các phương tiện kĩ thuật dạy học,
các đồ dùng dạy học mà SV được sử dụng. Ngoài ra,
hàng năm, nhà trường sư phạm cần hỗ trợ xây dựng cơ
sở vật chất cho các trường mầm non thực hành; cơ sở vật
chất đầy đủ là điều kiện cơ bản để SV tiến hành các hoạt
động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm đúng mục tiêu, nội
dung, kế hoạch đã xây dựng.
+ Bổ sung cơ sở vật chất: Xây dựng kế hoạch và
xin ý kiến lãnh đạo về việc tăng số lượng phòng thực
hành tại nhà Trường Cao đẳng Sơn La và bổ sung đồ
dùng đồ chơi trong các phòng thực hành đảm bảo đủ
về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm, phù hợp với đặc thù của ngành
học giáo dục mầm non.
3. Kết luận
Thành công của việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên
mầm non hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào kết quả cuối
cùng của công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Năng
lực sư phạm của mỗi SV có được là do kết quả rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm mà nên. Bởi vậy, rèn luyện nghiệp vụ
sư phạm theo năng lực nghề là nét đặc thù, là hoạt động
cơ bản để rèn luyện tay nghề cho SV. Những giải pháp
mà chúng tôi đưa ra ở trên hi vọng sẽ góp phần tạo nên
những thay đổi căn bản trong chất lượng đào tạo giáo
viên mầm non trong thời điểm hiện nay.
(Xem tiếp trang 23)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 20-23
23
bồi dưỡng, nâng cao đạo đức của giảng viên ở các nhà
trường quân đội.
Lành mạnh hóa các quan hệ đạo đức thông qua xây
dựng môi trường dân chủ bảo đảm sự bình đẳng cống hiến
và hưởng thụ; đây chính là điều kiện để mỗi giảng viên
phát huy vai trò của cá nhân, nâng cao phẩm giá con người,
hướng tới giá trị chân thiện mĩ, nâng cao đạo đức nghề
nghiệp. Quá trình thực hiện dân chủ ở các nhà trường phải
đi đôi với kỉ cương, trật tự, quyền hạn gắn với trách nhiệm,
lợi ích kết hợp với nghĩa vụ, đồng thời tích cực chống quan
liêu, mệnh lệnh. Cần tăng cường thanh tra, kiểm tra của
các cấp trong nhà trường nhằm chủ động phát hiện, ngăn
chặn những biểu hiện tiêu cực trong GD-ĐT, giữ vững
môi trường đạo đức ở nhà trường, thực hiện gắn kết chặt
chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục đạo đức với thực hiện các
biện pháp hành chính - quân sự để xây dựng các quan hệ
đạo đức lành mạnh ở nhà trường.
3. Kết luận
Bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhà giáo
quân đội là yêu cầu vừa cấp thiết, vừa cơ bản, lâu dài, ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng giảng dạy nói riêng và
chất lượng đào tạo của các nhà trường quân đội nói
chung. Vì vậy, mỗi thầy giáo, cô giáo của nhà trường
quân đội càng hiểu sâu sắc hơn lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh “Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải
góp phần vào xây dựng công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Phải có chí khí cao thượng phải “tiên ưu hậu lạc”
nghĩa là khó khăn phải chịu trước thiên hạ, sung sướng
hưởng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng” [6; tr
332]. Mỗi nhà giáo cần thường xuyên rèn luyện đạo đức,
năng lực tự học và sáng tạo theo gương Chủ tịch Hồ Chí
Minh sẽ là bước đột phá, góp phần xây dựng đội ngũ nhà
giáo cũng như đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục trong sạch
và vững mạnh, tạo động lực thúc đẩy đổi mới mạnh mẽ
sự nghiệp GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại
trong tình hình mới.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 9). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[2] Quốc hội (2005). Luật Giáo dục số 38/2005/QH11,
ban hành ngày 14/06/2005.
[3] Thư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi các nhà giáo
Quân đội nhân ngày Nhà giáo Việt Nam
20/11/2018.
[4] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 1). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[5] Ban Chấp hành Trung ương (2018). Quy định trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết
là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương, ban hành ngày
25/10/2018.
[6] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập, tập 11. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[7] Quốc hội (2009). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Giáo dục số 44/2009/QH12, ban hành
ngày 25/11/2009.
[8] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO...
(Tiếp theo trang 32)
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD-ĐT (1986). Chương trình rèn nghiệp vụ sư
phạm thường xuyên cho sinh viên đại học sư phạm.
Số 125 ngày 15/4/1986.
[2] Bộ GD-ĐT (2003). Điều lệ trường đại học (Ban
hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg, ngày
30/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ).
[3] Bộ GD-ĐT (2003). Quy chế thực hành, thực tập sư
phạm áp dụng cho các trường đại học, cao đẳng.
Ban hành kèm theo Quyết định số 36/2003/QĐ-
BGDĐT, ngày 01/8/2003.
[4] Bộ GD-ĐT (2008). Quy định về chuẩn nghề nghiệp
giáo viên mầm non, được ban hành kèm theo Quyết
định số 02/2008/QĐ-BGDĐT, ngày 22/1/2008.
[5] Bộ GD-ĐT (2011). Chương trình phát triển ngành
sư phạm và các trường sư phạm từ năm 2011 đến
năm 2020. Quyết định số 6290/QĐ-BGDĐT, ngày
13/12/2011.
[6] Dương Giáng Thiên Hương (chủ biên, 2017). Rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm. NXB Đại học Sư phạm.
[7] Hoàng Đức Minh - Nguyễn Thị Mỹ Trinh (2017).
Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên nâng cao năng lực
chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cán
bộ quản lí và giáo viên mầm non. NXB Giáo dục
Việt Nam.
[8] Nguyễn Việt Bắc (chủ biên, 2007). Rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm thường xuyên. NXB Giáo dục.
[9] Lê Thị Luận - Chu Thị Hồng Nhung (2013). Kĩ năng
và nghiệp vụ sư phạm giáo viên chủ nhiệm nhóm lớp
mầm non. NXB Đại học Sư phạm.
[10] Phạm Trung Thanh (chủ biên, 2008). Rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm thường xuyên. NXB Đại học Sư phạm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 07nguyen_thi_hong_van_8526_2148316.pdf