Tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức công dân cho học viên trường Đại học Chính trị dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 269-273; 254
269
Email: dangthanhthanhvan2011@gmail.com
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÔNG DÂN
CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CHÍNH TRỊ
DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Trung Thành - Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng
Trần Trọng Bắc - Trường Đại học Phú Yên
Ngày nhận bài: 24/12/2018; ngày chỉnh sửa: 20/01/2019; ngày duyệt đăng: 15/02/2019.
Abstract: Promoting and improving the effectiveness of civic ethics education is a regular and
urgent task to meet the requirements of building a socialist rule-of-law state in Vietnam. At the
same time, it is the responsibility of the whole political system, especially the education sector, to
create “model citizens” and “elite citizens” towards the goal of creating “global citizens” in the
context of Vietnam promoting innovation and international integration. The article contributes to
improving the effectiveness of civic ethics education...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 419 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức công dân cho học viên trường Đại học Chính trị dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 269-273; 254
269
Email: dangthanhthanhvan2011@gmail.com
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÔNG DÂN
CHO HỌC VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CHÍNH TRỊ
DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Trung Thành - Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng
Trần Trọng Bắc - Trường Đại học Phú Yên
Ngày nhận bài: 24/12/2018; ngày chỉnh sửa: 20/01/2019; ngày duyệt đăng: 15/02/2019.
Abstract: Promoting and improving the effectiveness of civic ethics education is a regular and
urgent task to meet the requirements of building a socialist rule-of-law state in Vietnam. At the
same time, it is the responsibility of the whole political system, especially the education sector, to
create “model citizens” and “elite citizens” towards the goal of creating “global citizens” in the
context of Vietnam promoting innovation and international integration. The article contributes to
improving the effectiveness of civic ethics education for students at the Political University under
the light of Ho Chi Minh thought.
Keywords: Citizens, citizen ethics, civic consciousness, civic obligation.
1. Mở đầu
Đạo đức công dân là những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh nhận thức, hành vi
của công dân trong quan hệ với nhà nước, nó được thực
hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống, sức mạnh của dư
luận xã hội và pháp luật. Giáo dục đạo đức công dân là
nội dung quan trọng nhất và có tính xuyên suốt trong toàn
bộ cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh. Có thể khẳng định ở Việt Nam, Hồ Chí Minh là
người đầu tiên đề cập đến đạo đức công dân trong chế độ
mới. Người coi giáo dục đạo đức công dân là nhiệm vụ
trọng tâm, cấp bách song song với các nhiệm vụ khác của
chính quyền dân chủ. Sau Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công, khi đề cập đến “Những nhiệm vụ cấp
bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp
bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta
phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng
cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với
nước Việt Nam độc lập” [1; tr 7]. Người khẳng định: Về
văn hóa, phải thanh toán nạn mù chữ, “phải học đạo đức
công dân, phổ thông chính trị”, “để trả lời cho thế giới
biết nước ta là nước văn minh” [2; tr 74]. Trong quá trình
xây dựng nhà nước dân chủ mới, theo Hồ Chí Minh, nhà
nước phải luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi, thiết lập mọi
cơ chế bảo đảm để nhân dân thực sự phát huy quyền làm
chủ của mình, được hưởng dụng đầy đủ, kịp thời những
thành quả cách mạng đã giành được, đồng thời, Người
cũng mong muốn mọi công dân trong nhà nước đó cũng
phải thường xuyên được giáo dục, rèn luyện và tự giác tu
dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống, về phẩm chất công
dân, để làm tròn bổn phận người chủ đất nước. Người
nói: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do
nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì
phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng
đạo đức công dân” [3; tr 258].
Giáo dục đạo đức công dân là phương thức và quá
trình chuyển hóa các nguyên tắc, chuẩn mực, quan điểm
và lí tưởng đạo đức công dân của xã hội thành những
phẩm chất đạo đức của cá nhân công dân, thành tình cảm
và tri thức đạo đức, thành niềm tin và ý chí, thành trách
nhiệm và nghĩa vụ, thành nhu cầu và động cơ bên trong
của cá nhân, thành năng lực thực hiện và đánh giá đạo
đức. Do đó, việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức công dân
cho đội ngũ học viên Trường Đại học Chính trị là nhiệm
vụ vừa cấp thiết trước mắt, vừa cơ bản, lâu dài nhằm đào
tạo ra thế hệ cán bộ chính trị “vừa hồng, vừa chuyên”,
không chỉ là người cán bộ kiểu mẫu mà còn xứng đáng
là người “công dân ưu tú, công dân kiểu mẫu” như lời
căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Quân đội ta trung
với Ðảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ
nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng”.
Bài viết góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
công dân cho học viên Trường Đại học Chính trị hiện nay
dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Đổi mới nội dung giáo dục đạo đức công dân
Chú trọng giáo dục cho học viên Trường Đại học
Chính trị nhận thức rõ vấn đề lợi ích và sự thống nhất
giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể ở nước ta hiện nay.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội tất yếu được nảy
sinh trên cơ sở tồn tại xã hội. Do đó, nội dung giáo dục
đạo đức công dân cũng phải phản ánh và có tác dụng cải
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 269-273; 254
270
tạo tồn tại xã hội. Trong điều kiện thực tiễn của nước ta
hiện nay, với chủ trương phát triển kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện thắng lợi
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, yếu tố quan trọng hàng đầu đó là phải phát huy
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sức mạnh
của dân tộc chỉ được phát huy khi mỗi công dân nhận
thức rõ vấn đề lợi ích và sự thống nhất giữa lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể ở nước ta hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Giáo dục đạo đức công dân để mọi
người hiểu rõ: Lợi ích chung của nước nhà và lợi ích
riêng của người dân là nhất trí; quyền lợi của công dân
và nghĩa vụ của công dân là nhất trí; đã là người chủ của
nước nhà thì phải phụ trách đối với Tổ quốc” [3; tr 258].
Mặt khác, lợi ích là động lực quan trọng thúc đẩy mỗi
cá nhân công dân tích cực hoạt động nhằm thỏa mãn nhu
cầu. Nếu như ở các nhà nước phi vô sản, đặc biệt là chế
độ tư bản, con người tìm kiếm lợi ích cá nhân bằng mọi
giá, kể cả trà đạp lên lợi ích của xã hội, coi việc tìm kiếm
lợi nhuận là điều kiện sống còn của mỗi cá nhân thì dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa lợi ích cá nhân gắn liền với lợi
ích cộng đồng. Trong chế độ mới, chế độ do nhân dân
lao động làm chủ, mỗi người là một bộ phận của tập thể,
có vị trí nhất định và đóng góp một phần công lao cho sự
phát triển của xã hội, “Cho nên lợi ích cá nhân là nằm
trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập
thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích
riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn”
[4; tr 610]. Đây chính là cách ứng xử hợp đạo lí làm
người của mỗi công dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa,
khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, một
xã hội mà “mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời
sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở
trường riêng của mình” [4; tr 610]. Do đó, bên cạnh việc
“giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên
trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân” [5; tr 159], cần trang bị cho học viên
những tri thức hiểu biết về vấn đề lợi ích, vấn đề quyền
và nghĩa vụ công dân, đề cao trách nhiệm công dân...
nhằm củng cố niềm tin, thúc đẩy ý thức tự giác, hành
động nỗ lực phấn đấu vươn lên, khắc phục những khó
khăn, gian khổ từ tính chất của hoạt động quân sự.
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ, đúng đắn về lợi ích cần
đẩy mạnh giáo dục cho học viên hiểu rõ yêu cầu đặt lợi
ích chung lên trên hết, trước hết. Nước ta đang trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về cơ bản lợi ích chung
và lợi ích riêng là nhất trí, nhưng trong quá trình phát
triển ở những điều kiện, hoàn cảnh nhất định vẫn không
tránh khỏi những mâu thuẫn, xung đột. Cho nên, cách
ứng xử của những công dân có đạo đức đó là phải đặt lợi
ích chung lên trên hết, trước hết. Lợi ích chung được bảo
đảm là cơ sở bảo đảm lợi ích của mỗi cá nhân, nhất là
tính chất hoạt động quân sự luôn đòi hỏi cao ở tinh thần
“sẵn sàng chiến đấu hi sinh”, “vì nước quên thân, vì dân
phục vụ” của mỗi quân nhân.
Đạo đức công dân được hình thành thông qua quá
trình giải quyết quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của công
dân. Do đó, giáo dục học viên về quyền và nghĩa vụ cũng
như cách thức giải quyết hài hòa mối quan hệ trên nhằm
phát huy cao nhất năng lực làm chủ, tính tích cực, sáng
tạo của từng học viên, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
được phân công. Mỗi học viên cần ý thức rõ danh dự,
lương tâm và trách nhiệm của người cán bộ Đảng, cán bộ
Đoàn trong Quân đội. Trên cơ sở đó, mỗi học viên cần
nêu cao ý thức giữ gìn đạo đức lối sống, phương pháp,
tác phong công tác của người quân nhân cách mạng trong
giải quyết các mối quan hệ “với mình, với người và với
việc”. Đồng thời, từng học viên cần rèn luyện cho mình
lòng nhân ái, thái độ khoan dung, độ lượng nhằm đề cao
ý thức, trách nhiệm cộng đồng trong tham gia các phong
trào hoạt động xã hội.
Nội dung, chương trình GD-ĐT ở nhà trường cần khéo
léo lồng ghép có hiệu quả những phẩm chất nhân cách
công dân tiêu biểu như: Giáo dục tinh thần yêu lao động
và chấp hành kỉ luật lao động, giáo dục lòng yêu nước, tinh
thần quốc tế, giáo dục chủ nghĩa nhân đạo, ý thức tôn trọng
pháp luật và những tính cách đạo đức cao quý của công
dân (như: ngay thẳng, trung thực). Là thế hệ công dân
trong chế độ xã hội chủ nghĩa, tinh thần yêu lao động, chấp
hành nghiêm kỉ luật lao động và ý thức thượng tôn pháp
luật là những phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của
người công dân. Học viên phải thực sự hăng say lao động,
biết quý trọng giá trị của lao động, tự giác làm tròn nghĩa
vụ của mình với Nhà nước và Quân đội, dám đấu tranh với
những bất công, sai phạm trong đơn vị. Nhà trường cần
gắn việc tăng cường giáo dục tinh thần yêu lao động với
giáo dục chủ nghĩa tập thể. Bởi vì, nguyên tắc của chủ
nghĩa tập thể “mình vì mọi người, mọi người vì mình”
chính là cơ sở thúc đẩy cá nhân nỗ lực cố gắng hăng say
lao động vì mình và vì mọi người.
Trong giáo dục đạo đức công dân cho học viên cũng
cần đặc biệt chú trọng giáo dục ý thức tôn trọng pháp
luật, kỉ luật quân đội. Đây là chuẩn mực quan trọng bậc
nhất trong thang giá trị đạo đức của mọi công dân. Đồng
thời, “kỉ luật là sức mạnh của quân đội”. Chính điều đó
giúp hình thành ở học viên ý thức tôn trọng những quy
định chung trong hoạt động tập thể, làm tiền đề cho ý
thức chấp hành nghiêm kỉ luật quân đội. Do đó, bên cạnh
việc trang bị kiến thức chuyên ngành công tác đảng, công
tác chính trị, Nhà trường cần giáo dục, bồi dưỡng kiến
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 269-273; 254
271
thức pháp luật, rèn luyện ý thức tôn trọng pháp luật thông
qua duy trì nghiêm nền nếp chính quy, rèn luyện kỉ luật,
trực tiếp nhất là những quy định của nhà trường. Là lớp
người trẻ tuổi, học viên dễ dàng tiếp thu kiến thức mới
do đó thông qua các hoạt động ngoại khóa, hoạt động văn
hóa văn nghệ để truyền tải các nội dung pháp luật sát với
thực tế, phù hợp với tâm lí lứa tuổi như: Luật Giáo dục,
Luật An toàn giao thông
Là bộ phận công dân ưu tú nhất, bộ phận học viên là
đảng viên cũng cần phải được giáo dục và tự giác tự giáo
dục đạo đức công dân. Sự gương mẫu của bộ phận này
trong tu dưỡng rèn luyện có ảnh hưởng rất lớn đến các
đối tượng học viên khác. Do đó, nếu không tự giác tu
dưỡng, rèn luyện, tự giác vươn lên thì mọi sự hoạt động
giáo dục đều không đem lại kết quả. Ngoài phẩm chất
chính trị, trình độ chuyên môn tốt, thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của mọi công dân, lực
lượng này còn phải tích cực chuyển hóa những chuẩn
mực đó thành ý thức, tình cảm, tập tục, thói quen trong
tập thể đơn vị. Chỉ có thông qua hoạt động giáo dục đạo
đức công dân mới có thể xác lập được quan điểm nhận
thức đạo đức, hình thành năng lực ứng xử đạo đức và tính
cách đạo đức công dân. Chỉ có thông qua giáo dục đạo
đức thường xuyên, sâu rộng mới có thể xác lập được văn
hóa đạo đức công dân cho mọi học viên trong đơn vị.
2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức công dân cho học viên Trường Đại học Chính trị
Giáo dục đạo đức công dân phải kết hợp chặt chẽ giữa
phát huy vai trò của người dạy và người học; kết hợp chặt
chẽ giữa giáo dục đạo đức với giáo dục tri thức, giáo dục
chính trị, giáo dục lao động, công tác, giáo dục pháp
luật Đồng thời, cần có một hệ thống giải pháp đồng
bộ, thống nhất, trong đó tập trung vào các nội dung, biện
pháp cụ thể sau:
2.2.1. Nâng cao nhận thức đạo đức công dân cho mọi
học viên trong nhà trường
Nhận thức là cơ sở của hoạt động thực tiễn, thông
thường có nhận thức đúng mới có hành động đúng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Tư tưởng đúng thì hành
động mới khỏi sai lạc và mới làm trọn nhiệm vụ cách
mạng được” [6; tr 360]. Sự hình thành nhân cách công
dân được thực hiện trong cả ba môi trường: gia đình, nhà
trường và xã hội. Do đó, tối ưu hóa quá trình giáo dục
đạo đức công dân ở các môi trường ấy chính là biện pháp
hữu hiệu nhất để nâng cao nhận thức của mọi công dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định nhiệm
vụ của ngành giáo dục “không những dạy đọc, dạy viết,
mà còn phải chú trọng dạy đạo đức công dân” [7; tr
126]. Nhằm trang bị kĩ năng ứng xử của công dân trong
quan hệ với nhà nước, cần nâng cao chất lượng dạy và
học các môn khoa học xã hội và nhân văn. Khắc phục
triệt để thái độ coi thường, xem nhẹ của cả người dạy và
người học thông qua đổi mới, cải cách toàn diện. Đổi mới
GD-ĐT nói chung, nhất là các môn khoa học xã hội và
nhân văn nói riêng cần tập trung chuẩn hóa tất cả các
khâu: đào tạo giáo viên; xác định nội dung, chương trình
giảng dạy; thi, kiểm tra, đánh giá xếp loại kết quả; tài liệu
nghiên cứu học tập theo hướng thiết thực, hiệu quả,
tránh các biểu hiện hình thức, kém tác dụng.
Gia đình là “tế bào” của xã hội, là “cái nôi” ươm mầm
nhân cách đầu tiên của công dân. Trong giáo dục đạo đức
công dân, càng cần đến giáo dục đạo đức trong gia đình.
Mỗi người không chỉ tìm thấy ở gia đình niềm vui, ý nghĩa
trong sáng của cuộc sống, điểm tựa vững vàng và nguồn
sinh lực mạnh mẽ để bước vào xã hội mà còn thu nhận từ
gia đình những chuẩn mực đạo đức cao quý của người công
dân để vững vàng bước ra ngoài xã hội với địa vị người làm
chủ. Do đó, nội dung giáo dục đạo đức trong gia đình hiện
nay không chỉ tập trung vào việc giáo dục cách ứng xử của
các thành viên trong gia đình “trên kính dưới nhường” và
lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, cha mẹ... mà
cần tập trung giáo dục con em mình biết tôn trọng lợi ích xã
hội và những nguyên tắc của đời sống xã hội, giáo dục tình
cảm yêu Tổ quốc, yêu nhân, yêu chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời, rèn luyện cho con em mình những tính cách cần thiết
của người công dân như: ngay thẳng, trung thực, dũng cảm,
khiêm tốn, thái độ tự chủ dám làm dám chịu trách nhiệm,
đặc biệt là ý thức tôn trọng pháp luật
Khi giáo dục đạo đức, lối sống, bên cạnh việc giáo dục
các chuẩn mực đạo đức công dân tốt đẹp, yêu cầu xây
dựng chế độ mới cũng đòi hỏi gia đình phát huy vai trò
tích cực trong việc ngăn chặn những mặt trái của đạo đức
công dân như: tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế, lối sống
hưởng thụ, lười lao động Tham nhũng đang trở thành
quốc nạn, là bài toán khó đối với các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam. Trong khi hầu hết các vụ việc tham
nhũng chủ yếu được phát hiện, bị tố giác nhờ dư luận xã
hội thì hầu như có rất ít các vụ án được phát giác từ trong
gia đình, thậm chí có không ít thành viên trong gia đình
còn tiếp tay cho thân nhân mình thực hiện các hành vi vi
phạm pháp luật. Đây là những hạn chế của giáo dục đạo
đức trong gia đình bắt nguồn từ quan niệm lệch chuẩn về
vấn đề lợi ích của không ít gia đình hiện đại.
Giáo dục đạo đức công dân cho đội ngũ học viên cần
đặc biệt chú trọng ngăn chặn và đẩy lùi căn bệnh “kiêu
ngạo cộng sản”. Nó làm cho người đảng viên “tưởng rằng
chỉ bằng những pháp lệnh cộng sản là có thể giải quyết
được tất cả nhiệm vụ của mình” [8; tr 217]. Nước ta đi lên
chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
do đó tư duy tiểu nông vẫn còn tồn tại dai dẳng trong nhận
thức các đối tượng công dân, trong đó có đội ngũ cán bộ,
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 269-273; 254
272
đảng viên. Tính kiêu ngạo đi liền với sự thiếu hiểu biết dẫn
đến nhận thức cán bộ, đảng viên bị hạn chế, thậm chí lệch
lạc, không đầy đủ. Để loại bỏ căn bệnh này, Nhà trường
cần chú trọng nâng cao chất lượng dạy và học các môn cho
các đối tượng đào tạo. Trong các nội dung đào tạo, bồi
dưỡng lí luận cho học viên cần chú trọng nâng cao tinh
thần trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự tổ quốc, phụng
sự nhân dân. Đạo đức của người cán bộ chính trị tương lai
phải là sự tổng hòa của đạo đức người đày tớ, người công
dân kiểu mẫu. Giáo dục lí luận phải gắn liền với rèn luyện
trong thực tiễn hoạt động quân sự. Đặc biệt là phải gần
dân, gắn bó với nhân dân để hiểu dân, học tập phẩm chất
đạo đức cao quý trong nhân dân để phục vụ dân tốt hơn.
2.2.2. Phát huy vai trò của tự phê bình và phê bình trong
giáo dục đạo đức công dân
Tự phê bình và phê bình trước hết là yêu cầu và
phương thức xây dựng đạo đức của mọi công dân. Là
người chủ của chế độ mới, nếu không thường xuyên tự
phê bình và phê bình để không ngừng nâng cao đạo đức
công dân, học viên sẽ tự từ bỏ quyền lực và lợi ích của
mình. Thông qua tự phê bình và phê bình, mỗi học viên
sẽ nhận thức rõ ưu điểm của bản thân và của các cá nhân
khác để không ngừng trau dồi, học tập đồng thời thấy rõ
những hạn chế, yếu kém, lệch lạc để cùng nhau khắc
phục. Phát huy vai trò tự phê bình và phê bình chính là
quá trình hình thành dư luận xã hội tích cực trong rèn
luyện đạo đức. Trong điều kiện tác động đa chiều, đan
xen, cả tích cực và tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa và
kinh tế thị trường đòi hỏi học viên phải biết phân tích rõ
ràng cái gì đúng, cái gì sai. Xác định bản chất đúng sai
của một vấn đề là rất quan trọng vì điều này không những
đòi hỏi phải có vốn trí thức và hiểu biết nhất định mà còn
phải đứng trên quan điểm lập trường vì cái chung, lợi ích
chung chứ không phải vì lợi ích cá nhân. Khi đã hiểu rõ
đúng sai thì phải phê bình cái sai và ủng hộ cái đúng.
Cũng nhờ hiểu đúng sai nên mới phân biệt công - tư,
thiện - ác, lợi - hại, rồi: “Nghiêm chỉnh phê bình và thật
thà tự phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát
huy ưu điểm, để cùng nhau tiến bộ” [9; tr 186]. Từng học
viên phải tỏ rõ thái độ nhất quyết không chịu sự chi phối
và ảnh hưởng của những khuyết điểm sai lầm. Ra sức
ủng hộ những công dân tốt, tích cực, kiên quyết đấu tranh
để sửa chữa khuyết điểm, không để hậu quả lan rộng ra
có hại cho lợi ích chung của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng: “Nơi nào sai lầm, ai sai lầm, thì lập tức
sửa chữa. Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu,
chống thói trước mặt thì nể, kể lể sau lưng” [10; tr 308].
Phê bình và tự phê bình cần được tiến hành thường
xuyên liên tục trong mọi hoạt động sinh hoạt, học tập,
công tác của học viên. Là một hình thái ý thức xã hội,
đạo đức cũng có những cơ chế nảy sinh, phương thức
hình thành phổ biến như các hình thái ý thức xã hội khác,
phương thức đó không gì khác chính là thông qua hoạt
động thực tiễn. Các nhà giáo dục học Mác - xít đã khẳng
định: Nhân cách con người chỉ được hình thành bằng
hoạt động và thông qua hoạt động. Thông qua hoạt động
qua thực tiễn hoạt động quân sự đạo đức của mỗi công
dân được bộc lộ, được điều chỉnh, định hình, hoàn thiện
và phát triển. Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức đạo
đức, là thước đo tính đúng đắn, phù hợp, tiến bộ của các
chuẩn mực và hành vi đạo đức. Giáo dục đạo đức, không
phải chỉ được thực hiện trong nhà trường, trên lớp học,
mới học tập, tu dưỡng, rèn luyện và tự cải tạo được.
Trong mọi hoạt động cách mạng, chúng ta đều có thể và
đều phải học tập, tự cải tạo. Trong thực tiễn, thông qua
thực tiễn, mỗi học viên có điều kiện học hỏi lẫn nhau, phê
bình nhau để cùng nhau tiến bộ. Nhân cách của người khác
chính là tấm gương phản chiếu để mỗi công dân tự nhìn
lại mình, biết mình đang ở đâu để tự phê bình mình, học
tập kinh nghiệm hay, tính cách tốt đẹp để không ngừng
trưởng thành. Bản thân thực tiễn hoạt động của Người
chính là kho tư liệu phong phú, sâu sắc về tư tưởng và tấm
gương đạo đức cho mọi thế hệ kế tiếp “Người hạ mình cho
vừa tầm mọi người Việt Nam để nâng đỡ mọi người Việt
Nam lên đến tầm người” [11; tr 35]. Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức của Người thông qua thực hiện Chỉ
thị số 05-CT/TW của Bộ chính trị về “Đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh” chính là biện pháp tự giáo dục hữu hiệu nhất để
trở thành người “công dân mẫu mực”.
2.2.3. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đạo đức công dân
với giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin
Với vai trò là vũ khí lí luận “chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin”
[12; tr 289], lí luận Mác - Lênin chẳng những là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho các Đảng cộng sản và công
nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình mà còn là “chất đề kháng” hữu hiệu nhất
trong cuộc đấu tranh phòng ngừa nguy cơ suy thoái đạo
đức của mỗi công dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Có học tập lí luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo
đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu
biết và trình độ chính trị” [4; tr 611]. Lí luận Mác - Lênin
không phải những tín điều trong kinh thánh mà bản thân
nó chứa đựng trong đó ý nghĩa nhân văn, đạo đức và có
sức cảm hóa mạnh mẽ, khơi dậy ý thức đạo đức của mỗi
công dân. Do đó, ngay cả việc học ấy cũng là một hành vi
đạo đức, “là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu
thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì
sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được” [13; tr 670].
Mặt khác, với vai trò cải tạo thế giới, lí luận Mác - Lênin
chỉ trở thành vũ khí vật chất to lớn khi nó thâm nhập vào
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 269-273; 254
273
trong các đối tượng công dân, được mọi công dân tự giác
thừa nhận và vận dụng trong các phong trào hành động
cách mạng. Do đó, để tránh những biểu hiện hình thức,
giáo điều trong giáo dục lí luận Mác - Lênin, cấp ủy, chỉ
huy các cấp trong Nhà trường cần lựa chọn nội dung học
tập phù hợp, sát thực tế, gắn với từng đối tượng công dân
cụ thể, với đặc thù nghề nghiệp của từng công dân, tích
cực bồi dưỡng cho công dân phương pháp học lí luận.
Theo Hồ Chí Minh, học tập lí luận Mác - Lênin: “Là học
tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối
với bản thân mình; là học tập những chân lí phổ biến của
chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta” [4; tr 611].
2.2.4. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đạo đức công dân
với tăng cường kỉ luật Đảng và pháp luật Nhà nước, kỉ
luật quân đội trong Nhà trường
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của việc
giữ vững kỉ luật Đảng. Người cho rằng: “Không giữ
vững kỉ luật của Đảng, không kiên quyết chấp hành chính
sách và nghị quyết của Đảng, không thiết tha quan tâm
đến lợi ích của Đảng - là trái với nghĩa vụ của đảng viên”
[14; tr 284]. Do đó, tăng cường kỉ luật Đảng nhằm xây
dựng Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh” có tác
dụng giáo dục đạo đức công dân trong quần chúng rất
lớn. Quần chúng chỉ thực sự tin Đảng, yêu Đảng và tự
giác làm tròn bổn phận của mình khi mỗi đảng viên của
Đảng thực sự là tấm gương mẫu mực về đạo đức lối sống.
Muốn tăng cường kỉ luật Đảng thì không chỉ giới hạn
trong việc chăm lo xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng trong
Nhà trường vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và
đạo đức mà cần phải phát huy vai trò giám sát và phản biện
xã hội của các tổ chức quần chúng trong đơn vị (Đoàn
Thanh niên, Công đoàn, Hội Phụ nữ, Hội đồng quân
nhân...) hình thành cơ chế giám sát các tổ chức cơ sở
đảng có hiệu quả. Cả lí luận và thực tiễn đều chứng minh
rằng: vì Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng do đó hầu
hết những suy thoái trong Đảng đều được người dân nhìn
thấy rõ nhất. Nhân dân có hàng triệu người, hàng triệu con
mắt, lỗ tai cảnh giác, giống như “những ngọn đèn pha soi
sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan
liêu còn chỗ ẩn nấp” [10; tr 419].
Trong giáo dục đạo đức công dân, Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất chú trọng phát huy vai trò của pháp luật và thực thi
pháp luật. Người khẳng định: “Giáo dục là chính, nhưng
đối với những kẻ ngoan cố không chịu sửa đổi thì chính
quyền phải dùng phép luật. Phép luật là phép luật của nhân
dân, dùng để ngăn cản những hành động có hại cho nhân
dân” [3; tr 259]. Để phát huy vai trò của pháp luật như một
yếu tố nội sinh quan trọng trong sự nghiệp đổi mới vì sự
phát triển của mỗi công dân, hơn bao giờ hết, cần phải có
những quy định pháp luật thích ứng chặt chẽ cùng với việc
tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật. Vai trò đó thuộc về
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó, cần
phải đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện Nhà nước theo hướng
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là
vấn đề có ý nghĩa thời sự cấp bách hiện nay.
2.2.5. Phát huy vai trò nêu gương đạo đức công dân của
đội ngũ cán bộ, đảng viên
Nêu gương về đạo đức trước hết là một yêu cầu đối với
cán bộ, đảng viên và những người đứng đầu các cơ quan
Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội. Việc nêu
gương đạo đức của cán bộ, đảng viên có tác dụng giáo dục
quần chúng rất cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
nhắc nhở và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên “Tự mình phải
chính trước, mới giúp được người khác chính” [6; tr 130].
Ngược lại, sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, đặc biệt là sự thoái
hóa, biến chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hành vi đạo đức, lối sống, ý thức
kỉ luật, pháp luật của công dân. Truyền thống dân tộc Việt
Nam, luôn đề cao vai trò nêu gương của mỗi người dân, đối
với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền. Để có được những tấm gương sáng
cho quần chúng học tập và noi theo, đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong Nhà trường, phải không ngừng rèn luyện, tu
dưỡng, tự mình gương mẫu “cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”; tư tưởng và hành động của từng đảng viên phải
thống nhất, nếu không “khác nào một mớ cắt rời, “trống
đánh xuôi, kèn thổi ngược” sẽ không thể lãnh đạo quần
chúng, không thể làm cách mạng. Lời nói và việc làm của
đảng viên rất quan hệ đến sự nghiệp cách mạng, vì nó ảnh
hưởng lớn đến quần chúng” [4; tr 606]. Cần lựa chọn, nhân
rộng những tấm gương người tốt, việc tốt trong các đối
tượng học viên để mọi người tự giáo dục lẫn nhau. Đây cũng
là quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
giáo dục đạo đức công dân. Người khẳng định: “Lấy gương
tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ đảng viên để giáo
dục lẫn nhau còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo
dục quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn”
[14; tr 665].
Nhằm làm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở Đảng tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong giáo dục đạo đức công dân cần gắn với việc mở
rộng và nâng cao chất lượng hoạt động lấy phiếu tín
nhiệm. Đây là cơ chế giám sát có nhiều ưu điểm, thông
qua lấy phiếu tín nhiệm giúp cán bộ, đảng viên, nhất là
những người đứng đầu thấy rõ hơn trách nhiệm của bản
thân, nêu gương trước học viên. Niềm tin của học viên
chính là mệnh lệnh đạo đức, là danh dự, nhân phẩm của
với lãnh đạo, chỉ huy các cấp, tuy nhiên, khi niềm tin ấy
bị xói mòn và không còn tồn tại nữa chính là căn cứ để
luân chuyển và bãi miễn, sa thải cán bộ.
(Xem tiếp trang 254)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 3 tháng 5/2019, tr 249-254
254
3. Kết luận
Nhìn chung, bản thân mỗi phương pháp giảng dạy và
học tập từ vựng không phải là “tốt” hay “xấu”. Bản thân
chúng cũng không có mặt tích cực hay tiêu cực, không
một phương pháp nào thực sự có thể giúp người dạy và
người học đạt được mục đích là làm chủ từ vựng đó.
Quan trọng là áp dụng thích hợp các phương pháp tuỳ
theo từng đối tượng SV, năng lực ngôn ngữ của SV và
đối tượng từ vựng.
Tài liệu tham khảo
[1] Neuman, S. B. - Dwyer, J. (2009). Missing in action:
Vocabulary instruction in pre-k. The Reading
Teacher, Vol. 62 (5), pp. 384-392.
[2] Hornby, A. S. (1995). Oxford Advanced Learners
Dictionary of Current English. London: Oxford
University Press.
[3] Ur, P. (1998). A course in language teaching.
Cambridge University Press.
[4] Takač, V. P. - Singleton, D. (Eds.). (2008).
Vocabulary learning strategies and foreign language
acquisition. Canada: Multilingual Matters Ltd.
[5] Gairns, R. - Redman, S. (1986). Working with
words: A guide to teaching and learning
vocabulary. USA: Cambridge University Press.
[6] Rudska, B. - Channell, J. - Ostyn, P. - Putseys, T.
(1985). More Words You Need. London:
Macmillan.
[7] Dubin, F. (1993). Predicting word meanings from
contextual clues: Evidence from L1 readers. In
Huckin, T., Haynes, M., and Coady, J (Ed.), Second
language reading and vocabulary learning (pp.
181-202). Norwood, N.J.: Ablex.
[8] Nation, I. S. P. - Coady, J. (1988). Vocabulary and
Reading. In Carter, R. and McCarthy, M. (eds.)
Vocabulary and Language Teaching (pp. 97-108).
London: Longman.
[9] Walters, J. M. (2004). Teaching the use of context to
infer meaning: A longitudinal survey of L1 and L2
vocabulary research. Language Teaching, Vol. 37
(4), pp. 243-252.
[10] Cameron, L. (2001). Teaching languages to young
learners. Cambridge: Cambridge University Press.
[11] Thorburry, S. (2002). How to teach vocabulary.
England: Pearson Education Limited.
[12] Suberviola, E. S. - Mendez, R. V. (2002).
Vocabulary acquisition strategies. Dida'ctica
(lengua y literatura), Vol. 14, pp. 233-2509.
[13] Aitchison, J. (2003). Words in the Mind: An
Introduction to the Mental Lexicon. Wiley-
Blackwell.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ...
(Tiếp theo trang 273)
3. Kết luận
Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức công dân cho
học viên Trường Đại học Chính trị trong điều kiện hiện
nay vừa là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, vừa cơ bản lâu
dài, trọng tâm là phải giáo dục cho học viên những chuẩn
mực, những yêu cầu đạo đức phù hợp với yêu cầu của sự
phát triển xã hội, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân
tộc tạo động lực tinh thần to lớn góp phần thực hiện thắng
lợi mục tiêu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Để giáo dục đạo đức công dân diễn ra đúng hướng, có
tác dụng mạnh mẽ trong thực tiễn, cần chú trọng vận
dụng tổng hợp các biện pháp giáo dục phong phú, phù
hợp nhằm định hướng, dẫn dắt sự phát triển đạo đức công
dân trong bối cảnh toàn cầu hóa phát triển ngày càng
mạnh mẽ và sâu rộng.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 4) . NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[2] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 5). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[3] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 9). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[4] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 11). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[5] Đảng cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc
gia - Sự thật.
[6] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 6). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[7] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 10). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[8] V.I. Lênin (1978). Toàn tập (tập 44). NXB Tiến bộ.
Mátxcơva.
[9] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 14). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[10] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 13). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[11] Phạm Văn Đồng (1976). Hồ Chủ tịch tinh hoa của
dân tộc, lương tâm của thời đại. NXB Sự thật.
[12] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 2). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[13] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 15). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[14] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011). Hồ Chí Minh
toàn tập (tập 8). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 54nguyen_trung_thanh_tran_trong_bac_7_2164619.pdf