Tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả chính sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang hiện nay: An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
47
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER Ở AN GIANG HIỆN NAY
Lê Thiện Minh1, Nguyễn Văn Cọp2
1Trường Đại học An Giang,
2Văn Phòng Tinh ủy, tỉnh An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 05/01/2018
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
15/02/2018
Ngày chấp nhận đăng: 04/2018
Title:
Some solutions to improve the
effectiveness of poverty
reduction policies in Khmer
ethnic minority region in An
Giang province
Keywords:
An Giang, poverty, poverty-
alleviation, poverty-alleviation
policy, Khmer ethnic group
Từ khóa:
An Giang, nghèo, giảm
nghèo, chính sách giảm
nghèo, dân tộc Khmer
ABSTRACT
To clarify the concept of hunger and poverty according to the perception in
Vietnam and the world nowadays, the author focuses on researching and
analyzing achievements and limitations as well as finding out its causes during
cond...
12 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả chính sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
47
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER Ở AN GIANG HIỆN NAY
Lê Thiện Minh1, Nguyễn Văn Cọp2
1Trường Đại học An Giang,
2Văn Phòng Tinh ủy, tỉnh An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 05/01/2018
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
15/02/2018
Ngày chấp nhận đăng: 04/2018
Title:
Some solutions to improve the
effectiveness of poverty
reduction policies in Khmer
ethnic minority region in An
Giang province
Keywords:
An Giang, poverty, poverty-
alleviation, poverty-alleviation
policy, Khmer ethnic group
Từ khóa:
An Giang, nghèo, giảm
nghèo, chính sách giảm
nghèo, dân tộc Khmer
ABSTRACT
To clarify the concept of hunger and poverty according to the perception in
Vietnam and the world nowadays, the author focuses on researching and
analyzing achievements and limitations as well as finding out its causes during
conducting poverty-alleviation policies in Khmer ethnic group in An Giang
province; Accordingly, the author proposes solutions in order to implement the
policies more effectively in the future.
TÓM TẮT
Trên cơ sở làm rõ khái niệm đói, nghèo theo quan niệm của Việt Nam và thế
giới hiện nay, tác giả bài viết tập trung nghiên cứu, phân tích những thành tựu
và hạn chế, đồng thời tìm ra nguyên nhân của nó trong việc thực hiện chính
sách giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang hiện nay; qua đó,
tác giả đề xuất một số giải pháp để nhằm thực hiện chính sách này đạt hiệu quả
cao hơn trong thời gian tới.
1. GIỚI THIỆU
An Giang là tỉnh ở miền Tây Nam Bộ, thuộc khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự
nhiên 353.676 ha, trong đó có 297.872 ha đất sản
xuất nông nghiệp. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính
cấp huyện, thị xã, thành phố và 156 đơn vị hành
chính cấp xã, phường, thị trấn; có 18 xã biên giới,
36 xã dân tộc (Khmer 27 xã, Chăm 09 xã nằm
trên địa bàn 08 huyện), 35 xã khó khăn theo
Quyết định 30/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ. Dân số toàn Tỉnh là 2.142.709 người,
với 524.759 hộ. Hiện Tỉnh có 30 dân tộc, trong
đó, dân tộc thiểu số gồm có 29 dân tộc với
112.809 người, chiếm 5,26% dân số cả Tỉnh. Dân
tộc thiểu số có số dân khá đông là: Khmer có
90.271 người, (chiếm 4,2%); Chăm có 14.209
người (chiếm 0,66%); Hoa có 8.075 người (chiếm
0,37%).
Đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang có những
đặc thù riêng về lịch sử và tôn giáo, sống tập
trung ở 02 huyện miền núi Tri Tôn, Tịnh Biên
(trên 80.000 người), số còn lại sống rải rác ở các
huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú. Hầu
hết theo Phật giáo Nam tông, có mối quan hệ rộng
rãi với đồng bào dân tộc Khmer các tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long và người Khmer ở
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
48
Campuchia. Trong kháng chiến, nơi đây là căn cứ
địa cách mạng, chịu nhiều tàn phá, bà con người
dân tộc Khmer chịu nhiều mất mát về người và
của. Đến chiến tranh biên giới Tây Nam, bà con
phải di chuyển về tuyến sau, khi trở về quê hương
sau chiến tranh, hầu hết nhà cửa, ruộng vườn, đất
đai đã bị giặc tàn phá, xáo trộn, gây khó khăn cho
đời sống. Thêm vào đó, trình độ dân trí của bà con
Khmer còn thấp, với tập quán sống tập trung theo
phum, sóc; chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt,
chăn nuôi và làm thuê mướn theo mùa vụ đời
sống vật chất và tinh thần của bà con còn thấp so
với mặt bằng chung.
Nghèo đói là một vấn đề kinh tế - xã hội mang
tính toàn cầu, do đó giải quyết đói nghèo trở thành
nhiệm vụ quan trọng của đất nước. Mặt khác, xoá
đói, giảm nghèo cũng là một trong những chính
sách xã hội cơ bản được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm. Vì vậy, việc triển khai, thực hiện
tốt các chính sách giảm nghèo, nhất là chính sách
giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số không
chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương mà còn góp phần thực hiện tốt
hơn chính sách dân tộc, đảm bảo ổn định tình hình
an ninh, chính trị của địa phương. Việc xác định
giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer
là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh An Giang. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện giảm nghèo, Tỉnh luôn tập trung quan
tâm những vùng còn tỷ lệ hộ nghèo cao như vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc Khmer với
tinh thần: về chủ trương, phải đúng trọng tâm,
đúng trọng điểm; về chỉ đạo, phải quyết liệt, biết
khối lượng công việc, lực lượng thực hiện, thời
hạn hoàn thành; về chủ trì, phải gương mẫu, tận
tụy, sâu sát, dân chủ, sáng tạo nhưng đúng pháp
luật của Nhà nước.
Trong thời gian qua, việc triển khai, quán triệt và
tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về công tác xóa đói giảm
nghèo giai đoạn 2005 - 2015, tỉnh An Giang đã
tập trung các nguồn lực, thực hiện nhiều chính
sách, giải pháp giảm nghèo, an sinh xã hội; đem
lại nhiều kết quả quan trọng, góp phần vào phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương theo hướng
bền vững, đặc biệt là vùng có đông đồng bào dân
tộc Khmer có nhiều chuyển biến tích cực, bộ mặt
nông thôn ngày càng khởi sắc rõ nét, tỷ lệ hộ
nghèo giảm, đời sống của một bộ phận khá lớn
đồng bào dân tộc Khmer ngày càng được nâng
lên. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác giảm nghèo
trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang
còn nhiều khó khăn, chưa thật sự bền vững, đặc
biệt là một số huyện miền núi, biên giới (Tri Tôn,
Tịnh Biên) có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh
sống vẫn chiếm tỷ lệ hộ nghèo khá cao qua các
năm; tính chủ động của người nghèo dân tộc
Khmer còn hạn chế, một bộ phận còn trông chờ, ỷ
lại vào sự bao cấp của Nhà nước không nắm bắt
cơ hội để vươn lên thoát nghèo. Đặc biệt có nhiều
hộ không có khả năng thoát nghèo (có người già
yếu, cô đơn, không có con cháu, có người tàn tật
nặng, người tâm thần); đời sống của một bộ
phận người nghèo dân tộc Khmer chưa bảo đảm
được mức tối thiểu và có sự chênh lệch giữa miền
núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung
bình của cả nước; hiện tượng tái nghèo vẫn còn
phổ biến. Đồng thời, do đặc điểm kinh tế của An
Giang chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (lúa, cá),
chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, các yếu tố
giá cả thị trường luôn tác động bất lợi cho người
sản xuất, cùng với thiên tai, lũ lụt hằng năm, luôn
làm biến động về tăng giảm hộ nghèo. Nghiên
cứu các chính sách giảm nghèo và tác động của
chính sách giảm nghèo sẽ giúp chúng ta hiểu thêm
về thực trạng nghèo, đói trong vùng đồng bào dân
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
49
tộc Khmer; qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách giảm
nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An
Giang hiện nay.
2. KHÁI NIỆM ĐÓI, NGHÈO
2.1 Khái niệm đói, nghèo của Việt Nam
Căn cứ trên thực tế về trình độ phát triển kinh
tế - xã hội của nước ta và hiện trạng đời sống
trung bình phổ biến của dân cư hiện nay, có
thể đánh giá đói nghèo theo 4 chỉ tiêu chính:
thu nhập; nhà ở và tiện nghi sinh hoạt; tư liệu
sản xuất và vốn liếng để dành. Song, ở nước
ta, do đặc thù của nền văn hóa và bản sắc dân
tộc, nên quan niệm về đói, nghèo không chỉ
đơn thuần đề cập vấn đề thu nhập vật chất mà
còn liên quan đến khía cạnh bản sắc văn hóa,
đạo đức, nhân văn Trong các tiêu chí như
thu nhập, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu
gia đình, hưởng thụ văn hóa, thì tiêu chí
thu nhập về kinh tế là đáng chú ý hơn cả. Ở
nước ta, chỉ tiêu đánh giá hộ giàu, nghèo, đói,
có thể dựa trên chỉ tiêu chính là thu nhập bình
quân nhân khẩu một tháng (hoặc năm) được
đo lường bằng chỉ tiêu giá trị quy đổi hoặc
hiện vật quy đổi. Khái niệm thu nhập ở đây
được hiểu là thu nhập thuần túy. Đối với hộ
dân cư ở nông thôn, thu nhập được tính bằng
cách lấy doanh thu trừ đi chi phí bỏ ra. Chỉ
tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu/tháng là
chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói
nghèo; ngoài ra còn căn cứ vào chỉ tiêu phụ là
dinh dưỡng bữa ăn, mặc, nhà ở và các điều
kiện học tập, chữa bệnh, đi lại.
Qua nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu, Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội đã đưa ra khái
niệm đói nghèo ở Việt Nam như sau: Nghèo
là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những
điều kiện thoả mãn những nhu cầu tối thiểu
và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức
sống thấp hơn mức sống của cộng đồng xét
trên mọi phương diện. Một cách hiểu khác:
nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống
dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng
ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ
thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể
hay từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội
cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia
(Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An
Giang, 2014, tr. 36).
Ở Việt Nam, nghèo được chia thành các mức
khác nhau: nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối,
nghèo có nhu cầu tối thiểu. Nghèo tuyệt đối
là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện
nghèo không có khả năng thoả mãn nhu cầu
tối thiểu của cuộc sống (ăn, mặc, ở, đi lại...);
nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận
dân cư thuộc diện nghèo có mức sống dưới
mức sống trung bình của cộng đồng và địa
phương đang xét. Hộ nghèo được xem là tình
trạng của một số hộ gia đình chỉ thỏa mãn
một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và
có mức sống thấp hơn mức sống trung bình
của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Trong khi đó, hộ đói được quan niệm là hộ có
mức sống dưới mức tối thiểu không đủ đảm
bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống
hay nói cách khác đó là một bộ phận dân cư
hàng năm thiếu ăn, đứt bữa, thường xuyên
phải vay nợ và thiếu khả năng trả nợ. Từ đây,
khái niệm về chính sách xóa đói, giảm nghèo
được định nghĩa như sau: Chính sách xóa đói,
giảm nghèo là tổng thể các biện pháp chính
sách của nhà nước và xã hội hay là của chính
những đối tượng thuộc diện nghèo đói, nhằm
tạo điều kiện để họ có thể tăng thu nhập,
thoát khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng
được những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở
chuẩn nghèo được quy định theo từng địa
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
50
phương, khu vực, quốc gia (Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An Giang, 2014, tr.
36).
Như vậy, nghèo đói là một phạm trù lịch sử,
có tính tương đối. Tính chất và đặc trưng của
nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện địa lý tự
nhiên, nhân tố chính trị, văn hóa và trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của vùng, miền,
quốc gia, khu vực. Đặc điểm này có ý nghĩa
quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cơ
sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải pháp
xóa đói, giảm nghèo ở nước ta, nhất là vùng
dân cư nông nghiệp và nông thôn hiện nay.
2.2 Khái niệm đói, nghèo của thế giới
Nhìn chung, mỗi quốc gia đều sử dụng một
khái niệm để xác định mức độ nghèo khổ và
đưa ra các chỉ số nghèo khổ để xác định giới
hạn nghèo khổ. Giới hạn nghèo khổ của các
quốc gia được xác định bằng mức thu nhập
tối thiểu để người dân có thể tồn tại được, đó
là mức thu nhập mà một hộ gia đình có thể
mua sắm được những vật dụng cơ bản phục
vụ cho việc ăn, mặc, ở và các nhu cầu thiết
yếu khác theo mức giá hiện hành. Đến nay,
nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế đã
đưa ra các khái niệm khác nhau về đói nghèo,
nhưng nhìn chung, chúng không có sự khác
biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định
đói nghèo trong các khái niệm này là mức thu
nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu
cơ bản, tối thiểu của con người về ăn, ở, mặc,
y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã
hội. Sự khác nhau giữa các khái niệm là mức
đo lường độ thỏa mãn cao hay thấp, mà mức
đó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của
từng vùng, từng quốc gia. Đáng chú ý là
nhiều công trình nghiên cứu và nhiều quốc
gia đã sử dụng khái niệm người nghèo của Tổ
chức Liên Hợp Quốc.
Theo khái niệm của Tổ chức Lao động Thế
giới (ILO), đói nghèo là tình trạng một bộ
phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người đã được
xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển
kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của các
địa phương. Theo định nghĩa này thì mức độ
nghèo đói ở các nước khác nhau là không
giống nhau. Theo số liệu của Ngân hàng Thế
giới (năm 2012), trên thế giới có khoảng 1,2
tỷ người sống dưới mức nghèo khổ, trong đó
phần lớn là phụ nữ và trẻ em (Liên hiệp các
Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An Giang, 2014,
tr. 35).
Tại Hội nghị về chống đói, nghèo do Ủy ban
Kinh tế - Xã hội khu vực châu Á - Thái Bình
Dương (ESCAP) tổ chức tại Bangkok (Thái
Lan) vào tháng 9/1993, các quốc gia trong
khu vực đã thống nhất cao và cho rằng:
“Nghèo khổ là tình trạng một bộ phận dân cư
không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu
cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã
hội, phong tục tập quán của từng vùng và
những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”.
Nhu cầu cơ bản của con người bao gồm: Ăn,
ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao
tiếp xã hội. Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới
về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhaghen,
Đan Mạch vào năm 1995, đã đưa ra một định
nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói: “Người nghèo
là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới
01 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số
tiền được coi như đủ mua những sản phầm
thiết yếu để tồn tại”.
Ngoài ra, Ngân hàng Thế giới còn đưa ra
quan niệm, nghèo là một khái niệm đa chiều
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
51
vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất,
nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu
nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan
đến năng lực như dinh dưỡng, sức khỏe, giáo
dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có
quyền phát ngôn và không có quyền lực (Sở
Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh An Giang,
2008, tr. 1).
3. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI, THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
TRONG VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
KHMER Ở AN GIANG HIỆN NAY
3.1 Những thành tựu đạt được
Trong định hướng Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Đảng ta đã xác
định: “Nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc
sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận
các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ
cơ bản, các phúc lợi xã hội. Thực hiện có hiệu quả
hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời
kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để
đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các
huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn.
Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh
số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có chính
sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa
giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông
thôn và thành thị” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2011, tr. 124 - 125).
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có
nhiều chủ trương, chính sách về công tác dân tộc
như Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989
của Bộ Chính trị về một số chủ trương chính sách
lớn nhằm phát triển kinh tế - xã hội miền núi, Chỉ
thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khoá VI) về công tác ở vùng
đồng bào Khmer. Đặc biệt từ khi có Nghị quyết số
24/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân
tộc; Nghị quyết 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của
Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững
thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020, Tỉnh uỷ, Ủy
ban Nhân dân Tỉnh đã kịp thời chỉ đạo các cấp,
các ngành, phối hợp cùng với Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể, cơ quan thông tin đại chúng quán
triệt trong nội bộ, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp
nhân dân, tuyên truyền, phổ biến đến các vị chức
sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo, nhằm nâng cao
nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận trong
thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; trong đó có chính sách
giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer.
Ngoài ra, Tỉnh ủy cũng đã ban hành Nghị quyết số
09-NQ/TU ngày 23/10/2007 về phát triển kinh tế -
xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer đến năm
2010 và định hướng đến năm 2015.
Các chính sách dân tộc đã và đang được triển khai
thực hiện trên địa bàn tỉnh An Giang gồm có:
Quyết định 29/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ giải quyết
đất ở và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng
bằng sông Cửu Long giai đoạn 2013 - 2015;
Quyết định 2472/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về việc cấp một số ấn phẩm báo, tạp
chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng
đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 - 2015; Quyết
định 755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh
hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và
hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; Quyết
định số 2239/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân
tỉnh An Giang về việc ban hành Kế hoạch thực
hiện Đề án tuyên truyền phổ biến pháp luật cho
người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số
từ năm 2013 đến năm 2016 trên địa bàn tỉnh An
Giang... Bên cạnh đó, Tỉnh còn ban hành nhiều
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
52
chính sách kêu gọi đầu tư đối với các xã đặc biệt
khó khăn, xã biên giới, xã có đông đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống, đồng thời, xây dựng các cơ
chế, chính sách thông thoáng, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thúc đẩy phát triển kinh tế biên giới
gắn với phát huy lợi thế về dịch vụ, du lịch, tạo
đòn bẩy phát triển vùng có đông đồng bào dân tộc
Khmer sinh sống.
Việc triển khai, thực hiện có hiệu quả các chính
sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc
Khmer, đem lại nhiều kết quả quan trọng, góp
phần vào phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương theo hướng bền vững, đặc biệt là vùng có
đông đồng bào dân tộc Khmer ở 02 huyện Tịnh
Biên và Tri Tôn, có nhiều chuyển biến tích cực,
bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc rõ nét, tỷ lệ
hộ nghèo giảm, đời sống của một bộ phận khá lớn
đồng bào dân tộc Khmer ngày càng được nâng
lên, cụ thể như sau:
Đối với công tác đào tạo nghề và giải quyết việc
làm, Tỉnh tập trung huy động được nhiều nguồn
lực từ Nhà nước và xã hội để chăm lo cho các đối
tượng khó khăn với kinh phí năm sau cao hơn
năm trước (tổng nguồn lực đầu tư hàng năm từ
1.000 - 1.700 tỷ đồng). Hầu hết các địa phương,
nhất là cấp xã tích cực tổ chức triển khai các
chính sách an sinh xã hội trên địa bàn đảm bảo kịp
thời đưa chính sách đến người dân...; đa số thành
viên trong tổ an sinh xã hội ở cấp xã đã tiếp cận
được các chính sách và đề xuất nhiều giải pháp
thực hiện có hiệu quả, phù hợp với tình hình thực
tế ở từng địa phương. Các địa phương chú trọng
thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho
người lao động. Ngoài hỗ trợ đào tạo nghề, vốn
giải quyết việc làm tại chỗ, nhiều địa phương đã
gắn kết với các doanh nghiệp trong và ngoài Tỉnh
để đưa lao động đi làm việc. Kết quả giải quyết
việc làm đều đạt và vượt chỉ tiêu hằng năm (bình
quân giải quyết việc làm thường xuyên khoảng
35.000 người/năm).
Đối với công tác giảm nghèo, Tỉnh đã tập trung
phát triển kinh tế - xã hội, triển khai các chính
sách giảm nghèo và giải quyết việc làm; phát
động nhiều phong trào giúp nhau giảm nghèo đạt
hiệu quả thiết thực, nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo đã
giảm khá mạnh, cụ thể: tỷ lệ hộ nghèo chung cả
Tỉnh (theo Quyết định 170/2005/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ) từ 13,15% (năm 2007), với
49.198 hộ giảm xuống còn 3,59% (cuối năm
2010), với 18.756 hộ, tỷ lệ bình quân giảm
1,8%/năm. Căn cứ chuẩn nghèo mới (theo Quyết
định 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ)
vào cuối năm 2011 là 7,84% (tương đương 41.281
hộ), giảm xuống còn 4,67% (tương đương 26.945
hộ) vào cuối năm 2013, tỷ lệ bình quân giảm
1,21%/năm. Cuối năm 2014 còn 3,65% (tương
đương 19.840 hộ), tỷ lệ bình quân giảm
1,31%/năm, đến cuối năm 2015 toàn Tỉnh giảm
còn 2,5% (tương đương 13.500 hộ), giảm bình
quân 1,15%/năm. Như vậy, trong 05 năm hộ
nghèo giảm 6,78% (bình quân hàng năm giảm gần
1,40% ). Theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai
đoạn 2016 - 2020 (Quyết định số 59/2015/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ) đầu năm 2016
trên địa bàn Tỉnh có 45.789 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ
8,45%, cuối năm 2016 giảm còn 6,75% (tương
đương 36.726 hộ) giảm 1,7%/năm. Đến cuối năm
2017, hộ nghèo toàn Tỉnh còn 28.461 hộ, chiếm tỷ
lệ 5,24% giảm 1,51%.
Đối với vùng dân tộc thiểu số cũng có nhiều
chuyển biến tích cực, đời sống từng bước được
nâng lên thông qua các chương trình, dự án đầu tư
của Trung ương và địa phương. Theo thống kê
của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh An
Giang, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số trong thời
gian qua giảm từ 31,43%, với 6.895 hộ (năm
2007) xuống còn 20,5%, với 4.550 hộ (năm
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
53
2010), bình quân giảm 2,73%/năm, với 586
hộ/năm (chuẩn cũ); tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu
số giảm từ 22,70% (tương đương 5.950 hộ) năm
2011 xuống còn 17,37% (tương đương 4.870 hộ)
vào cuối năm 2013 (chuẩn mới). Cuối năm 2014
giảm còn 14,55% (tương đương 4.080 hộ) giảm
bình quân 2,82%/năm. Đến cuối năm 2015, toàn
Tỉnh giảm còn 13,07% (tương đương 3.663 hộ)
giảm 1,48%/năm. Hộ dân tộc thiểu số trong 05
năm giảm 15,12% (bình quân hàng năm giảm trên
3%). Theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai
đoạn 2016 - 2020 (Quyết định số 59/2015/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ) đầu năm 2016 có
7.295 hộ, tỷ lệ 27,46%, cuối năm 2016 giảm còn
24,17% (tương đương 6.593 hộ) giảm bình quân
3,29%/năm, đến cuối năm 2017 giảm còn 21,48%
(tương đương 5.721 hộ) giảm bình quân
2,69%/năm.
Riêng tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc
Khmer trong thời gian qua giảm nhanh qua các
năm: (1) Theo chuẩn nghèo cũ, tỷ lệ hộ nghèo
vùng đồng bào dân tộc Khmer giảm từ 31,73%
(tương đương 7.171 hộ) đầu năm 2011 xuống còn
24,72% (tương đương 5.587 hộ) cuối năm 2011;
đến cuối năm 2012 giảm còn 24,67% (tương
đương 5.575 hộ), giảm xuống còn 19,14% (tương
đương 4.616 hộ) vào cuối năm 2013; cuối năm
2014 giảm còn 16,1% (tương đương 3.882 hộ);
đến cuối năm 2015 giảm còn 14,99% (tương
đương 3.487 hộ). Hộ nghèo vùng đồng bào dân
tộc Khmer trong 05 năm giảm 16,74% (bình quân
hàng năm giảm trên 3,35%).
Hình 1. Thống kê tỷ lệ hộ nghèo dân tộc Khmer theo chuẩn nghèo cũ
(Nguồn: Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh An Giang)
(2) Theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn
2016 - 2020 (Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ), tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng
bào dân tộc Khmer giảm từ 32,29% (tương đương
6.949 hộ) đầu năm 2016 xuống còn 27,76%
(tương đương 6.268 hộ) cuối năm 2016, đến cuối
năm 2017 giảm còn 24,85% (tương đương 5.432
hộ).
31.73
24.72 24.67
19.14
16.1 14.99
0
5
10
15
20
25
30
35
Đầu năm 2011 Cuối năm
2011
Cuối năm
2012
Cuối năm
2013
Cuối năm
2014
Cuối năm
2015
T
ỷ
lệ
%
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
54
Hình 2. Thống kê tỷ lệ hộ nghèo dân tộc Khmer theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều
(Nguồn: Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh An Giang)
3.2 Những hạn chế và nguyên nhân
3.2.1 Những hạn chế
Một là, nước ta có quá nhiều chính sách về giảm
nghèo nên gây ra lúng túng, khó khăn trong triển
khai. Việc có quá nhiều chính sách về giảm nghèo
được ban hành, dẫn đến tình trạng tản mạn và
trùng lặp gây khó khăn cho địa phương trong quá
trình triển khai thực hiện chính sách trên thực tế.
Cán bộ triển khai trực tiếp mất nhiều thời gian
trong tập huấn, tìm hiểu chính sách.
Hai là, nhiều chính sách giảm nghèo chưa nhằm
vào nâng cao năng lực tự thoát nghèo cho người
nghèo. Một số chính sách giảm nghèo mang tính
bao cấp, hỗ trợ trực tiếp nên hình thành tâm lý ỷ
lại, thụ động, trông chờ vào hỗ trợ của Nhà nước
ở một bộ phận người nghèo. Việc này tạo ra hệ
lụy không mong muốn của chính sách, đó là
người dân không muốn thoát nghèo để được
hưởng lợi từ chính sách giảm nghèo và cán bộ cơ
sở cũng không muốn địa phương mình thoát
nghèo để được hưởng hỗ trợ.
Ba là, mức hỗ trợ thấp trong nhiều chính sách
dẫn tới dàn trải, khó giúp cải thiện cuộc sống
người nghèo. Nhiều chính sách ban hành căn cứ
trên hiện trạng, nhu cầu nhưng lại chưa cân đối
được nguồn lực để thực hiện. Chính sách giảm
nghèo có nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp nhưng
với mức hỗ trợ rất nhỏ lẻ, làm cho sự hỗ trợ trở
nên phân tán, ít mang lại hiệu quả trong giảm
nghèo mà chỉ có tính động viên, khắc phục một
vài khó khăn trước mắt.
Chính sách giảm nghèo thường đặt mục tiêu cao,
việc phê duyệt dự án thường dựa trên nhu cầu
nhưng không dựa trên cân đối nguồn lực, làm cho
nhiều đề án, chính sách luôn trong tình trạng
không cấp đủ ngân sách. Điều này dẫn tới khó
giải quyết dứt điểm, kém bền vững trong thực
hiện chính sách giảm nghèo.
Bốn là, ngân sách dành cho giảm nghèo phân bổ
chưa tương xứng giữa đầu tư cho xây dựng kết
cấu hạ tầng và hỗ trợ phát triển sản xuất kinh
doanh tạo thu nhập cho người nghèo. Nguồn ngân
sách hỗ trợ cho hộ nghèo phát triển sinh kế chưa
32.29
27.76
24.85
0
5
10
15
20
25
30
35
Đầu năm 2016 Cuối năm 2016 Cuối năm 2017
T
ỷ
lệ
%
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
55
được chú trọng đúng mức, trong khi đó, việc xây
dựng kết cấu hạ tầng tốn kém nhiều nhưng hiệu
quả mang lại thấp đối với cả vùng, hoặc cơ hội
hưởng lợi từ các công trình mang lại cho tất cả
người dân trong vùng còn hạn chế. Thực tế, người
nghèo ít có cơ hội hơn để hưởng lợi do công trình
hạ tầng mang lại so với hộ không nghèo, do họ ít
có điều kiện để đa dạng hóa sinh kế, qua đó khó
tăng thu nhập để thoát nghèo.
Năm là, nhiều hộ nghèo triền miên nhưng lại
chưa có chính sách phù hợp đối với họ. Nhiều
đồng bào dân tộc Khmer nghèo triền miên, đời
sống rất thấp và không hoặc rất ít có điều kiện để
thoát nghèo. Hầu hết những hộ này là đồng bào
dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Ở
những nơi này do cơ cấu kinh tế chậm chuyển
dịch, chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông
nghiệp, trong khi điều kiện sản xuất nông nghiệp
khó khăn và cơ hội chuyển đổi sang nghề khác rất
thấp nên hầu hết thanh niên lớn lên lại làm nông
nghiệp giống như cha mẹ mình và cái nghèo đeo
bám họ từ đời này sang đời khác. Vì vậy, họ rơi
vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói không thoát ra
được.
Sáu là, nhiều hộ thoát nghèo nhưng lại rất dễ tái
nghèo trở lại. Hộ mới thoát nghèo, hộ cận nghèo
rất dễ bị tái nghèo trở lại khi gặp phải những rủi
ro hay cú sốc từ bên ngoài. Các rủi ro về thiên tai,
thời tiết, dịch bệnh và rủi ro thị trường là những
nguyên nhân chính làm cho hộ nghèo thoát nghèo
không bền vững. Điều này cho thấy cần có các
chính sách giảm nghèo và chính sách bảo hiểm
cũng như chính sách giúp người dân giảm thiểu và
thích ứng với rủi ro.
Bảy là, chính sách giảm nghèo hiện tại chủ yếu
tập trung vào tăng thu nhập cho người nghèo,
chưa chú trọng đúng mức việc tăng phúc lợi cho
người nghèo. Mặc dù thu nhập là chỉ tiêu quan
trọng nhưng thu nhập cũng chỉ là điều kiện cần để
nâng cao phúc lợi cho người dân nói chung và
người nghèo nói riêng. Việc hỗ trợ để người
nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cũng
quan trọng không kém với việc hỗ trợ, tạo điều
kiện để tăng thu nhập.
3.2.2 Nguyên nhân của hạn chế
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy những hạn
chế trên đây là do những nguyên nhân khách quan
và chủ quan sau đây:
* Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, An Giang là tỉnh đông dân nhất Đồng
bằng sông Cửu Long, vị trí địa lý cách xa trung
tâm lớn, phát triển chủ yếu dựa vào nông nghiệp,
nền kinh tế của Tỉnh tăng trưởng chưa ổn định,
thiếu bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, những giải
pháp tạo việc làm có thu nhập cho người nghèo
chưa cơ bản và thiếu ổn định (chủ yếu là sản xuất
nhỏ gia đình); thị trường tiêu thụ, xuất khẩu nông
sản gặp khó khăn, tình trạng “trúng mùa, rớt giá”
diễn ra thường xuyên, gây khó khăn cho cả doanh
nghiệp và người dân. Mặt khác, thiên tai, lũ lụt
hàng năm, luôn làm biến động về tăng giảm hộ
nghèo, hàng năm hộ nghèo giảm nhiều nhưng
phát sinh mới cũng cao.
Thứ hai, địa bàn đầu tư chương trình, chính sách
dân tộc là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới nên hầu hết đều gặp những khó khăn nhất
định về cơ sở hạ tầng, môi trường sinh hoạt cũng
như về trình độ dân trí.
Thứ ba, việc thiếu nhà ở, đất ở của đồng bào dân
tộc là do trước đây vùng đất này còn nhiễm phèn
nặng, đất đai khó canh tác, hệ thống thủy lợi chưa
hoàn chỉnh, thiếu hệ thống tưới tiêu, nên nhiều bà
con đã bỏ đất đai, nhà ở đi nơi khác làm ăn sinh
sống.
Thứ tư, tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn
xã hội nhất là trong vùng dân tộc, biên giới tiềm
ẩn nhiều diễn biến phức tạp. Tình trạng tranh
chấp, khiếu kiện có liên quan đến đất đai diễn
biến phức tạp.
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
56
* Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, việc triển khai các chính sách, dự án
giảm nghèo đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu
số đòi hỏi có nhiều nguồn vốn, suất đầu tư lớn.
Trong khi đó, nguồn vốn phân bổ của Trung ương
về địa phương để triển khai, thực hiện các chính
sách dân tộc còn phân tán nhỏ lẻ, đầu tư dàn trải,
không tập trung, kinh phí được cấp quá thấp
không tương xứng với quy mô đòi hỏi được đầu
tư của địa phương, từ đó, việc thực hiện chính
sách chưa đạt hiệu quả cao, kinh tế - xã hội vùng
đồng bào dân tộc còn nhiều bất cập, chưa mang
tính ổn định.
Thứ hai, trình độ dân trí trong đồng bào dân tộc
còn thấp, phong tục tập quán còn lạc hậu, điểm
xuất phát về kinh tế - xã hội thấp. Nhiều bà con
dân tộc còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào chính
sách hỗ trợ của Nhà nước, chưa chủ động phát
huy hết nội lực, cố gắng vươn lên thoát nghèo.
Thứ ba, ở vùng nông thôn, nhất là đồng bào dân
tộc thiểu số, việc sinh con thứ ba trở lên vẫn còn
phổ biến, với quan niệm gia đình đông con sẽ có
đủ nguồn nhân lực giúp ích cho việc canh tác,
trồng trọt được thuận lợi; sau khi con cái lập gia
đình, lại có nhu cầu có chỗ ở riêng, tách hộ. Ngoài
ra, đa số người dân tộc nghèo thường đi làm thuê
mướn theo thời vụ hoặc đi làm ăn xa, dài hạn.
Những người này khi trở về hoặc những người từ
nơi khác đến sinh sống lại có nhu cầu về nơi ở,
nơi làm ăn, nên hộ gia đình thiếu nhà ở, đất ở tiếp
tục phát sinh.
Thứ tư, một số cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt
trận và các đoàn thể chưa nhận thức đầy đủ ý
nghĩa chiến lược và vị trí, tầm quan trọng của
công tác dân tộc. Việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
thực hiện các chủ trương, chính sách của Trung
ương và Tỉnh về thực hiện công tác dân tộc có nơi
chưa thật tốt. Năng lực lãnh đạo của một số cấp
uỷ, chính quyền ở những vùng có đông đồng bào
dân tộc thiểu số còn hạn chế. Việc vận dụng, cụ
thể hoá chủ trương, nghị quyết của cấp trên thiếu
sáng tạo, chưa sát với tình hình cơ sở. Một số địa
phương (các phường, xã) còn chậm trong xây
dựng kế hoạch xoá đói giảm nghèo, giải quyết
việc làm, có đăng ký chỉ tiêu nhưng chưa đề ra
giải pháp cụ thể, phù hợp để thực hiện các chỉ tiêu
đó.
Thứ năm, đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số
chưa đáp ứng yêu cầu. Cán bộ chính quyền, mặt
trận, các đoàn thể ở địa bàn có đông đồng bào dân
tộc phần lớn không biết nói tiếng dân tộc, am hiểu
phong tục tập quán, sinh hoạt văn hoá của đồng
bào còn ít, từ đó làm hạn chế công tác tuyên
truyền, vận động, thực hiện chính sách, chương
trình, dự án của Chính phủ.
4. PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC
TRIỂN KHAI, THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH GIẢM NGHÈO TRONG VÙNG
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER Ở AN
GIANG
4.1 Phương hướng cơ bản
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An
Giang lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020 xác định:
“Giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo thêm nhiều việc
làm. Nâng chất lượng dạy nghề, giải quyết việc
làm, giảm nghèo bền vững; nâng cao tỷ lệ xuất
khẩu lao động chất lượng cao. Thực hiện tốt các
chính sách an sinh xã hội, chăm sóc người có
công, công tác bình đẳng giới và các quyền trẻ
em. Mức giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn 2016 -
2020) bình quân 1,5%/năm” (Tỉnh ủy An Giang,
2015, tr. 8). Đồng thời, phương hướng giải quyết
vấn đề giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc
Khmer ở An Giang, Tỉnh cần tập trung một số
phương hướng cơ bản sau:
Một là, đa dạng hoá các nguồn lực và phương
thức thực hiện công tác giảm nghèo theo hướng
phát huy cao độ nội lực và kết hợp sử dụng có
hiệu quả sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế. Nhà
nước cần đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
57
trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức
để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn
lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách
bền vững; kết hợp chính sách của Nhà nước với
sự giúp đỡ trực tiếp và có hiệu quả của toàn xã
hội, của những người khá giả cho người nghèo, hộ
nghèo, nhất là đối với những vùng đặc biệt khó
khăn.
Hai là, đẩy mạnh việc thực hiện chính sách về trợ
giúp đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đất sản
xuất; trợ giúp đất ở, nước sạch, đào tạo nghề và
tạo việc làm cho đồng bào dân tộc Khmer. Có
chính sách khuyến khích mạnh các doanh nghiệp,
các hộ giàu đầu tư vốn phát triển sản xuất ở nông
thôn, nhất là nông thôn vùng núi. Phát huy hơn
nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân tham gia công tác giảm nghèo.
Ba là, công tác giảm nghèo trong vùng đồng bào
dân tộc Khmer đến năm 2020, cần hướng tới thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế vì người nghèo, tăng
cường và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng thiết
yếu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện
chất lượng cuộc sống ở các huyện nghèo, xã
nghèo, xã đặc biệt khó khăn. Tạo cơ hội để người
nghèo, hộ nghèo ổn định và đa dạng hóa việc làm,
tăng thu nhập, đẩy nhanh tiến độ giảm nghèo và
duy trì thành quả của công cuộc giảm nghèo, hạn
chế tái nghèo; giảm thiểu tình trạng gia tăng bất
bình đẳng về thu nhập và mức sống giữa nông
thôn và thành thị, các nhóm dân cư; tăng cường
khả năng tiếp cận pháp lý cho người nghèo; bảo
vệ phụ nữ và trẻ em nghèo.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc có phẩm
chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; củng
cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ở các
xã, thị trấn vùng dân tộc; nâng cao vị trí vai trò
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
trong việc tham gia thực hiện tốt chính sách dân
tộc.
4.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc
triển khai, thực hiện chính sách giảm
nghèo trong vùng đồng bào dân tộc
Khmer ở An Giang hiện nay
Từ việc phân tích những thành tựu và hạn chế trên
đây, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau đây:
Một là, việc lồng ghép các chính sách giảm nghèo
cần thực hiện ngay ở cấp Trung ương và cấp Tỉnh.
Thực tế ở địa phương, hiện rất khó lồng ghép
những chính sách xã hội và chính sách tài chính
sử dụng vốn sự nghiệp vì mỗi chính sách lại do
các cơ quan chủ trì khác nhau với quy trình, đối
tượng, phạm vi, ngân sách, định mức, chế độ báo
cáo, kiểm tra, giám sát khác nhau. Vì vậy, ngay ở
cấp Trung ương và cấp tỉnh, các chính sách có
cùng nội dung cần được tích hợp, lồng ghép lại và
do một cơ quan chủ trì thì sẽ có hiệu quả hơn và
dễ thực hiện hơn.
Hai là, để tháo gỡ tâm lý ỷ lại, Nhà nước cần
giảm mạnh những hỗ trợ trực tiếp, cho không và
chuyển dần sang hỗ trợ có điều kiện, hỗ trợ có thu
hồi và nâng cao ý thức của người hưởng lợi; chú
trọng tập trung ngân sách cho hỗ trợ hộ nghèo
phát triển sản xuất kinh doanh để thoát nghèo,
nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của người
nghèo để giúp họ thoát nghèo bền vững; tạo điều
kiện để người nghèo tham gia vào các chuỗi giá
trị hàng nông sản; thay việc hỗ trợ sinh kế tản
mạn, nhỏ lẻ hiện nay thành các tiểu dự án hỗ trợ
sinh kế cho xã hội và có thời gian hoạt động đủ
dài để xây dựng phương án sinh kế giảm nghèo
theo điều kiện và khả năng của người dân.
Ba là, chúng ta cần phân loại những hộ nghèo
theo nguyên nhân nghèo, nhất là đối với những hộ
nghèo triền miên để có chính sách phù hợp. Đối
với nhóm hộ không có khả năng thoát nghèo cần
có chính sách an sinh xã hội cụ thể như: nâng cao
năng lực cho hộ nghèo, giúp cải thiện sinh kế
thoát nghèo bền vững; mở rộng chính sách hỗ trợ
sinh kế đối với những hộ mới thoát nghèo, hộ cận
nghèo; chuyển dần chính sách giảm nghèo từ việc
chỉ tập trung vào tăng thu nhập cho người nghèo
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 47 – 58
58
sang việc tăng phúc lợi và tạo cơ hội cho người
nghèo để giúp họ thoát nghèo bền vững.
Bốn là, Nhà nước cần tăng cường chính sách giảm
nghèo lồng ghép với các chính sách bảo hiểm,
giảm thiểu rủi ro và thích ứng với biến đổi khí
hậu. Thực tế cho thấy các hộ nghèo dễ bị tổn
thương khi gặp các cú sốc từ bên ngoài (thiên tai,
thời tiết, dịch bệnh, giá cả tăng thất thường), và
cũng có phản ứng khác nhau trước những cú sốc
đó để tránh rơi vào vòng luẩn quẩn.
Năm là, các địa phương cần tiếp tục chỉ đạo đẩy
mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giảm
nghèo, biểu dương, động viên kịp thời các gương
điển hình có hiệu quả về giảm nghèo, đồng thời
phê phán các trường hợp lợi dụng chính sách,
không có ý chí vươn lên, không muốn thoát
nghèo.
Triển khai đồng bộ các giải pháp trên đây sẽ là
một trong những điều kiện góp phần nâng cao
hiệu quả việc thực hiện chính sách giảm nghèo
trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang
hiện nay cũng như sắp tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI. (2012).
Nghị quyết số 15-NQ/TW, Hội nghị lần thứ V
về Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn
2012 - 2020. Hà Nội: Văn phòng Trung ương
Đảng.
Ban Dân tộc tỉnh An Giang. (2013). Báo cáo tình
hình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào
dân tộc thiểu số Khmer từ năm 2000 đến năm
2010 và định hướng đến năm 2015.
Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội:
NXB. Chính trị Quốc gia.
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An
Giang. (2014). Kỷ yếu Hội thảo Khoa học về
giảm nghèo bền vững ở An Giang: Cơ hội và
thách thức.
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh An
Giang. (2008). Tài liệu tập huấn cán bộ giảm
nghèo cấp tỉnh, huyện.
Tỉnh ủy An Giang. (2013). Báo cáo số 151-
BC/TU về việc đánh giá chính sách an sinh xã
hội và thực hiện chính sách an sinh xã hội giai
đoạn 1991 - 2013. An Giang: Văn phòng Tỉnh
ủy.
Tỉnh ủy An Giang. (2013). Chương trình hành
động số 21-CTr/TU thực hiện Nghị quyết 15-
NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá
XI) về một số vấn đề chính sách xã hội giai
đoạn 2012 - 2020. An Giang: Văn phòng Tỉnh
ủy.
Tỉnh ủy An Giang. (2010). Nghị quyết số 09-
NQ/TU về phát triển kinh tế - xã hội vùng
đồng bào dân tộc thiểu số Khmer đến năm
2010 và định hướng đến năm 2015. An Giang:
Văn phòng Tỉnh ủy.
Tỉnh ủy An Giang. (2015). Nghị quyết Đại hội đại
biểu lần thứ X Đảng bộ tỉnh An Giang nhiệm
kỳ 2015 - 2020. An Giang: Văn phòng Tỉnh
ủy.
Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang. (2011). Báo cáo
số 234/BC-UBND về việc đánh giá kết quả
giảm nghèo bền vững giữa kỳ giai đoạn 2011 -
2015. An Giang: Văn phòng UBND Tỉnh.
Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang. (2016). Kế
hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc
gia giảm nghèo bên vững tỉnh An Giang, giai
đoạn 2016 - 2020. An Giang: Văn phòng
UBND Tỉnh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1569831231_06_le_thien_minh_xpdf_2151_2189620.pdf