Tài liệu Một số chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh: 72
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
MỘT SỐ CHÍNH SÁCH NHẰM THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ
VÀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Trương Hải Hiếu*
* ThS. NCS. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Với mục tiêu phát triển 500.000 doanh
nghiệp đến nĕm 2020 không phải là con số đơn
thuần mà là 500.000 doanh nghiệp mạnh, chất
lượng để phát triển kinh tế thành phố, chính
quyền thành phố Hồ Chí Minh đang tập trung
hỗ trợ hộ kinh doanh, cải thiện môi trường
trường đầu tư và môi kinh doanh hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp, hỗ trợ đầu tư trang thiết bị,
công nghệ mới, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Bài viết này mạnh dạn đề xuất một số chính
sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đầu
tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp để có thể
đạt được 500.000 doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh vào nĕm 2020.
Từ Khoá: chính sách, đầu tư, phát triển,
doanh nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh
ABSTRACT
With the goal of developing 500,000
...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 513 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
72
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
MỘT SỐ CHÍNH SÁCH NHẰM THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ
VÀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Trương Hải Hiếu*
* ThS. NCS. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Với mục tiêu phát triển 500.000 doanh
nghiệp đến nĕm 2020 không phải là con số đơn
thuần mà là 500.000 doanh nghiệp mạnh, chất
lượng để phát triển kinh tế thành phố, chính
quyền thành phố Hồ Chí Minh đang tập trung
hỗ trợ hộ kinh doanh, cải thiện môi trường
trường đầu tư và môi kinh doanh hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp, hỗ trợ đầu tư trang thiết bị,
công nghệ mới, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Bài viết này mạnh dạn đề xuất một số chính
sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đầu
tư và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp để có thể
đạt được 500.000 doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh vào nĕm 2020.
Từ Khoá: chính sách, đầu tư, phát triển,
doanh nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh
ABSTRACT
With the goal of developing 500,000
enterprises by 2020, it is not the only number
but 500,000 strong and quality enterprises to
develop the city’s economy. The Ho Chi Minh
City government is focusing on supporting
business households, improve the environment of
investment and business environment to support
start-up enterprises, support investment in new
equipment and technology, expand production
and business. This article boldly proposes a
number of policies and measures to promote
investment and business development support to
reach 500,000 enterprises in Ho Chi Minh City
by 2020.
Keywords: policy, investment,
development, enterprises, Ho Chi Minh City
SOME POLICIES TO PROMOTE INVESTMENT AND SUPPORT BUSINESS
DEVELOPMENT ON HO CHI MINH CITY
1. CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ
Chính sách đầu tư của thành phố, về tổng
thể, tập trung vào hai mục tiêu chính: chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng
tĕng trưởng. Để thực hiện các mục tiêu này,
các công cụ chính sách được sử dụng chủ yếu
là các công cụ kinh tế dựa trên các tín hiệu thị
trường gồm:
Xác định các ngành, sản phẩm, lĩnh vực
trọng điểm đầu tư giai đoạn 2001-2005, thành
phố xác định ưu tiên cho các ngành công nghệ
cao như công nghiệp điện tử-viễn thông, ứng
dụng công nghệ sinh học; dịch vụ cấp cao như
tài chính, ngân hàng, tin học, phần mềm, du
lịch chất lượng cao; phát triển mạnh dịch vụ
vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng, kho vận và vận
tải công cộng đô thị; đầu tư phát triển xây dựng
nông thôn mới; củng cố các sản phẩm chủ lực
vẫn còn lợi thế cạnh tranh (chế biến lương
thực-thực phẩm, hóa chất-cao su-plastic, dệt
da và may, sản phẩm cơ khí và kim loại). Giai
đoạn 2006-2010, thành phố xác định 09 nhóm
ngành dịch vụ tài chính - tín dụng - ngân hàng
73
Một số chính sách nhằm thúc đẩy...
- bảo hiểm; thương mại (tập trung các loại dịch
vụ phục vụ xuất khẩu); vận tải, kho bãi, dịch
vụ cảng (chú ý các dịch vụ hàng hải quốc tế);
bưu chính - viễn thông và công nghệ thông tin
- truyền thông; kinh doanh tài sản - bất động
sản (phát triển đô thị mới; nhà ở; vĕn phòng
cho thuê); dịch vụ tư vấn, khoa học - công
nghệ (thị trường công nghệ); du lịch (tập trung
du lịch quốc tế); y tế và giáo dục - đào tạo
chất lượng cao; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
sinh học; vừa củng cố các ngành công nghiệp
truyền thống theo hướng tĕng tỉ trọng giá trị gia
tĕng, vừa tập trung hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu
công nghiệp sang các sản phẩm và ngành công
nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ cao,
có giá trị gia tĕng lớn, bao gồm : (1) cơ khí chế
tạo; (2) điện tử - viễn thông - tin học; (3) công
nghiệp hóa chất và dược phẩm; (4) chế biến
lương thực thực phẩm giá trị tĕng cao. Giai
đoạn 2011-2015 tiếp tục thúc đẩy phát triển 09
nhóm ngành dịch vụ, 04 ngành công nghiệp
có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị
gia tĕng cao và các ngành công nghệ sinh học,
công nghiệp sạch, tiết kiệm nĕng lượng, công
nghiệp phụ trợ, đầu tư hiện đại hóa ngành xây
dựng sử dụng vật liệu mới.
- Thiết kế các quy định về khuyến khích
đầu tư, xây dựng một số định chế hỗ trợ và
phục vụ đầu tư.
- Giảm bớt chi phí giao dịch với các động
thái cải thiện môi trường đầu tư. Thành phố tập
trung vào hàng loạt các nỗ lực giảm thiểu các
rào cản cho môi trường đầu tư thông qua rà soát
để cải tiến các thủ tục hành chính; công khai,
minh bạch thông tin; chuẩn hóa các quy trình;
tĕng cường công tác xúc tiến đầu tư; thiết lập
các kết nối giữa chính quyền và các nhà đầu tư.
- Chú trọng đầu tư vào các yếu tố phục vụ
cho việc nâng cao chất lượng tĕng trưởng: cơ
sở hạ tầng, môi trường đô thị, nguồn nhân lực,
phát triển khoa học-công nghệ.
Hàng loạt các chương trình, kế hoạch, đề
án đã được xây dựng, ban hành và đi vào triển
khai thực hiện trong giai đoạn 2006-2012,
nhằm cụ thể hóa các nội dung của chính sách
đầu tư. Tích hợp trong các nội dung chính sách
về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong giai đoạn
2005-2012, Ủy ban nhân dân thành phố đã ban
hành Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp giai đoạn 2006-2010 và Quy
định về khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp. Nĕm 2007 thành phố đã phê
duyệt Đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế công
nghiệp – phát triển công nghiệp hiệu quả cao
với chiến lược công nghiệp thành phố sẽ phải
chuyển dịch mạnh theo hướng tĕng nhanh các
ngành công nghiệp công nghệ kỹ thuật cao,
giá trị sản phẩm lớn, có hàm lượng tri thức,
tỷ lệ giá trị tĕng thêm cao. Quy hoạch một số
ngành công nghiệp trọng điểm được phê duyệt.
Một số chương trình và đề án khác được ban
hành hay phê duyệt như Chương trình chuyển
dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, Chương trình hỗ
trợ chuyển dịch cơ cấu ngành du lịch, Chương
trình phát triển thương mại điện tử, Chương
trình phát triển công nghệ thông tin-truyền
thông, Chương trình phát triển du lịch, chương
trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu ngành du lịch,
đề án phát triển kênh phân phối bán buôn và
bán lẻ Nội dung các chương trình, đề án,
quy hoạch, kế hoạch thể hiện các định hướng
về đầu tư hoặc chung chung, hoặc cụ thể, hoặc
trực tiếp, hoặc gián tiếp. Tùy vào thiết kế cụ
thể của từng chương trình, quy hoạch, đề án,
kế hoạch từ các ngành mà tiếp tục lại tích hợp
trong chúng những đề xuất về dự án, chương
trình, đề án, kế hoạch khác.
Thời gian qua, Thành phố cũng đã có
những thiết kế quy định cụ thể về khuyến khích
đầu tư cho một số lĩnh vực và khu vực đặc biệt.
Quyết định 45/2004/QĐ-UBND ngày 24 tháng
02 nĕm 2004 quy định một số chính sách ưu
đãi về quỹ đất, mặt bằng và thủ tục trong đầu
tư đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài
trên địa bàn thành phố với đối tượng áp dụng
là các dự án công nghệ cao, xuất khẩu, đào tạo,
y tế Giai đoạn 2006-2010, thành phố đã ban
hành quy định về khuyến khích chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp giai đoạn 2006-
2010 (Quyết định 105/2006/QĐ-UBND ngày
17 tháng 07 nĕm 2006 và Quyết định 15/2009/
QĐ-UBND ngày 10 tháng 02 nĕm 2009).
Quyết định 36/2011/QĐ-UBND Quy định về
Chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị
74
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
trên địa bàn thành phố giai đoạn 2011 – 2015
tiếp nối sử dụng một công cụ tạo động cơ đầu
tư trong sản xuất nông nghiệp theo đúng định
hướng. Bên cạnh đó, thành phố đã ban hành
một số quy định khuyến khích đầu tư riêng biệt
theo nhu cầu thực tế từ một số khu vực, lĩnh
vực như Khu Y tế kỹ thuật cao, Khu Công viên
phần mềm Quang Trung, đầu tư, khai thác bến
bãi vận tải đường bộ, doanh nghiệp sử dụng lao
động là người sau cai nghiện
Bắt đầu từ nĕm 1999, thành phố thực hiện
Chương trình kích cầu thông qua đầu tư, với
nội dung chủ yếu là thiết kế các ưu đãi về tín
dụng để thu hút đầu tư cho các dự án được cho
là bức xúc đối với phát triển kinh tế-xã hội
của thành phố. Chính sách này đã được thực
hiện trong nhiều nĕm và để phù hợp với tình
hình thực tiễn đã có những thay đổi cĕn bản về
danh mục dự án là đối tượng của Chương trình
cũng như công cụ sử dụng. Chính sách hiện
hành sử dụng công cụ hỗ trợ lãi vay để khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư vay vốn đầu tư
trang thiết bị, mở rộng sản xuất theo chiều sâu;
đầu tư theo các lĩnh vực được xác định là mũi
nhọn, sử dụng công nghệ hiện đại, hàm lượng
khoa học công nghệ, giá trị gia tĕng cao; các
dự án trong lĩnh vực giáo dục, y tế, môi trường.
Chương trình kích cầu thông qua đầu tư đã có
sự điều chỉnh các quy định về thực hiện các dự
án đầu tư cho phù hợp với bối cảnh nền kinh tế
đang có nhiều diễn biến phức tạp (Quyết định
số 20/2009/QĐ-UBND ngày 27 tháng 02 nĕm
2009 và Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND
ngày 28 tháng 05 nĕm 2011)
Với các định hướng đã được xác lập từ Đại
hội Đảng bộ lần VIII, IX thành phố tập trung
các nguồn lực vào việc xây dựng các khu đô thị
mới, các công trình hạ tầng kỹ thuật, quy hoạch
sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, hoàn thiện
các dịch vụ đô thị. Các chính sách được thể hiện
thông qua các dự án cụ thể; những tiêu chuẩn,
quy định, khuôn mẫu ấn định mang tính kỹ thuật
quản lý hạ tầng đô thị và dịch vụ đô thị; những
cơ chế thu hút đầu tư xã hội nhằm huy động
nguồn lực nâng cao chất lượng sống đô thị.
Rất nhiều các loại quy hoạch được ban hành
trong giai đoạn đến nĕm 2015 từ bố trí mạng lưới
đến quy hoạch trong các ngành, lĩnh vực. Nhiều
loại quy chế, quy định được ban hành nhằm tạo
những khuôn mẫu chuẩn trong trật tự quản lý
đầu tư. Tương tác giữa chính quyền với cộng
đồng doanh nghiệp được cải thiện bằng các nỗ
lực thực hiện giải pháp cải thiện môi trường đầu
tư, cải cách các thủ tục hành chính, thông tin
ngày càng được quản lý tốt và minh bạch. Đồng
thời, thành phố cũng đẩy mạnh việc đầu tư nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, khoa học công
nghệ, bảo vệ môi trường thông qua ưu tiên bố
trí vốn đầu tư cho giáo dục, đầu tư xây dựng và
phát triển hạ tầng khoa học và công nghệ, chú
trọng công tác quản lý, bảo vệ và xử lý ô nhiễm
môi trường, thể hiện qua việc huy động nguồn
lực phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách, thiết
kế các chương trình, đề án, dự án, ưu tiên bố trí
vốn ngân sách
Về cơ bản, chính sách đầu tư của thành phố
đã đem lại nhiều kết quả tích cực, thể hiện chủ
yếu qua một số chỉ tiêu tĕng trưởng cơ bản.
Tĕng trưởng kinh tế bình quân của thành phố
giai đoạn 2004-2015 đạt trên 11.4%. Quy mô
kinh tế thành phố nĕm 2010 bằng 1.7 lần nĕm
2005. GDP bình quân đầu người nĕm 2010 đạt
2855 USD, bằng 1.7 lần so với nĕm 2005 và
bằng 2.4 lần so với cả nước. Cơ cấu dịch vụ -
công nghiệp – nông nghiệp diễn ra theo đúng
định hướng tĕng tỉ trọng dịch vụ, đạt được chỉ
tiêu đề ra (đến cuối 2010, dịch vụ chiếm tỉ trọng
53.6%, công nghiệp chiếm 45.3% và nông
nghiệp chiếm 1.1%). Đầu tư toàn xã hội trong
giai đoạn 2006-2010 tĕng bình quân 24.8%/
nĕm, bằng 03 lần giai đoạn 2001-2005. Thành
phố cũng là một trong những địa phương đứng
đầu cả nước về thu hút FDI về số lượng dự án
và quy mô vốn, giai đoạn 2006-2010 tĕng bình
quân 3.6%/nĕm về số lượng dự án, 24.1% về
tổng vốn đầu tư đĕng ký, gấp 6.5 lần so với
giai đoạn 2001-2005. Những kết quả này lại
đạt được trong một giai đoạn cực kỳ khó khĕn
với ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế
giới và các bất ổn kinh tế vĩ mô ngày càng làm
bộc lộ rõ nét những trục trặc của đời sống kinh
tế Việt Nam trên nhiều phương diện.
Tuy đạt được một số thành tựu nhất định
nhưng chính sách đầu tư của thành phố vẫn
75
Một số chính sách nhằm thúc đẩy...
chưa tạo được những bước đột phá như kỳ
vọng. Từ hai mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và nâng cao chất lượng tĕng trưởng mà xét,
chính sách đầu tư vẫn chưa hình thành được
các thay đổi về chất. Tỉ trọng các ngành có giá
trị gia tĕng cao còn thấp, nền sản xuất vẫn chủ
yếu là gia công, sơ chế, thâm dụng lao động là
chính. Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu
tĕng trưởng kinh tế, lộ rõ một số vấn đề nghiêm
trọng như quá tải, ùn tắc giao thông, ô nhiễm
môi trường, ngập nước Chất lượng nguồn
nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu phát
triển và hội nhập. Khoa học và công nghệ hoàn
toàn chưa đóng vai trò tạo điểm nhấn cho phát
triển. Tóm lại, vấn đề của chính sách đầu tư là
dù có định hướng chính sách thể hiện tầm nhìn
và sự nhanh nhạy của lãnh đạo thành phố, dù
Ủy ban nhân dân thành phố tích cực đề ra nhiều
giải pháp, xây dựng các chương trình, kế hoạch
cụ thể tập trung chỉ đạo với hàng loạt các công
việc cụ thể nhưng chính sách vẫn không tạo
được sự biến chuyển mong muốn. Vấn đề này
luôn được nhìn nhận song hành cùng với việc
các chỉ tiêu đánh giá trong các báo cáo tổng
kết luôn thể hiện mức độ hoàn thành kế hoạch,
nĕm sau cao hơn nĕm trước.
Nhiều nguyên nhân được đưa ra để phân
tích những trục trặc trong chính sách đầu tư
của thành phố. Chúng thường được tập trung
làm 02 loại: khách quan và chủ quan. Về khách
quan, đó là những vướng mắc trong cơ chế,
chính sách chung, là ảnh hưởng mạnh mẽ từ
khủng hoảng kinh tế thế giới, là khuôn khổ
thể chế cho phát triển kinh tế-xã hội thành phố
đã và đang quá chật hẹp.... Về chủ quan, đó
là công tác quản lý điều hành còn chưa đúng
tầm, thiếu tính chiến lược, công tác quy hoạch,
dự báo, thống kê, tổng kết thực tiễn còn chưa
tốt, thông tin còn thiếu minh bạch nên chưa
thật sự khuyến khích đầu tư, cơ chế phối hợp
giữa các ngành, địa phương chưa tốt Tóm
lại, các nguyên nhân được cảm nhận tương đối
toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, điều cần bàn là
chúng chỉ giới hạn trong các cảm nhận, đánh
giá chung chung, dựa trên kinh nghiệm và sự
vụ hơn là có cĕn cứ và phân tích.
Nhiều quan điểm cho rằng, đầu tư không
nhất thiết là yếu tố quyết định tĕng trưởng,
cũng như không hiển nhiên là yếu tố quyết định
chất lượng tĕng trưởng. Đầu tư cho cơ sở hạ
tầng, cho y tế và giáo dục không phải là công
thức thần kỳ cho tĕng trưởng có chất lượng.
Điều cốt lõi là phải đầu tư đúng cho những
động cơ tạo ra tĕng trưởng (Easterly, 2001).
Ở phạm vi một địa phương, có thể hiểu quan
điểm này trên bình diện chính sách đầu tư phải
được xây dựng dựa trên những phân tích cẩn
trọng và chân thực về các thế mạnh cũng như
các giới hạn thể hiện trong thực trạng phát triển
của thành phố. Xét trên quan điểm này, chính
sách đầu tư của thành phố vẫn chưa hướng tới
thực chất của vấn đề chất lượng tĕng trưởng.
Các động cơ tĕng trưởng không được nhận diện
rõ trong các thể hiện của chính sách. Đầu tư
vào các ngành hàm lượng công nghệ cao hay
tạo ra giá trị gia tĕng cao chỉ trở thành động
lực khi khu vực tư nhân tích lũy đủ nội lực và
hội tụ đủ các điều kiện để bắt đầu các chuyển
biến về chất. Đầu tư cho hạ tầng hay cho giáo
dục và y tế chỉ tạo ra động cơ tĕng trưởng khi
chúng được chuyển hóa thành vốn vật chất và
vốn con người vận động trong nền kinh tế với
thể hiện đơn giản là môi trường kinh doanh tốt
hơn cho doanh nghiệp và thêm nhiều cơ hội
cho người dân tiếp cận với các dịch vụ giáo
dục và y tế tốt hơn. Cách tiếp cận này thể hiện
rất mờ nhạt trong chính sách đầu tư của Thành
phố. Đồng thời, hầu như không có tiêu chí hay
khuôn khổ nào được đưa ra để hướng tới đánh
giá tác động của chính sách đầu tư đến các kết
quả phát triển. Công tác đánh giá chủ yếu được
thực hiện theo hệ thống báo cáo hành chính với
các dữ liệu quản lý phân tán trong các Sở quản
lý ngành và các quận, huyện, vốn không có
động cơ đi vào thực chất các vấn đề phát triển.
Chính sách đầu tư của Thành phố vẫn chưa
có sự quan tâm đúng mức đến quản trị hiệu quả
đầu tư. Trong khi đó, một trong những nguyên
tắc cơ bản của tĕng trưởng có chất lượng là phải
tập trung vào các khuôn khổ thể chế về quản
trị (Thomas et al., 2000). Các ưu tiên đầu tư
được đưa ra cùng với các quy hoạch, kế hoạch,
đề án xây dựng theo cách tiếp cận phân tán từ
các ngành đưa lên. Các cân đối được thực hiện
theo chỉ đạo và các giới hạn của nguồn lực tài
76
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
chính với thiết kế chủ yếu dựa trên tổng hợp
trách nhiệm của nhiều ngành. Cơ chế phân tích,
đánh giá về hiệu quả đầu tư chưa được thiết
kế một cách hợp lý. Cơ chế phối hợp giữa các
ngành, lĩnh vực, địa phương trong quản lý thực
thi chính sách đầu tư còn nhiều vấn đề, đặc
biệt thiếu vắng sự kết nối, điều phối mang tầm
chiến lược nhất quán hướng đến hiệu quả.
Một trong những điểm được coi là đặc
trưng của hệ thống chính sách nước ta là cách
tiếp cận toàn diện, đưa ra rất nhiều mục tiêu
nhằm bao quát các vấn đề một cách toàn diện
(VDR 2007). Đặc điểm này cũng được thể hiện
trong chính sách đầu tư của thành phố khi các
ưu tiên được xác định trong một phạm vi rất
rộng, đồng bộ trên các lĩnh vực kinh tế, cơ sở
hạ tầng, vĕn hóa-xã hội. Tuy nhiên, việc theo
đuổi các mục tiêu lại không dựa trên sự gắn
kết chặt chẽ giữa lập kế hoạch và lập ngân sách
cũng như gắn kết với các kết quả phát triển. Rất
nhiều chủ trương đầu tư được đưa ra với nhu
cầu về vốn đầu tư rất lớn, đặc biệt về cơ sở hạ
tầng, nhưng lại thiếu sự hiện diện của các kế
hoạch tài chính trung và dài hạn.
2. CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP
Với vị trí là một trung tâm kinh tế hàng
đầu của cả nước, Thành phố là nơi hội tụ các
cơ hội kinh doanh. Chính sách về doanh nghiệp
của Thành phố, do đó, luôn đứng trước các đòi
hỏi thực tế của quá trình phát triển. Trên nhiều
khía cạnh, Thành phố luôn chủ trương tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và tạo
môi trường tốt cho các hoạt động kinh doanh.
Chính sách doanh nghiệp được thể hiện cụ thể
ở những nội dung sau:• Giảm bớt các rào cản về thủ tục hành
chính
Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp nĕm 1999
đã làm giảm bớt các rào cản hành chính trong
thành lập doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp
thành lập mới gia tĕng nhanh qua các nĕm, kèm
theo đó là các hiệu ứng tích cực về sản xuất kinh
doanh, về việc làm, về vai trò ngày càng nổi bật
của khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài. Trong giai đoạn 2006-2010, Thành
phố đã tập trung nâng cao hiệu quả công tác cải
cách hành chính với nhiều giải pháp hướng tới
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập và
hoạt động của doanh nghiệp. Cơ chế liên thông
giữa các Sở-ngành được định hình và củng cố
thêm. Quy trình ISO trở nên phổ biến trong hệ
thống các cơ quan quản lý nhà nước. Các ứng
dụng công nghệ thông tin tạo thêm nhiều tiện
ích phục vụ cho các doanh nghiệp.
- Nội dung cải cách hành chính đề ra thành
các chương trình trọng tâm trong Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ Thành phố lần VIII, lần IX,
đi kèm với Chương trình hành động của Thành
ủy giai đoạn 2006-2010 và kế tiếp là 2011-
2015. UBND TP.HCM đã ban hành Quyết định
số 117/2006/QĐ-UBND ngày 21/07/2006 của
về ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình
hành động thực hiện Chương trình cải cách
hành chính và chống quan liêu (giai đoạn 2006
- 2010), Quyết định số 23/2011/QĐ-UBND
ngày 14/05/2011 về ban hành Kế hoạch thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần
thứ IX về Chương trình cải cách hành chính
gắn với mục tiêu xây dựng mô hình chính
quyền đô thị giai đoạn 2011 – 2015. Các kế
hoạch hành động cũng được ban hành cĕn cứ
vào các chương trình cải cách hành chính do
Trung ương ban hành theo hệ thống Đảng hay
hệ thống chính quyền, như Quyết định số 3654/
QĐ-UBND ngày 23/08/2008 của ban hành Kế
hoạch thực hiện Chương trình hành động của
Thành ủy thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW
Hội nghị lần thứ nĕm Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy
nhà nước trên địa bàn thành phố; Quyết định số
25/2012/QĐ-UBND ngày 22/06/2012 của Ủy
ban nhân dân thành phố ban hành Chương trình
cải cách hành chính trên địa bàn TP.HCM giai
đoạn 2011 - 2020. Hàng nĕm, các kế hoạch cải
cách hành chính được ban hành và triển khai
đồng bộ trên khắp các Sở ngành, quận huyện.
Việc thiết kế và vận hành cải cách thủ tục hành
chính đã bắt đầu được tiếp cận từ góc độ gỡ bỏ
các rào cản đối với doanh nghiệp. Công tác rà
soát các thủ tục hành chính được tiến hành với
các tiêu chí đánh giá về sự cần thiết, tính hợp
lý, tính hợp pháp và tính hiệu quả cùng những
77
Một số chính sách nhằm thúc đẩy...
yêu cầu ngày một cao về minh bạch. Chương
trình cải cách hành chính trên địa bàn TP.HCM
giai đoạn 2011-2020 khẳng định mục tiêu tạo
điều kiện đảm bảo môi trường kinh doanh bình
đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch nhằm
giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí cho
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
trong việc tuân thủ các thủ tục hành chính. Việc
đo lường mức độ hài lòng của doanh nghiệp
được đề cập đến trong nhiều kế hoạch hành
động của công tác cải cách hành chính.
- Sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 được
ban hành là cơ chế phối hợp không hiệu quả
giữa cơ quan đĕng ký kinh doanh, cơ quan
thuế và công an. Điều này làm tĕng chi phí cho
việc thành lập doanh nghiệp. Mặt khác, cơ chế
phối hợp yếu kém giữa các ngành, các cấp tạo
nên các tác động tiêu cực cho môi trường kinh
doanh. Phản ứng với vấn đề đặt ra, Thành phố
đã ban hành Quy chế phối hợp giữa cơ quan
đĕng ký kinh doanh doanh, đĕng ký thuế và
cấp phép khắc con dấu (Quyết định số 43/2009/
QĐ-UBND ngày 23/06/2009 (thậm chí Quy
chế này đã được định hình trước khi có hướng
dẫn từ Trung ương). Bên cạnh đó, một số Quy
chế phối hợp được ban hành như Quy chế phối
hợp quản lý nhà nước đối với khu chế xuất,
khu công nghiệp (Quyết định số 46/2011/QĐ-
UBND ngày 12/07/2011); Quy chế phối hợp
quản lý nhà nước đối với cụm công nghiệp
(Quyết định số 47/2011/QĐ-UBND ngày
12/07/2011); Quy chế phối hợp liên ngành để
giải quyết các hồ sơ giao đất, cho thuê đất và
chuyển mục đích sử dụng đất (Quyết định số
20/2003/QĐ-UBND ngày 21/03/2008) Các
quy chế này hoặc trực tiếp tác động đến doanh
nghiệp, hoặc gián tiếp tác động thông qua vai
trò của các cơ quan quản lý nhà nước đều hướng
tới mục tiêu tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, cải
thiện môi trường đầu tư và kinh doanh. • Nắm bắt thông tin, tiếp cận xử lý các
vấn đề bức xúc của doanh nghiệp
Thành phố thiết lập nhiều kênh tương tác
với doanh nghiệp thông qua vai trò của các
Trung tâm chuyên về hỗ trợ doanh nghiệp trực
thuộc Thành phố hoặc trực thuộc các Sở; các
Hội, Hiệp Hội doanh nghiệp; các cuộc gặp
gỡ định kỳ giữa lãnh đạo Thành phố với các
doanh nghiệp Các vấn đề bức xúc của các
doanh nghiệp, những vướng mắc về cơ chế,
chính sách đều được có những cổng ghi nhận
và chuyển tải đến lãnh đạo thành phố. Trong
nhiều trường hợp, Thành phố đã có những đề
xuất, kiến nghị tổng hợp từ các vướng mắc của
doanh nghiệp lên Trung ương nhằm có sự điều
chỉnh phù hợp về chính sách.
Hệ thống “Đối thoại Doanh nghiệp-Chính
quyền Thành phố” được hình thành từ nĕm
2002, đến nay có 42 cơ quan, đơn vị tham gia,
với vai trò chủ đạo của Trung tâm Xúc tiến
Thương mại và Đầu tư. Hệ thống được xây
dựng nhằm mục đích tạo kênh thông tin đối
thoại giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản
lý nhà nước, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Ủy ban nhân dân TP.HCM. Quy chế tổ chức
hoạt động và phối hợp trong việc tham gia hệ
thống đã được ban hành theo Quyết định số
53/2010/QĐ-UBND ngày 28/07/2010 (trước
đó một Quy chế tương tự đã được ban hành
tạm thời vào nĕm 2002). Chế độ báo cáo, theo
chỉ đạo của UBND TP.HCM, được thực hiện
định kỳ hàng tháng, quý, nĕm, theo từng loại
đối tượng. Hệ thống bước đầu đã đạt được một
số kết quả nhất định và đang trong quá trình
tiếp tục cải thiện nâng cao chất lượng.• Các giải pháp tín dụng
Nĕm 2007, Thành phố đã thành lập Quỹ
Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ, thực hiện cấp bảo lãnh tín dụng cĕn cứ
theo chính sách và quy định của Chính phủ.
Chức nĕng của Quỹ hướng đến hỗ trợ doanh
nghiệp tiếp cận vốn tín dụng thông qua nghiệp
vụ bảo lãnh. Quỹ đã có những hoạt động mở
rộng quan hệ với các ngân hàng thương mại để
phối hợp thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và cho
vay. Tuy nhiên, vai trò của Quỹ còn khá mờ
nhạt, hoạt động vẫn còn nhiều khó khĕn nhất là
trong tình hình khó khĕn chung về kinh tế trong
những nĕm vừa qua.
Thành phố cũng thực hiện chính sách hỗ
trợ lãi vay cho doanh nghiệp bằng Chương
trình kích cầu thông qua đầu tư. Chính sách
này được lồng ghép trong định hướng ưu tiên
đầu tư của Thành phố. Ngân sách Thành phố
78
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
tiến hành hỗ trợ lãi vay cho các doanh nghiệp
đầu tư vào các lĩnh vực giáo dục, y tế, các
ngành công nghệ cao, công nghiệp trọng yếu.
Các mức hỗ trợ 100% và 50% được đặt ra cho
các loại dự án đầu tư, với giới hạn về mức vốn
vay (không quá 100 tỷ cho mỗi dự án và tổng
số vốn vay là 8.000 tỷ đồng) và thời hạn (hỗ
trợ không quá 07 nĕm). Một Quy chế phối hợp
thực hiện đã được ban hành theo Quyết định
số 5390/QĐ-UBND ngày 20/10/2012 quy định
nhiệm vụ của các Sở ngành trong thẩm định dự
án để đảm bảo hỗ trợ đúng đối tượng.
Thực hiện chính sách lãi suất cho vay ưu
tiên đối với một số ngành, lĩnh vực được quy
định tại Thông tư số 14/2012/TT-NHNN ngày
04/05/2012 và Thông tư số 20/2012/TT-NHNN
ngày 08/06/2012, với sự chủ động của Thành
phố, đến cuối 2012, khoảng 5% doanh nghiệp
đã tiếp cận được với tín dụng lãi suất thấp với
tổng dư nợ cho vay trên 25 ngàn tỷ đồng. Chính
sách giãn thuế của Chính phủ (Quyết định số
04/2012/QĐ-TTg ngày 19/01/2012) cũng được
Thành phố chủ động triển khai áp dụng nhằm
giảm bớt khó khĕn cho doanh nghiệp.• Xúc tiến thương mại và đầu tư
Công tác xúc tiến thương mại rất được
Thành phố chú trọng. Thông qua vai trò của
Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư,
các công tác, chương trình xúc tiến thương mại
và đầu tư được thiết kế, triển khai thực hiện
với nhiều hình thức, biện pháp phong phú như
nghiên cứu, thu thập thông tin thị trường trong
nước và quốc tế; cung ứng các dịch vụ tư vấn,
hỗ trợ cho doanh nghiệp; tổ chức hội nghị, hội
thảo, diễn đàn mở ra các cơ hội kinh doanh;
thực hiện việc quảng bá thu hút đầu tư; chương
trình Hàng Việt Nam chất lượng cao, vinh danh
doanh nhân Sài Gòn tiêu biểu Bên cạnh đó,
kinh phí xúc tiến còn được cấp hàng nĕm cho
Sở Công thương, Sở Du lịch, Ban Quản lý Khu
Nông nghiệp công nghệ cao, Ban Quản lý Khu
Công nghệ cao, Ban Quản lý Đầu – tư Xây
dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Ban Quản lý
Đầu tư – Xây dựng Khu đô thị mới Tây Bắc,
Ban Quản lý Đầu tư – Xây dựng Khu đô thị
mới Nam thành phố. Các đơn vị này chủ động
thực hiện công tác xúc tiến liên quan đến phạm
vi chức nĕng của mình.
• Các chương trình định hướng và hỗ
trợ cho doanh nghiệp.
Chính sách về doanh nghiệp thường đứng
trước những lựa chọn mang tính đánh đổi giữa
lợi ích kinh tế và lợi ích của cộng đồng. Tĕng
trưởng tạo ra những cái giá phải trả về mặt môi
trường và xã hội vì các doanh nghiệp luôn hành
xử theo động cơ lợi nhuận. Nhận thức được
vấn đề môi trường, nĕm 2002, Thành phố đã
phê duyệt Đề án thực hiện Chương trình di dời
các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vào các khu
công nghiệp và vùng phụ cận (Quyết định số
80/2002/QĐ-UBND ngày 08/07/2002). Mục
tiêu của Chương trình hướng đến sử dụng quy
hoạch khu công nghiệp, quy hoạch ngành và
quy hoạch đô thị để tập trung các cơ sở sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vào các
khu công nghiệp và vùng phụ cận nhằm giảm
thiểu các tác động xấu về môi trường. Trước
đó, Chương trình “Hỗ trợ doanh nghiệp hiện
đại hóa với chi phí thấp, tạo ưu thế cạnh tranh
tổng hợp và đẩy mạnh xuất khẩu” nĕm 2000
– 2003 (Chỉ thị số 04/2000/CT-UB-KT ngày
23/02/2000) đưa ra mục tiêu hỗ trợ các doanh
nghiệp tham gia vay vốn để đổi mới công nghệ,
thiết bị, di dời nhà xưởng ra khu công nghiệp
với vai trò của các Quỹ tài chính được Thành
phố thành lập dưới sự trợ giúp của các Tổ chức
quốc tế nhằm mục đích giảm thiểu ô nhiễm.
Đồng thời, một số chính sách tài chính cho
việc di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vào
các khu công nghiệp tập trung và cụm công
nghiệp được ban hành kèm theo Quyết định
số 99/2005/QĐ-UBND ngày 13/06/2005. Các
chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp di dời thể
hiện rất toàn diện trên quy định từ hỗ trợ về
vốn và lãi vay cho các doanh nghiệp đến hỗ
trợ cho lao động, xây dựng nhà ở và các động
cơ khuyến khích tiến độ di dời. Các chính sách
này đến nay đã hết hiệu lực và chủ yếu hiện
nay, công cụ quy hoạch đang được Thành phố
sử dụng để tiếp tục hoàn thiện chủ trương di
dời. Tóm lại, chính sách doanh nghiệp của
Thành phố không đi theo hướng đánh đổi tĕng
trưởng và chất lượng môi trường mà có những
động thái từ rất sớm hạn chế các tác động về
mặt môi trường, ít nhất cũng đã thể hiện trong
một số vĕn bản chính thức.
79
Một số chính sách nhằm thúc đẩy...
Bên cạnh đó, Thành phố đã thực hiện
một số các chương trình hỗ trợ nâng cao nĕng
lực về công nghệ cho các doanh nghiệp, tĕng
cường liên kết vùng, ngành. Tiêu biểu như
Chương trình hỗ trợ xây dựng thương hiệu và
Chương trình hợp chuẩn do Sở Khoa học và
Công nghệ và Trung tâm Xúc tiến Thương mại
và Đầu tư phối hợp thực hiện; các lớp đào tạo,
tập huấn cho doanh nghiệp, hiệp hội và các cơ
quan quản lý do Sở Khoa học và Công nghệ,
Viện Nghiên cứu phát triển, Sở Tư pháp tổ
chức. Các hoạt động hỗ trợ về thông tin chế độ,
chính sách cho doanh nghiệp cũng rất được chú
trọng. Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp trên địa bàn TPHCM giai đoạn 2012-
2015 được Thành phố ban hành tại Quyết định
số 1111/QĐ-UBND ngày 05/03/2012.
Chính sách phát triển doanh nghiệp của
Thành phố định hình và vận hành trong các
khuôn khổ chính sách và quy định của Chính
phủ, với đối tượng trung tâm là doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Thực hiện kế hoạch phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 nĕm (2006 – 2010)
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
(Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg), UBND
TP.HCM đã thành lập Ban Điều phối thực hiện
kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và cừa
5 nĕm của TP.HCM (Quyết định số 5306/QĐ-
UBND ngày 27/11/2007), ban hành Quy chế
hoạt động của Ban Điều phối (Quyết định số
82/QĐ-UBND ngày 08/01/2008), xây dựng
và ban hành kế hoạch phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa (Quyết định số 40/QĐ-UBND ngày
13/5/2008). Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày
30/06/2009 về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và
vừa quy định một loạt các chính sách trợ giúp.
Tuy gia tĕng về số lượng nhưng các khó khĕn
mà doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đương đầu
là rất lớn như thiếu vốn, khó tiếp cận với các
khoản tín dụng, đặc biệt là tín dụng ưu đãi;
trình độ quản lý, nĕng lực điều hành còn hạn
chế, nĕng lực xây dựng dự án sản xuất kinh
doanh còn hạn chế nên không kết nối được với
các tổ chức tín dụng; thiếu thông tin về công
nghệ, máy móc thiết bị, nguồn cung cấp, ít hiểu
biết về quản lý sản xuất, quản lý chất lượng dẫn
đến nĕng suất và chất lượng sản phẩm thấp;
thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh do không
đủ vốn để thuê đất trong khu công nghiệp hoặc
đầu tư mua đất và xây dựng nhà xưởng ở nơi
phù hợp với quy hoạch; chưa có chiến lược về
nhân sự, chưa quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng
lực lượng lao độngTrong khi đó, việc triển
khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như
hỗ trợ vốn đầu tư, hỗ trợ về đào tạo, xúc tiến
đầu tư, hỗ trợ về khoa học và công nghệ vẫn
chưa đạt được hiệu quả cao.
Tóm lại: chính sách phát triển doanh
nghiệp của Thành phố, về mặt vĕn bản, thể
hiện rất toàn diện. Phát triển các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế song hành với
các nỗ lực cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Hoàn thiện về thể chế, phát triển nguồn nhân
lực và công nghệ, đối phó với các thách thức về
môi trường đều nổi lên như những nội dung
trọng tâm trong các chính sách liên quan đến
doanh nghiệp. Những nội dung này hướng tới
chất lượng tĕng trưởng, thể hiện chủ trương rất
đúng đắn của Thành phố “cần thiết phải chấp
nhận tĕng trưởng kinh tế sẽ chậm lại trong một
giai đoạn nhất định để sau đó sản xuất đạt hiệu
quả cao hơn, tĕng trưởng kinh tế cao hơn”1.
Đi sâu vào các số liệu thống kê, đánh giá
chung về phát triển kinh tế cho thấy chất lượng
tĕng trưởng của Thành phố còn thấp, chủ yếu
dựa trên tĕng trưởng về vốn và lao động. Hàng
loạt các vấn đề được nhận diện như nĕng suất
lao động còn thấp, hàm lượng giá trị gia tĕng
còn thấp và có xu hướng giảm, sử dụng các
nguồn lực chưa hiệu quả, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế chậm và chưa rõ nét. Chính sách phát
triển doanh nghiệp, về cơ bản, chưa tạo được
những chuyển biến về chất.
Tuy nhiên, vấn đề của chính sách phát triển
doanh nghiệp là tồn tại một khoảng cách khá
lớn giữa các chủ trương, định hướng, quan điểm
đúng đắn với việc cụ thể hóa trên thực tế. Chính
sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, thể hiện trong rất
nhiều dạng chương trình, kế hoạch, đề án, quy
định. Đa phần trong số đó còn mang tính phong
trào, bị động chạy theo các khuôn mẫu được cố
định sẵn của Chính phủ như Chương trình hỗ
1 Đề án thực hiện di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm
vào các Khu công nghiệp và vùng phụ cận (Quyết
định số 80/2002/QĐ-UBND ngày 08/07/2002.
80
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
trợ pháp lý cho doanh nghiệp, Kế hoạch phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chương trình
cải cách hành chính, chính sách về lãi suất cho
vay và giãn thuế trong nĕm 2012 Các chính
sách cho doanh nghiệp thiếu đi chiều sâu cần
thiết để hướng đến đúng đối tượng, tạo đúng
động cơ thực thi và chuẩn bị sẵn nguồn lực để
triển khai hiệu quả. Cũng như chính sách đầu
tư, khung theo dõi và đánh giá chính sách rất
ít khi được xây dựng một cách thực chất mà
chủ yếu được triển khai theo hệ thống báo cáo
hành chính với các dữ liệu và trách nhiệm phân
tán trong nhiều ngành. Dù thể hiện những định
hướng đúng đắn nhưng kinh nghiệm, khuôn
mẫu hành chính và xử lý sự vụ mới là cơ chế
vận hành thật sự của các chính sách về doanh
nghiệp. Vì vậy, rất khó để đánh giá tương quan
giữa chính sách doanh nghiệp với chất lượng
tĕng trưởng ngoại trừ các nhận định mang tính
cảm nhận, định tính là chủ yếu.
3. KẾT LUẬN
Dù có nhiều chương trình hỗ trợ doanh
nghiệp nhưng chính sách đối với các doanh
nghiệp của thành phố vẫn thiếu một chiến lược
phát triển tổng thể và xuyên suốt. Các chính
sách trợ giúp doanh nghiệp về tài chính, mặt
bằng sản xuất, nâng cao nĕng lực công nghệ,
xúc tiến mở rộng thị trường, thông tin và tư vấn
đều được đề ra nhưng điều xuyên suốt, kết nối
chúng trong bức tranh tĕng trưởng chung của
thành phố vẫn chưa được định hình rõ nét. Các
công cụ chính sách được sử dụng theo khuôn
mẫu và kinh nghiệm, do đó khó có động cơ
tính toán đến những lợi ích dài hạn. Điều này
thể hiện rõ nét trong thiết kế chính sách hướng
tới tạo nguồn thu từ việc đầu tư cơ sở hạ tầng
của nhà nước. Cơ sở lựa chọn giữa hai khuynh
hướng thu trực tiếp từ các doanh nghiệp để bù
đắp cho ngân sách Thành phố và hướng nguồn
thu gia tĕng trong dài hạn từ tác động tích cực
mà cơ sở hạ tầng hoàn thiện sẽ tạo ra đối với
các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp là những ràng buộc về thẩm quyền và
nguồn lực hơn là cân nhắc về chất lượng tĕng
trưởng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo kết quả thực hiện chương trình
hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 – 2010
(Báo cáo số 115/BC-UBND của Ủy ban nhân
dân thành phố ngày 18 tháng 09 nĕm 2010).
[2]. Báo cáo tổng kết tổ chức và hoạt động của
Ủy ban nhân dân thành phố nhiệm kỳ 2004-2011
(Báo cáo số 50/BC-UBND của Ủy ban nhân dân
thành phố ngày 09 tháng 05 nĕm 2011).
[3]. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh -
Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh
các nĕm 2000 - 2011.
[4]. Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 10 tháng
08 nĕm 2012 của Bộ Chính trị về phương
hướng, nhiệm vụ phát triển thành phố Hồ Chí
Minh đến nĕm 2020.
[5]. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh -
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh các nĕm 2004-2011.
[6]. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
- Báo cáo “Kết quả thực hiện Chương trình
hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006-2010”
- Thành phố Hồ Chí Minh - tháng 09 nĕm 2010.
[7]. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
- Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, chuyển đổi mô hình tĕng trưởng kinh tế
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2011-2015 - Thành phố Hồ Chí Minh - tháng
12 nĕm 2010.
[8]. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh -
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh nĕm 2012. Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội nĕm 2013 - Thành
phố Hồ Chí Minh - tháng 12 nĕm 2012.
[9]. William, Truy tìm cĕn nguyên tĕng trưởng,
Nhà Xuất bản Lao động – Xã hội, 2014.
[10]. Thomas, Vinod et al., The quality of
growth, Oxford University Press, 2000
[11]. Joseph E. Stiglitz, Suy ngẫm lại sự thần
kỳ Đông Á, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
2002.
[12]. Stiglitz, J. E, Economics of the Public
Sector, W.W Norton & Company, New
[13]. Keynes, J.M, The general theory of
employment interest and money, NewYork:
Harcourt, Brace & World, Inc, 1936.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29_8771_2136164.pdf