Tài liệu Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các trường Đại học trong quân đội hiện nay - Phạm Hồng Quân: VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 24-28
24
Email: phamhongquanspqs@gmail.com
MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC DẠY HỌC TÍCH HỢP
CHO GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
Phạm Hồng Quân - Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng
Ngày nhận bài: 05/01/2019; ngày sửa chữa: 24/01/2019; ngày duyệt đăng: 31/01/2019.
Abstract: Integrated teaching is a modern teaching perspective, which contribute to develop the
learners’ competency to apply knowledge to effectively solve practical situations. In order to teach
social and humanities sciences at military universities today in an integrated perspective, the
lecturer must have integrated teaching competency. The article focuses on analyzing and clarifying
the concept of integrated teaching competency and measures to foster integrated teaching
competency for lecturers of social and humanities science to meet the requirements of improving
teaching and learning ...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 436 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các trường Đại học trong quân đội hiện nay - Phạm Hồng Quân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 24-28
24
Email: phamhongquanspqs@gmail.com
MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC DẠY HỌC TÍCH HỢP
CHO GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
Phạm Hồng Quân - Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng
Ngày nhận bài: 05/01/2019; ngày sửa chữa: 24/01/2019; ngày duyệt đăng: 31/01/2019.
Abstract: Integrated teaching is a modern teaching perspective, which contribute to develop the
learners’ competency to apply knowledge to effectively solve practical situations. In order to teach
social and humanities sciences at military universities today in an integrated perspective, the
lecturer must have integrated teaching competency. The article focuses on analyzing and clarifying
the concept of integrated teaching competency and measures to foster integrated teaching
competency for lecturers of social and humanities science to meet the requirements of improving
teaching and learning quality of this subject at military universities today.
Keywords: Integrated teaching, social and humanities science, competency, military universities.
1. Mở đầu
Đội ngũ giảng viên (GV) khoa học xã hội và nhân
văn (KHXH&NV) là lực lượng trực tiếp quyết định đến
chất lượng, hiệu quả giảng dạy và nghiên cứu bộ môn
này ở các trường đại học trong quân đội (ĐHTQĐ). Dạy
học tích hợp (DHTH) là quan điểm, một định hướng
trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo ở nước ta hiện nay. Đối với các trường ĐHTQĐ,
vận dụng DHTH vào dạy học các môn KHXH&NV có
ý nghĩa quan trọng, khắc phục lối giảng dạy lí thuyết
thuần túy, đồng thời gắn dạy học trong nhà trường với
thực tiễn xã hội, thực tiễn hoạt động nghề nghiệp quân
sự; qua đó, phát triển năng lực tư duy, năng lực thực hành
cho học viên. Để vận dụng DHTH có hiệu quả, đòi hỏi
GV KHXH&NV cần có năng lực tổ chức hoạt động dạy
học các môn KHXH&NV theo quan điểm tích hợp.
Năng lực DHTH là một loại năng lực chuyên biệt, một
bộ phận hợp thành năng lực dạy học của GV
KHXH&NV. Bài viết làm rõ các quan niệm và đề xuất
biện pháp bồi dưỡng năng lực DHTH cho GV
KHXH&NV ở các trường đại học trong quân đội.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái niệm “dạy học tích hợp”
Trong tiếng Anh, “tích hợp” có nghĩa là sự phối hợp
giữa các hoạt động, thành phần khác nhau của một hệ
thống nhằm bảo đảm sự hài hòa giữa chức năng và mục
tiêu hoạt động của hệ thống ấy. Theo Từ điển Giáo dục
học: “DHTH là hành động liên kết các đối tượng nghiên
cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc một
số lĩnh vực khác nhau trong kế hoạch dạy học” [1; tr 384-
385]. Tiếp cận theo góc độ này thì DHTH được hiểu là
một quan điểm dạy học nhằm hình thành và phát triển
năng lực cho người học; các thành phần tham gia tích
hợp là loại tri thức hoặc các thành tố của quá trình dạy
học. Nói cách khác, DHTH là quá trình dạy học mà ở đó
các hoạt động dạy học, kiến thức, kĩ năng và thái độ được
tích hợp với nhau trong cùng một nội dung dựa trên các
tình huống thực tiễn, hoạt động nghề nghiệp để hình
thành và phát triển năng lực cho người học.
DHTH có mục đích là giúp người học vận dụng kiến
thức tổng hợp để giải quyết những vấn đề trong thực tiễn,
qua đó hình thành và phát triển năng lực người học.
Trong DHTH, người dạy có thể lựa chọn những thông
tin, kiến thức, kĩ năng cần thiết để trang bị cho người học;
đồng thời hình thành cho người học năng lực tìm kiếm,
quản lí, tổ chức, sử dụng kiến thức khi giải quyết các vấn
đề trong thực tiễn; khắc phục triệt để sự trùng lặp kiến
thức, kĩ năng; phân biệt được nội dung quan trọng và nội
dung ít quan trọng. Có 4 hình thức tích hợp cơ bản trong
dạy học đó là: - Tích hợp “đơn môn” (tích hợp trong nội
bộ môn học) là hình thức được thực hiện trong 1 tiết học
hay trong một bài tập gồm nhiều mảng kiến thức, kĩ năng
liên quan với nhau nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục
và “tiết kiệm thời gian cho người học; - Tích hợp “đa
môn” là hình thức phối hợp của nhiều môn học để nghiên
cứu và giải quyết một tình huống, tạo ra những kết nối
giữa nhiều môn học; - Tích hợp “liên môn” là hình thức
dạy học theo các môn học riêng rẽ nhưng các môn học
đều có một chủ đề chung; - Tích hợp “xuyên môn” là
hình thức hướng vào phát triển năng lực của người học
thông qua nhiều môn học.
2.2. Năng lực dạy học tích hợp của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn ở các trường đại học trong quân đội
“Năng lực” (competency) có nguồn gốc từ tiếng La
tinh “competentia”. Theo Nguyễn Quang Uẩn thì: năng
lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 24-28
25
với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, bảo đảm
cho hoạt động đó có kết quả [2]. Tiếp cận ở góc độ Tâm lí
học quan niệm: năng lực là tổng hợp các đặc điểm, thuộc
tính tâm lí của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của
một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đạt hiệu
quả cao. Theo chúng tôi: năng lực là khả năng làm chủ hệ
thống kiến thức, kĩ năng, thái độ, vận dụng chúng một cách
hợp lí và thực hiện thành công nhiệm vụ hoặc giải quyết
hiệu quả vấn đề đặt ra của cuộc sống. Bản chất của năng
lực là khả năng của chủ thể kết hợp một cách linh hoạt, có
tổ chức, hợp lí các kiến thức, kĩ năng nhằm đáp ứng những
yêu cầu phức hợp của một hoạt động, giúp cho hoạt động
đó đạt kết quả cao trong một bối cảnh tình huống nhất
định. Năng lực là một thuộc tính của nhân cách nên mang
dấu ấn cá nhân, thể hiện tính chủ quan trong hành động và
được hình thành theo quy luật hình thành và phát triển
nhân cách. Năng lực được cấu thành từ 3 yếu tố: tri thức,
kĩ năng và các điều kiện tâm lí cho việc thực hiện hoạt
động đó của mỗi cá nhân, trong đó kĩ năng được coi là yếu
tố cốt lõi của năng lực. Năng lực của mỗi cá nhân có được
dựa trên sự kiên trì học tập, rèn luyện và tích lũy kinh
nghiệm của bản thân trong hoạt động thực tiễn. Năng lực
của mỗi con người được chia thành 2 loại: năng lực chung
và năng lực chuyên biệt (năng lực chuyên môn). Năng lực
chung là năng lực cơ bản, thiết yếu để con người có thể
sống và làm việc bình thường trong xã hội, được hình
thành và phát triển do nhiều hoạt động. Năng lực chuyên
môn là khả năng thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn cũng
như đánh giá kết quả chuyên môn một cách độc lập, có
phương pháp và chính xác.
Năng lực dạy học của GV KHXH&NV là khả năng
thực hiện các hoạt động dạy học với chất lượng cao.
Năng lực DHTH là một bộ phận hợp thành năng lực dạy
học của GV KHXH&NV ở các trường ĐHTQĐ, được
biểu hiện ở khả năng tổ chức các hoạt động DHTH đạt
chất lượng cao. Do đặc điểm của DHTH là GV hướng
dẫn cho người học biết vận dụng kiến thức và kĩ năng
của mình vào giải quyết những tình huống cụ thể; đồng
thời, xác lập mối liên hệ giữa các kiến thức, kĩ năng của
môn học hay các phân môn khác nhau nhằm giúp người
học huy động có hiệu quả các kiến thức vào giải quyết
các tình huống thực tiễn. Có thể hiểu, năng lực DHTH
của GV KHXH&NV ở các trường ĐHTQĐ là khả năng
huy động kiến thức, kĩ năng, thái độ của GV để tạo sự
liên kết giữa nội dung của các môn học hoặc giữa các
đơn vị kiến thức trong mỗi phân môn của cùng một môn
học theo các cách khác nhau trong dạy học, qua đó hình
thành và phát triển năng lực cho người học, đáp ứng mục
tiêu đào tạo của các trường ĐHTQĐ.
Năng lực DHTH của GV KHXH&NV thực chất là
năng lực vận dụng kiến thức về DHTH vào thực tiễn
giảng dạy để phân tích khả năng DHTH trong các chủ
đề, học phần hoặc môn học thuộc chuyên ngành đảm
nhiệm; biên soạn và triển khai các kế hoạch DHTH, xây
dựng giáo án tích hợp tri thức, nội dung của môn học
trong quá trình dạy học.
Năng lực DHTH của GV KHXH&NV ở các trường
ĐHTQĐ còn được biểu hiện cụ thể ở khả năng tổ chức linh
hoạt nội dung DHTH. Cụ thể: khi tổ chức hoạt động DHTH,
GV tùy theo mức độ tích hợp hoàn toàn hoặc tích hợp bộ
phận để bổ sung những vấn đề cần tích hợp vào bài học sao
cho nội dung bài học và nội dung cần tích hợp có sự thống
nhất, logic. GV cần linh hoạt liên kết các kiến thức cần được
tích hợp một cách khoa học, hợp lí vào bài giảng.
Cấu trúc năng lực DHTH của GV KHXH&NV ở các
trường ĐHTQĐ gồm: sự hiểu biết về DHTH của GV
KHXH&NV thể hiện ở nhận thức đúng về sự cần thiết
phải tiến hành DHTH; ý nghĩa, vai trò của DHTH; các
quan điểm về DHTH, mục đích và các phương pháp
được sử dụng trong DHTH; hình thức tích hợp trong dạy
học; nguyên tắc tích hợp các môn học.
Khả năng phát hiện, xác định mức độ tích hợp, phân
loại và sắp xếp các chủ đề cần tích hợp trong chương dạy
học môn học thể hiện ở việc tư duy tích cực và sáng tạo
nhằm phát hiện, phân loại và sắp xếp các chủ đề tích hợp
trong chương trình dạy học; khả năng xác định mức độ
tích hợp phù hợp (tích hợp, liên hệ, lồng ghép) cho từng
nội dung cụ thể trong bài học; khả năng tổ chức, sắp xếp
các tri thức, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức
một cách logic, khoa học và sáng tạo nhằm tạo hứng thú
cho người học trong quá trình dạy học môn học.
Khả năng lập kế hoạch DHTH thể hiện ở việc phân
tích, xác định và xây dựng được kế hoạch phù hợp với các
đặc điểm của DHTH, của môn học, điều kiện cơ sở vật
chất và nguồn lực bảo đảm cho các hoạt động sư phạm của
nhà trường. Khả năng lựa chọn, sử dụng các phương pháp
dạy học trong DHTH thể hiện ở việc lựa chọn, vận dụng
kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp dạy học truyền
thống và hiện đại theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo, phát triển năng lực tự học, năng lực tư
duy và năng lực hành động cho người học.
Kĩ năng tổ chức các hoạt động học tập cho người học
trong DHTH của GV thể hiện ở việc xác định mục tiêu,
nội dung dạy học, thiết kế và tổ chức hoạt động dạy và
học, dự kiến các tình huống sư phạm và cách xử lí tương
ứng trong từng chủ đề tích hợp.
2.3. Thực trạng bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp
cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
trường đại học trong quân đội
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 102 cán bộ quản lí
giáo dục và 161 GV KHXH&NV ở một số học viện,
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 24-28
26
trường ĐHTQĐ ở khu vực Hà Nội như: Trường Đại học
Chính trị (71 GV, 42 cán bộ quản lí giáo dục), Trường
Đại học Trần Quốc Tuấn (50 GV, 30 cán bộ quản lí giáo
dục), Học viện Phòng không - không quân (40 GV, 30
cán bộ quản lí giáo dục) thông qua bảng hỏi, thời gian
khảo sát vào tháng 9-10/2018. Kết quả khảo sát được xử
lí bằng phương pháp thống kê trong khoa học giáo dục.
2.3.1. Thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của việc
bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp của giảng viên khoa
học xã hội và nhân văn
Kết quả khảo sát cho thấy (xem biểu đồ 1): có
18,01% GV và 16,66% cán bộ quản lí giáo dục cho rằng,
việc bồi dưỡng năng lực DHTH cho GV KHXH&NV là
rất quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn 12,44% GV và
19,60% cán bộ quản lí giáo dục đánh giá vấn đề này là
không quan trọng. Khi được hỏi qua phỏng vấn trực tiếp,
một số khách thể điều tra cho rằng: - Quá trình tổ chức
DHTH sẽ khiến GV mất nhiều thời gian hơn trong công
tác chuẩn bị nên dẫn đến họ không còn nhiều thời gian
cho các hoạt động chuyên môn khác; - GV KHXH&NV
có thể tự tìm kiếm thông tin để nâng cao năng lực DHTH
thông qua các phương tiện kĩ thuật, mạng internet, tài liệu
tham khảo hoặc từ đồng nghiệp nên không cần thiết phải
tổ chức các lớp bồi dưỡng năng lực DHTH cho GV.
Biểu đồ 1. Đánh giá của GV và cán bộ quản lí giáo dục
về tầm quan trọng của việc bồi dưỡng năng lực DHTH
cho GV KHXH&NV
2.3.2. Thực trạng mức độ hình thành các yếu tố hợp
thành năng lực dạy học tích hợp của giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn
Nội dung khảo sát về mức độ hình thành năng lực
DHTH của GV KHXH&NV tập trung vào các vấn đề:
- Mức độ nắm và hiểu các kiến thức về DHTH; - Mức
độ nắm và sử dụng các kĩ năng, kĩ xảo trong DHTH;
- Mức độ phát triển các phẩm chất, tư duy sư phạm
trong DHTH; - Mức độ hình thành, phát triển ý thức,
nhu cầu tổ chức DHTH. Kết quả khảo sát được chia
thành các mức đánh giá: tốt, khá, trung bình, chưa đạt
về thực trạng các yếu tố hợp thành năng lực DHTH của
GV KHXH&NV như sau (xem bảng 1 trang bên):
Kết quả phỏng vấn trực tiếp một số GV, cán bộ quản
lí giáo dục cho thấy, kiến thức về DHTH của một bộ phận
GV KHXH&NV chưa toàn diện; một số GV có kiến thức
và kĩ năng vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học
còn hạn chế; nhiều GV còn lúng túng, thiếu linh hoạt,
sáng tạo trong tổ chức hoạt động dạy học các môn học
theo quan điểm tích hợp; kĩ năng xây dựng kế hoạch, sử
dụng các phương pháp, phương tiện trong dạy học các
môn KHXH&NV theo quan điểm tích hợp còn chưa
thành thạo; khả năng xây dựng các vấn đề trong kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập theo hướng chú trọng đánh giá
năng lực thực hành của học viên còn yếu; nhiều GV chưa
có nhu cầu rõ ràng về việc cần thiết phải sử dụng DHTH
trong hoạt động dạy học,... Điều này xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, một trong những nguyên nhân cơ bản là
hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học nói chung và năng
lực DHTH nói riêng cho đội ngũ GV KHXH&NV còn
chưa thực hiện có kế hoạch, khoa học, hệ thống, đa dạng
và chặt chẽ. Vì vậy, để nâng cao năng lực DHTH cho GV
KHXH&NV ở các trường ĐHTQĐ, cần xác định và thực
hiện đồng bộ, hệ thống các biện pháp bồi dưỡng năng lực
này cho GV KHXH&NV.
2.4. Một số biện pháp bồi dưỡng năng lực dạy học tích
hợp cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các
trường đại học trong quân đội
Bồi dưỡng năng lực DHTH cho GV KHXH&NV ở
các trường ĐHTQĐ là quá trình tác động vào đội ngũ
GV của các lực lượng trong và ngoài nhà trường nhằm
bổ sung, cập nhật kiến thức để hoàn thiện các thành phần
của năng lực DHTH, đảm bảo cho đội ngũ GV tổ chức
DHTH đạt hiệu quả cao. Trên cơ sở phân tích cấu trúc
năng lực DHTH và thực trạng bồi dưỡng năng lực
DHTH cho GV KHXH&NV ở các trường ĐHTQĐ thời
gian qua, để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động
này trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt một số
biện pháp sau:
2.4.1. Đổi mới nhận thức, phát huy vai trò, trách nhiệm
của các lực lượng sư phạm trong nhà trường đối với hoạt
động bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp cho giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn.
17,66%
33,33%29,41%
19,60%
Rất quan trọng
Quan trọng
Bình thường
Không quan trọng
18,01%
31,05%38,50%
12,44% Rất quan trọng
Quan trọng
Bình thường
Không quan trọng
Cán bộ
Giảng viên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 24-28
27
Đây là cơ sở tạo nên sức mạnh tổng hợp trong hoạt
động bồi dưỡng năng lực DHTH cho GV KHXH&NV.
Trước hết, cần đổi mới mạnh mẽ nhận thức, phương pháp
tổ chức và tiến hành các hoạt động bồi dưỡng năng lực
DHTH cho GV KHXH&NV ở các trường ĐHTQĐ hiện
nay. Nâng cao nhận thức cho các lực lượng sư phạm về vị
trí, vai trò, tầm quan trọng, yêu cầu, nội dung và quy trình
bồi dưỡng năng lực DHTH cho GV KHXH&NV, đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục theo tinh thần của Nghị quyết
Trung ương 8 khóa XI, Nghị quyết Đại hội XII, Chiến
lược phát triển GD-ĐT trong quân đội giai đoạn 2011
-2020, Đề án kiện toàn, phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ
quản lí giáo dục ở các trường ĐHTQĐ và phù hợp với
từng chuyên ngành, nhiệm vụ đào tạo của mỗi nhà trường.
Đồng thời, tạo điều kiện, cơ hội để các lực lượng sư phạm
có thể tham gia các khóa bồi dưỡng năng lực DHTH cho
GV, động viên, khích lệ đội ngũ GV tích cực, chủ động
trong việc tự bồi dưỡng năng lực DHTH cho bản thân.
Thông qua tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn như:
sinh hoạt theo chuyên đề, tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập
huấn, tọa đàm, thảo luận, nhằm tuyên truyền, phổ biến
để các lực lượng sư phạm nắm được thực trạng, yêu cầu,
nội dung bồi dưỡng năng lực DHTH cho GV
KHXH&NV, phát huy tối đa vai trò, trách nhiệm của từng
cá nhân và các lực lượng sư phạm của nhà trường vào hoạt
động bồi dưỡng năng lực DHTH cho GV.
2.4.2. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng năng lực dạy học
tích hợp cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn bảo
đảm tính khoa học, thiết thực, khả thi, phù hợp.
Kế hoạch bồi dưỡng năng lực DHTH là một tập hợp
những hoạt động, công việc được sắp xếp theo trình tự
nhất định để đạt được mục tiêu đề ra trong hoạt động bồi
dưỡng năng lực DHTH cho GV KHXH&NV ở các
trường ĐHTQĐ. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng năng lực
DHTH cho GV KHXH&NV nhằm giúp cho hoạt động
này diễn ra thống nhất, chặt chẽ, khoa học và đạt hiệu
quả cao; là quá trình xác lập mục tiêu, dự kiến các biện
pháp, huy động nguồn lực để thực hiện có hiệu quả các
hoạt động tổ chức, chỉ đạo kiểm tra, đánh giá hoạt động
bồi dưỡng. Quá trình xây dựng kế hoạch bồi dưỡng năng
lực DHTH cho GV KHXH&NV gồm: xác định mục
tiêu, yêu cầu của hoạt động bồi dưỡng; nội dung của hoạt
động bồi dưỡng; cách thức thực hiện (phương pháp, hình
thức tổ chức hoạt động, phương tiện bồi dưỡng,...); cách
thức kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng; nguồn lực
trong hoạt động bồi dưỡng năng lực DHTH cho GV.
2.4.3. Đa dạng hóa hình thức và phương pháp bồi dưỡng
năng lực dạy học tích hợp cho giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn.
Đa dạng hóa các phương pháp, hình thức bồi dưỡng
năng lực DHTH cho GV KHXH&NV là “con đường”
trực tiếp, góp phần hoàn thiện phẩm chất, năng lực
DHTH của GV, đáp ứng yêu cầu đổi mới và nâng cao
chất lượng dạy học các môn KHXH&NV ở các trường
ĐHTQĐ. Các hình thức bồi dưỡng năng lực DHTH cho
GV càng phong phú, đa dạng bao nhiêu thì hoạt động bồi
dưỡng năng lực DHTH cho GV càng đạt hiệu quả cao
bấy nhiêu. Đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng cũng có
thể được thực hiện thông qua các giờ học thực hành, tổ
chức học tập theo chuyên đề, tổ chức diễn đàn, hội thảo,
các buổi sinh hoạt, thi nghiệp vụ sư phạm, sinh hoạt
chuyên môn, tổ chức cho GV đi quan sát thực tế hoạt
động DHTH ở các nhà trường trong và ngoài quân đội;
tổ chức cho GV nghiên cứu và viết sáng kiến kinh
nghiệm về việc vận dụng DHTH vào quá trình giảng
dạy,... Ngoài ra, các trường ĐHTQĐ cần phối hợp tốt với
các cơ quan chức năng để tổ chức định kì hoặc theo giai
đoạn các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ về DHTH cho đội
Bảng 1. Đánh giá của GV và cán bộ quản lí giáo dục về các yếu tố hợp thành năng lực DHTH
của GV KHXH&NV
TT Nội dung
Cán bộ quản lí GV KHXH&NV
Tốt Khá
Trung
bình
Chưa
đạt
Tốt Khá
Trung
bình
Chưa
đạt
1
Mức độ nắm và hiểu các kiến
thức về DHTH
0,00 29,41 37,26 33,33 0,00 24,22 47,20 28,58
2
Mức độ nắm và sử dụng các kĩ
năng, kĩ xảo trong DHTH
0,00 35,30 23,53 41,17 0,00 18,01 49,68 32,31
3
Mức độ hình thành, phát triển ý
thức, nhu cầu tổ chức DHTH
0,00 25,50 31,37 43,15 0,00 13,04 49,96 37,90
4
Mức độ phát triển các phẩm
chất, tư duy sư phạm trong
DHTH
0,00 17,66 43,13 39,21 0,00 9,31 44,72 45,97
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 450 (Kì 2 - 3/2019), tr 24-28
28
ngũ GV KHXH&NV theo tín chỉ hoặc module, đảm bảo
cho đội ngũ GV được học tập, nghiên cứu liên thông theo
một chương trình chuẩn thống nhất.
2.4.4. Xây dựng môi trường sư phạm, kết hợp với hoàn
thiện cơ chế chính sách, tăng cường cơ sở vật chất bảo
đảm cho hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp
cho giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các trường
đại học trong quân đội.
Thực tiễn cho thấy, nếu môi trường sư phạm ở các
trường ĐHTQĐ được quan tâm thường xuyên sẽ giúp
GV tự giác học tập, rèn luyện, lĩnh hội tri thức, trau dồi
kĩ năng, kĩ xảo, năng lực dạy học nói chung, năng lực
DHTH nói riêng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục,
đào tạo và nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, hoàn thiện
cơ chế, chính sách, tăng cường cơ sở vật chất đối với hoạt
động bồi dưỡng năng lực DHTH cho GV KHXH&NV ở
các trường ĐHTQĐ sẽ tạo ra động lực để các lực lượng
sư phạm và đội ngũ GV tham gia vào hoạt động này. Các
trường ĐHTQĐ cần quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho
mỗi GV KHXH&NV rèn luyện để phát triển năng lực sư
phạm, năng lực DHTH; đẩy mạnh các phong trào thi đua,
cuộc vận động như: “Phát huy truyền thống, cống hiến
tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, “Mỗi nhà giáo là
tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo”, tạo môi
trường lành mạnh thúc đẩy cán bộ, GV tích cực học tập,
rèn luyện để hoàn thiện bản thân. Trong thời gian tới các
nhà trường cần tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách
bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, kịp thời, bao gồm các
chính sách đào tạo, bồi dưỡng, cũng như các chế độ đảm
bảo điều kiện về vật chất, văn hóa tinh thần, cơ chế khen
thưởng đối với các lực lượng tham gia tích cực vào các
hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm nói chung, năng
lực DHTH cho GV KHXH&NV nói riêng. Bên cạnh đó,
các nhà trường cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kĩ
thuật, trang thiết bị, tạo điều kiện cho hoạt động bồi
dưỡng năng lực DHTH cho GV KHXH&NV như: hệ
thống giảng đường, thư viện, phương tiện, công nghệ
thông tin, mạng internet, tài liệu, giáo trình, sách báo,
phương tiện thông tin cần thiết, hỗ trợ kinh phí, quỹ thời
gian tự nghiên cứu, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt
động tự bồi dưỡng năng lực DHTH của GV
KHXH&NV.
3. Kết luận
DHTH là xu hướng mới trong dạy học ở đại học nói
chung, dạy học các môn KHXH&NV ở các trường
ĐHTQĐ nói riêng. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới GD-ĐT
của đất nước cũng như yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa
quá trình GD-ĐT trong các nhà trường quân đội, đòi hỏi
đội ngũ GV KHXH&NV phải không ngừng hoàn thiện
các năng lực dạy học, trong đó có năng lực DHTH. Do
vậy, các trường cần tiến hành đồng bộ các biện pháp, từ
thay đổi nhận thức đến xây dựng các điều kiện bảo đảm
cho hoạt động bồi dưỡng năng lực DHTH cho đội ngũ
GV KHXH&NV đạt hiệu quả cao. Những biện pháp bồi
dưỡng năng lực DHTH của GV KHXH&NV ở các
trường ĐHTQĐ được đề xuất ở trên là một thể thống
nhất, trực tiếp hình thành, phát triển năng lực DHTH cho
đội ngũ GV; qua đó nâng cao chất lượng dạy học các
môn KHXH&NV ở các trường ĐHTQĐ hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Bùi Hiền - Nguyễn Văn Giao - Nguyễn Hữu Quỳnh
- Vũ Văn Tảo (2001). Từ điển Giáo dục học. NXB
Từ điển Bách khoa.
[2] Nguyễn Quang Uẩn (2001). Tâm lí học đại cương.
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[3] Nguyễn Văn Đệ - Lê Quang Sơn (2013). Xu thế phát
triển giáo dục. NXB Đại học Sư phạm.
[4] Xavier Roegiers (1996). Khoa sư phạm tích hợp hay
làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường.
NXB Giáo dục (biên dịch: Đào Ngọc Quang,
Nguyễn Ngọc Nhị).
[5] Nguyễn Văn Đệ - Lê Quang Sơn (2013). Xu thế phát
triển giáo dục. NXB Đại học Sư phạm.
[6] Đỗ Hương Trà (chủ biên, 2015). Dạy học tích hợp -
Phát triển năng lực học sinh. NXB Đại học Sư
phạm.
[7] Nguyễn Hữu Châu (2006). Những vấn đề cơ bản về
chương trình và quá trình dạy học. NXB Giáo dục.
KÍNH MỜI BẠN ĐỌC ĐẶT MUA
TẠP CHÍ GIÁO DỤC NĂM 2019
Tạp chí Giáo dục ra 1 tháng 2 kì, đặt mua
thuận tiện tại các bưu cục địa phương, (Mã
số C192) hoặc đặt mua trực tiếp tại Tòa soạn
(số lượng lớn) theo địa chỉ: TẠP CHÍ
GIÁO DỤC, 4 Trịnh Hoài Đức, quận
Đống Đa, Hà Nội.
Kính mời bạn đọc, các đơn vị giáo dục,
trường học đặt mua Tạp chí Giáo dục năm
2019. Mọi liên hệ xin gửi về địa chỉ trên hoặc
liên lạc qua số điện thoại: 024.37345363; Fax:
024.37345363.
Xin trân trọng cảm ơn.
TẠP CHÍ GIÁO DỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 06pham_hong_quan_7843_2148312.pdf