Tài liệu Một nghiên cứu về đọc hình vẽ biểu diễn đối tượng hình học trong không gian của học sinh Lớp 11 - Nguyễn Ái Quốc: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
34
Một nghiên cứu về đọc hình vẽ biểu diễn
đối tượng hình học trong không gian của học sinh lớp 11
A research on the reading of drawings of Geometric objects
in space of class 11 students
TS. Nguyễn Ái Quốc,
Trường Đại học Sài Gòn
Nguyen Ai Quoc, Ph.D.,
Saigon University
Tóm tắt
Bài báo này trình bày vấn đề hình vẽ biểu diễn các đối tượng hình học trong không gian và các kết quả
của một thực nghiệm trên việc đọc hình vẽ biểu diễn của B. Parzysz (1989). Từ các kết quả này, chúng
tôi rút ra giả thuyết nghiên cứu về các diễn giải có thể mà học sinh có thể thực hiện khi đọc một hình vẽ
biểu diễn và hình thành một số phỏng đoán trên các quy tắc diễn giải khác. Sau cùng tiến hành một thực
nghiệm để hợp thức hóa giả thuyết nghiên cứu và các phỏng đoán này.
Từ khóa: hình vẽ biểu diễn, diễn giải, kiểu biểu diễn, quy tắc diễn giải.
Abstract
This paper presents the problematics of the drawing of...
15 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một nghiên cứu về đọc hình vẽ biểu diễn đối tượng hình học trong không gian của học sinh Lớp 11 - Nguyễn Ái Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
34
Một nghiên cứu về đọc hình vẽ biểu diễn
đối tượng hình học trong không gian của học sinh lớp 11
A research on the reading of drawings of Geometric objects
in space of class 11 students
TS. Nguyễn Ái Quốc,
Trường Đại học Sài Gòn
Nguyen Ai Quoc, Ph.D.,
Saigon University
Tóm tắt
Bài báo này trình bày vấn đề hình vẽ biểu diễn các đối tượng hình học trong không gian và các kết quả
của một thực nghiệm trên việc đọc hình vẽ biểu diễn của B. Parzysz (1989). Từ các kết quả này, chúng
tôi rút ra giả thuyết nghiên cứu về các diễn giải có thể mà học sinh có thể thực hiện khi đọc một hình vẽ
biểu diễn và hình thành một số phỏng đoán trên các quy tắc diễn giải khác. Sau cùng tiến hành một thực
nghiệm để hợp thức hóa giả thuyết nghiên cứu và các phỏng đoán này.
Từ khóa: hình vẽ biểu diễn, diễn giải, kiểu biểu diễn, quy tắc diễn giải.
Abstract
This paper presents the problematics of the drawing of the geometrical objects in space and the results
of an experiment on the reading of the drawing by B. Parzysz (1989). Based on these results, we will
develop a hypothesis on the possible interpretations that students can use when reading a drawing and
we will speculate on other rules of interpretation. Finally, we carry out an experiment to validate this
hypothesis and these conjectures.
Keywords: drawing, interpretation, type of representation, rules of interpretation.
1. Đặt vấn đề
Ngay từ lớp 8 bậc trung học cơ sở, học
sinh bắt đầu tiếp cận hình học không gian
qua việc nghiên cứu một số khối đa diện
như hình lăng trụ đứng và hình chóp đều.
Việc nghiên cứu này chỉ thực hiện ở mức
độ mô tả và không nghiên cứu các quan hệ
song song và vuông góc của các đối tượng
cơ bản trong hình học không gian như
điểm, đường thẳng và mặt phẳng.
1.1. Hình biểu diễn
Hình học không gian tiếp tục được
nghiên cứu ở Hình học 11 và việc sử dụng
hình vẽ biểu diễn các đối tượng hình học
trong không gian được yêu cầu thông qua
phép chiếu song song:
“Để nghiên cứu hình học không gian,
người ta thường vẽ các hình không gian
lên bảng, lên giấy. Ta gọi hình vẽ đó là
hình biểu diễn của một hình không gian.”
[5, tr. 45]
Biểu diễn một đối tượng hình học bằng
hình vẽ biểu diễn thường dẫn đến mất một
số thông tin bởi vì nhiều tính chất của đối
tượng hình học có thể không được diễn
dịch bằng một số mối quan hệ không gian
NGUYỄN ÁI QUỐC
35
trên trang giấy tập trừ khi sử dụng các mã
vẽ hình và các quy ước biểu diễn.
Tương tự, các tính chất không gian của
hình vẽ biểu diễn không thể luôn luôn thể
hiện đầy đủ các tính chất hình học cần thiết
cho bài toán và thậm chí trong một số
trường hợp có thể không thỏa đáng bởi vì
hình vẽ biểu diễn chỉ là sự thuyết minh vật
chất của một đối tượng hình học.
1.2. Miền hoạt động – miền diễn giải
Hình vẽ biểu diễn có thể được xem
như mô hình của một đối tượng hình học.
Chúng ta có thể gắn liền với mô hình này
một miền hoạt động là tập hợp các tính
chất hình học được biểu diễn bởi một số
tính chất không gian của hình vẽ biểu diễn
và một miền diễn giải là tập hợp các tính
chất không gian của hình vẽ biểu diễn
không thể diễn giải được liên quan đến các
tính chất của đối tượng.
Sự biểu diễn các đối tượng hình học
không gian, của không gian 3 chiều, bởi
các hình vẽ biểu diễn trên một trang giấy
tập, không gian 2 chiều, được thực hiện bởi
một hay nhiều phép chiếu. Thực tế, trong
trường hợp chỉ có một phép chiếu duy
nhất, chắc chắn có sự mất thông tin. Do đó
cần phải sử dụng một số mã cho việc đọc
và viết các biểu diễn này, như Bkouche
[1, tr.16] đã nhấn mạnh:
“Do đó một tình huống không gian
xuất hiện thông qua một biểu diễn biến đổi
nó thành một hình phẳng, điều này đòi hỏi
giải thích của một mã, mã viết và mã
đọc Trong các điều kiện này, sự hiểu
biết tình huống không gian thông qua trung
gian của biểu diễn mặt phẳng không còn
phụ thuộc vào tính rõ ràng như trường hợp
của hình học phẳng, người ta không còn có
thể suy luận trên một hình khác với thực tế
mà nó được cho là đại diện, do đó đòi hỏi
sự phát triển các phương pháp suy luận
phức tạp hơn”.
1.3. Phép chiếu song song
Do đó, trong dạy học hình học không
gian, vấn đề hình vẽ biểu diễn được gắn
liền với sự lựa chọn kiểu biểu diễn các đối
tượng của hình học không gian:
“Thông thường muốn biểu diễn một
hình không gian nào đó, người ta chiếu
hình đó lên một mặt phẳng chiếu bằng
phép chiếu xuyên tâm hay phép chiếu song
song. Đặc biệt cũng có khi người ta dùng
phép chiếu vuông góc (là phép chiếu song
song đặc biệt)Ở trường THPT, chương
trình chỉ hạn chế dùng hình biểu diễn qua
phép chiếu song song.” [5, tr. 76]
Như vậy, trong Hình học 11 ở Việt
Nam, kiểu biểu diễn được lựa chọn là phép
chiếu song song. Trong các phép biểu diễn
phẳng khác nhau của một đối tượng hình
học trong không gian, phép chiếu song
song là phép chiếu cho phép bảo toàn
nhiều nhất các tính chất hình học như song
song, trung điểm, tỉ số độ dài của các đoạn
thẳng song song, mang lại cho đối tượng
biểu diễn hình ảnh gần nhất với đối tượng
được biểu diễn. Hơn nữa, khi sử dụng kiểu
biểu diễn phép chiếu song song, đòi hỏi
một số quy tắc, quy ước và kiểu biểu diễn
các đối tượng hình học không gian trên
trang giấy tập mà gọi chung là các mã để
giúp cho việc viết và đọc các hình biểu
diễn. Vấn đề đặt ra là các quy ước biểu
diễn này sẽ tác động như thế nào trên việc
đọc một hình vẽ biểu diễn các đối tượng
hình học trong không gian của học sinh?
2. Quy ước, quy tắc và kiểu biểu
diễn các đối tượng hình học trong Sách
Giáo Khoa Hình học lớp 11
2.1. Quy ước
2.1.1. Biểu diễn một mặt phẳng
Quy ước P: một mặt phẳng (P) được
biểu diễn bằng một hình bình hành hay một
M T NGHIÊN CỨU VỀ ĐỌC HÌNH VẼ BIỂU DIỄN ĐỐI TƯỢNG HÌNH HỌC TRONG KHÔNG GIAN
36
Hình 1 Hình 2 Hình 3
miền góc và ghi tên của mặt phẳng vào một
góc của hình biểu diễn. (H.1 và H2)
2.1.2. Biểu diễn điểm thuộc mặt phẳng
Quy ước ĐP: biểu diễn một điểm
thuộc mặt phẳng bằng một điểm nằm bên
trong một hình bình hành và biểu diễn một
điểm không thuộc một mặt phẳng bằng một
điểm nằm bên ngoài hình bình hành. (H. 3)
2.2. Kiểu biểu diễn
Kiểu biễu diễn là một hình vẽ bằng tay
nhằm mục đích minh họa một hay các mối
quan hệ hình học giữa các đối tượng hình
học trong không gian. Nó không phải là đối
tượng của một quy ước, nhưng là một phần
của truyền thống dạy học.
2.2.1. Vị trí tương đối của đường
thẳng và mặt phẳng
Kiểu biểu diễn TP: biểu diễn một
đường thẳng nằm trong một mặt phẳng
bằng một đoạn thẳng nằm bên trong một
hình bình hành. [4, tr. 60] (H. 4).
Kiểu biểu diễn TPs: biểu diễn một
đường thẳng song song một mặt phẳng
bằng một đoạn thẳng biểu diễn cho một
đường thẳng d’ của mặt phẳng (P), nằm
bên trong một hình bình hành, và một
đoạn thẳng biểu diễn cho đường thẳng d
song song với d’, nằm bên ngoài hình bình
hành [4, tr. 61] (H. 5), hay bằng một đoạn
thẳng biểu diễn cho đường thẳng d song
song với một cạnh của hình bình hành.
[4, tr.60] (H. 6).
Kiểu biểu diễn TPc: để biểu diễn một
đường thẳng cắt một mặt phẳng, người ta
cho thấy giao điểm nằm bên trong hình bình
hành hay bên trong miền góc và biểu diễn
phần đường thẳng được giả thiết bị che khuất
bằng nét đứt đoạn. [4, tr. 60] (H. 7 và H. 8).
Hình 4
Hình 5 Hình 6
Hình 7 Hình 8
NGUYỄN ÁI QUỐC
37
2.2.2. Vị trí tương đối của hai đường
thẳng
Kiểu biểu diễn TTc: hai đường thẳng
cắt nhau được biểu diễn bởi hai đoạn thẳng
cắt nhau nằm bên trong một hình bình
hành. [4, tr. 55] (H. 9)
Kiểu biểu diễn TTs: hai đường thẳng
song song được biểu diễn bởi hai đoạn
thẳng song song cùng nằm trong một hình
bình hành. [4, tr. 55] (H. 10).
Kiểu biểu diễn TTt: hai đường thẳng
trùng nhau được biểu diễn bởi một đoạn
thẳng nằm trong một hình bình hành.
[4, tr. 55] (H. 11)
Kiểu biểu diễn TTch: hai đường thẳng
chéo nhau được biểu diễn bởi hai đoạn
thẳng, trong đó đoạn thẳng thứ nhất biểu
diễn cho đường thẳng d nằm trong một
hình bình hành và đoạn thẳng thứ hai biểu
diễn cho đường thẳng d’ cắt mặt phẳng tại
một điểm không thuộc đường thẳng thứ
nhất. [4, tr. 56] (H. 12).
2.2.3. Vị trí tương đối của hai mặt phẳng
Kiểu biểu diễn PPc: để biểu diễn hai
mặt phẳng cắt nhau, người ta cho thấy giao
tuyến của chúng nằm trong hai hình bình
hành. Hơn nữa, giao tuyến này song song
với một số cạnh của hai hình bình hành.
[4, tr. 48] (H. 13).
Kiểu biểu diễn PPs: hai mặt phẳng
song song được biểu diễn bằng hai hình
bình hành có các cạnh song song từng đôi
một. [4, tr. 64] (H. 14).
Hình 9 Hình 10
Hình 11 Hình 12
Hình 13 Hình 14
M T NGHIÊN CỨU VỀ ĐỌC HÌNH VẼ BIỂU DIỄN ĐỐI TƯỢNG HÌNH HỌC TRONG KHÔNG GIAN
38
2.3. Quy tắc
Để vẽ hình biểu diễn của một đối
tượng hình học trong không gian, người ta
dựa vào các quy tắc sau:
- Hình biểu diễn của đường thẳng là
đường thẳng, của đoạn thẳng là đoạn thẳng.
- Hình biểu diễn của hai đường thẳng
song song là hai đường thẳng song song,
của hai đường thẳng cắt nhau là hai đường
thẳng cắt nhau.
- Hình biểu diễn phải giữ nguyên
quan hệ thuộc giữa điểm và đường thẳng.
- Dùng nét vẽ liền để biểu diễn cho
đường nhìn thấy và nét đứt đoạn biểu diễn
cho đường bị che khuất. [4, tr. 45]
Phân tích Sách giáo khoa Hình học 11
cho thấy có một sự nhập nhằng giữa các
quy ước và các quy tắc của phép chiếu
song song. Hơn nữa, chỉ có một số quy tắc
và quy ước được phát biểu tường minh và
hầu hết sử dụng các quy ước và các kiểu
biểu diễn để minh họa các tính chất tương
giao trong không gian và cụ thể hơn mở
rộng miền hoạt động của hình vẽ biểu diễn
như là mô hình của một đối tượng hình học
không gian.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Xuất phát từ lợi ích của các quy ước
và kiểu biểu diễn được sử dụng trong dạy
học hình học không gian là cho phép mở
rộng miền hoạt động của hình vẽ biểu diễn
mà việc sử dụng chúng có thể bị ảnh
hưởng. Chúng tôi hình thành giả thuyết
nghiên cứu về sự tồn tại một số hệ quả trên
quan niệm của học sinh có thể dẫn đến phát
triển một số diễn giải bất hợp lý khi đọc
các hình vẽ biểu diễn:
Các quy ước biểu diễn của phép chiếu
song song trở thành các quy tắc diễn giải
một hình vẽ biểu diễn các đối tượng hình
học trong không gian của học sinh.
Thực nghiệm nhằm hợp thức hóa giả
thuyết nghiên cứu trên được kế thừa và
phát triển từ một thực nghiệm trình bày
trong luận án của Parzysz (1989) trên việc
đọc hình vẽ biểu diễn các đối tượng hình
học không gian của học sinh lớp Đệ Tam
và Đệ Nhị ở Pháp, tương đương lớp 10 và
11 ở Việt Nam.
Sự kế thừa thực nghiệm của Parzysz
đối với học sinh lớp 11 Việt Nam là hợp lý
vì phân tích Sách giáo khoa Pháp và Việt
Nam cho thấy có một sự tương tự về cách
tiếp cận các đối tượng hình học không gian
và các quan hệ song song ở cấp Trung học
phổ thông. Hơn nữa, các quy ước và các
kiểu biểu diễn trong hai hệ thống dạy học
cũng tương tự nhau và trong chương trình
Pháp phép biểu diễn phẳng các đối tượng
hình học không gian cũng được thực hiện
bởi phép chiếu song song.
5. Thực nghiệm của Parzysz và các
phỏng đoán
5.1. Mục đích
Trong luận án của mình, Parzysz đã
mô tả một thực nghiệm trên việc đọc hình
vẽ biểu diễn các đối tượng trong không
gian của học sinh trung học phổ thông để
biết học sinh diễn giải như thế nào về vị trí
tương đối của các đối tượng hình học gồm
mặt phẳng, đường thẳng và điểm trong
không gian trên một số hình vẽ biểu diễn
liên quan một số tình huống thông thường
của hình học không gian. Vì thế, chúng tôi
đã rút ra các quy tắc diễn giải và hình thành
các phỏng đoán liên quan các quy tắc diễn
giải khác mà chúng tôi muốn kiểm chứng.
Mặt khác, thực nghiệm của Parzysz
chỉ làm rõ ảnh hưởng của các quy ước và
hình vẽ nguyên mẫu trên việc đọc hình vẽ
biểu diễn của học sinh mà không tính đến
biến dạy học “khối đa diện”, cụ thể hơn là
các hình vẽ biểu diễn các khối đa diện
thông thường. Chúng tôi nghĩ rằng đây là
NGUYỄN ÁI QUỐC
39
một biến dạy học quan trọng đối với việc
đọc hình vẽ biểu diễn trong không gian vì
học sinh trung học phổ thông tại Việt Nam
bắt đầu nghiên cứu các khối đa diện ở lớp
11 mà trong đó hình hộp là một đối tượng
thường xuất hiện trong các bài toán liên
quan khảo sát vị trí tương đối và quan hệ
song song giữa các đối tượng hình học như
điểm, đường thẳng và mặt phẳng.
5.2. Kết quả
5.2.1. Sự phân hoạch không gian
Cho một hình bình hành biểu diễn một
mặt phẳng (P), một đoạn thẳng biểu diễn
một đường thẳng.
Diễn giải “bên trong – mặt phẳng”
Một điểm được biểu diễn nằm bên
trong hình bình hành được diễn giải là một
điểm thuộc mặt phẳng (P).
Diễn giải “bên ngoài – mặt phẳng”
Một điểm được biểu diễn bên ngoài
hình bình hành được diễn giải như một
điểm không thuộc mặt phẳng (P).
Hơn nữa, học sinh có xu hướng mở
rộng mặt phẳng, trong suy nghĩ của mình,
theo phương nằm ngang nhiều hơn so với
phương thẳng đứng (H. 15). Do đó, các
miền 1 và 2 có thể được xem là phần mặt
phẳng hơn là hai miền 3 và 4.
Từ đó, chúng tôi dự đoán có một sự
phân hoạch liên quan đến hai miền 3 và 4
mà chúng tôi hình thành phỏng đoán 1: “ở
trên / ở dưới” như sau:
Một điểm thuộc miền 3 có thể được
diễn giải nằm ở trên mặt phẳng và một
điểm thuộc miền 4 có thể được diễn giải
nằm ở dưới mặt phẳng.
5.2.2. Vị trí tương đối của đường
thẳng và mặt phẳng
Diễn giải “đường thẳng - trong - mặt
phẳng”
Một đoạn thẳng nằm bên trong hình
bình hành sẽ được diễn giải như một đường
thẳng nằm trong mặt phẳng (P). (H. 16)
Trong phần này, chúng tôi không rút
ra được các quy tắc diễn giải mà chỉ xây
dựng một số phỏng đoán như sau:
Phỏng đoán 2: “đường thẳng – song
song – mặt phẳng”
- Một đoạn thẳng song song với một
đoạn thẳng được biểu diễn bên trong hình
bình hành sẽ được diễn giải là đường thẳng
song song mặt phẳng (P). (H. 17)
- Một đoạn thẳng song song với một
cạnh của hình bình hành được diễn giải là
đường thẳng song song mặt phẳng (P).
(H. 18)
Hình 15
M T NGHIÊN CỨU VỀ ĐỌC HÌNH VẼ BIỂU DIỄN ĐỐI TƯỢNG HÌNH HỌC TRONG KHÔNG GIAN
40
Phỏng đoán 3: “đường thẳng – bên
ngoài – mặt phẳng”
Sự thiếu vắng của nét đứt đoạn trong
biểu diễn của một đường thẳng nằm ngoài
hình bình hành có thể dẫn đến đường thẳng
không cắt mặt phẳng (P). (H. 19)
Phỏng đoán 4: “đường thẳng – cắt –
mặt phẳng”
Nếu một đoạn thẳng biểu diễn cho
một đường thẳng có một đầu mút nằm
bên trong hình bình hành và đầu mút kia
nằm bên ngoài hình bình hành thì đường
thẳng này được xem cắt mặt phẳng
(P). (H. 20)
5.2.3. Vị trí tương đối của hai đường
thẳng
Diễn giải “đường thẳng – song song –
đường thẳng”
Nếu hai đường thẳng, biểu diễn cho
hai đường thẳng, song song với nhau thì
hai đường thẳng đó song song nhau.
(H. 21)
Các kết quả thực nghiệm của Parzysz
chứng tỏ rằng học sinh xem hai đường
thẳng có các biểu diễn là các đoạn thẳng
cắt nhau, mà trong đó không chỉ ra giao
điểm, là hai đường thẳng không song song
và không cắt nhau. (H. 22)
Trong sách giáo khoa Hình học 11 của
VN, hai đường thẳng cắt nhau được biểu
diễn bởi hai đoạn thẳng cắt nhau cùng nằm
trong mặt phẳng với một giao điểm. Từ đó,
chúng tôi hình thành phỏng đoán 5: “đường
thẳng - cắt - đường thẳng” như sau:
Nếu hai đoạn thẳng, biểu diễn cho hai
đường thẳng, nằm trong cùng một mặt
phẳng cắt nhau tại một điểm thì hai đường
thẳng này cắt nhau.
Hình 16
Hình 17 Hình 18
Hình 19 Hình 20
Hình 21 Hình 22
NGUYỄN ÁI QUỐC
41
6. Thực nghiệm
6.1. Mục đích
Thực nghiệm nhằm kiểm chứng giả
thuyết nghiên cứu trong đó chỉ ra các diễn
giải của học sinh khi đọc hình vẽ biểu diễn
các đối tượng hình học trong không gian có
nguồn gốc từ các quy ước và các kiểu biểu
diễn được sử dụng trong dạy học.
Giả thuyết đầu tiên của chúng tôi là các
quy ước biểu diễn các mối quan hệ tương
giao được trình bày tường minh trong sách
giáo khoa hay bởi giáo viên sẽ được sử
dụng trong việc đọc hình vẽ biểu diễn.
6.2. Hình thức
Chúng tôi đặt ra cho học sinh một bộ
câu hỏi trong đó các em phải trả lời các câu
hỏi về các mối quan hệ tương giao của các
thành phần như điểm, đường thẳng và mặt
phẳng xuất phát từ một hình vẽ biểu diễn.
Học sinh phải chọn một trong các câu trả
lời: “có”, “không” và “em không biết gì
cả”. Mỗi câu trả lời phải được chứng minh
để cho phép diễn giải tốt nhất các câu trả
lời của học sinh.
Thực nghiệm được tiến hành ở các em
học sinh lớp 11 của 6 lớp thuộc ba trường
THPT Trần Khai Nguyên, THPT Trần Hữu
Trang và THPT Hùng Vương của Thành
phố Hồ Chí Minh, ngay sau khi các em học
xong chương II “Đường thẳng và mặt
phẳng trong không gian. Quan hệ song
song” của môn Hình học. Thời gian làm
bài của các em là 90 phút. Số học sinh
tham gia là 206. Thực nghiệm được tiến
hành vào tháng 12 năm 2016.
Chúng tôi chọn thực nghiệm với lớp
11 vì hai lý do sau:
- Vị trí tương đối giữa các đối tượng
hình học trong không gian như điểm,
đường thẳng, mặt phẳng đã được học.
- Phép chiếu song song và hình vẽ
biểu diễn của các đối tượng hình học trong
không gian như hình chóp, lăng trụ, hình
hộp, hình lập phương đã được học.
Bộ câu hỏi thực nghiệm bao gồm 11
bài tập: hai bài tập 1 và 2 liên quan đến
khảo sát vị trí tương đối của ba điểm; bảy
bài tập 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 liên quan đến
nghiên cứu vị trí tương đối của đường
thẳng và mặt phẳng, trong đó nhóm bài tập
số 6, 7, 8, 9 có đối tượng nghiên cứu là một
hình hộp; hai bài tập liên quan đến nghiên
cứu vị trí tương đối của hai đường thẳng.
6.3. Phân tích tiên nghiệm
Bài toán nghiên cứu vị trí tương đối
của ba điểm.
Bài toán 1. Các điểm I, J, K có nằm trong
cùng một mặt phẳng không? Chứng minh.
Bài toán 2. Các điểm A, B, C có nằm trong
cùng một mặt phẳng không? Chứng minh.
M T NGHIÊN CỨU VỀ ĐỌC HÌNH VẼ BIỂU DIỄN ĐỐI TƯỢNG HÌNH HỌC TRONG KHÔNG GIAN
42
Trong hai bài toán này, chúng tôi trình
bày ba điểm không thẳng hàng. Câu hỏi đặt
ra là liệu chúng có thuộc cùng một mặt phẳng
hay không. Hai biến dạy học được chọn:
- Tính chất của đối tượng được nghiên
cứu: có khối đa diện hay không.
- Có hay không nằm bên trong một đa
giác.
Câu trả lời đúng là “có”. Trong trường
hợp này, việc chứng minh mong đợi là học
sinh sử dụng tính chất hình học cho sự xác
định một mặt phẳng bởi ba điểm không
thẳng hàng. Chúng tôi ký hiệu tập hợp các
trả lời dạng này là « P ».
Một số câu trả lời có thể biểu đạt rằng
mặt phẳng được thu gọn thành một đa giác
biểu diễn cho nó. Các câu trả lời này thể
hiện sự diễn giải phân hoạch không gian
« bên trong – mặt phẳng ». Chúng tôi ký
hiệu nhóm các câu trả lời này là « Pg ».
Biến dạy học « khối đa diện» sẽ củng
cố các diễn giải thuận lợi cho câu trả lời
thuộc nhóm « Pg ». Do đó, sẽ có nhiều câu
trả lời dạng « Pg » cho bài toán 1 hơn là
bài toán 2.
Bài toán nghiên cứu vị trí tương đối
của đường thẳng và mặt phẳng
Ở đây chúng tôi phân biệt hai biến
dạy học cho việc chọn các bài tập: tính
chất của đối tượng nghiên cứu và các diễn
giải có thể vị trí tương đối của đường
thẳng và mặt phẳng.
Bài toán 3. Đường thẳng d
có cắt mặt phẳng (P) không?
Chứng minh.
Bài toán 4. Đường thẳng
(AB) có cắt mặt phẳng (P)
không? Chứng minh.
Bài toán 5. Đường thẳng d
có song song với mặt phẳng
(P) không? Chứng minh.
Trong bài toán 3, chúng tôi biểu diễn
đường thẳng d bởi một đoạn thẳng có một
điểm mút nằm bên ngoài hình bình hành
biểu diễn cho mặt phẳng (P), và đầu mút
thứ hai nằm bên trong hình bình hành.
Chúng tôi giả thuyết rằng câu trả lời: “Có,
bởi vì một điểm của đường thẳng thuộc
mặt phẳng” sẽ chiếm đa số. Câu trả lời này
biểu lộ việc sử dụng quy tắc diễn giải
“đường thẳng - cắt - mặt phẳng”.
Trong bài toán 4, đường thẳng không
được biểu diễn bằng một đoạn thẳng nhưng
được xác định bởi hai điểm A và B được
biểu diễn trên hình vẽ sao cho A “nằm phía
trên” hình bình hành và B “nằm phía dưới”
hình bình hành. Chúng tôi giả thuyết rằng
sẽ không có câu trả lời “không”.
Trong bài toán 5, đoạn thẳng biểu diễn
đường thẳng song song với một cạnh của
hình bình hành. Việc lựa chọn cạnh theo
phương nằm ngang để củng cố câu trả lời
“có”.
Thông qua các câu trả lời của học sinh,
chúng tôi kiểm tra phỏng đoán 2 liên quan
đến quy tắc diễn giải “đường thẳng - song
song - mặt phẳng”.
Chúng tôi thiết kế 4 bài tập số 6, 7, 8
và 9 với việc biểu diễn một hình hộp và
một đoạn thẳng biểu diễn cho một đường
thẳng. Chúng tôi lựa chọn hình hộp vì học
NGUYỄN ÁI QUỐC
43
sinh tiếp cận hình hộp từ cấp trung học cơ
sở và tiếp tục nghiên cứu hình hộp ở lớp 11
và 12. Việc lựa chọn hình hộp để nghiên
cứu các bài toán tương giao với sự hiện
diện của các mặt song song và các cạnh
song song. Điều này cho phép chúng tôi
xem học sinh có ưu tiên cho các mặt phẳng
thẳng đứng hay nằm ngang hay không.
Bài toán 6. Đường thẳng d có song song với
mặt phẳng (ABB’A’) không? Chứng minh.
Bài toán 7. Đường thẳng d có nằm trong
mặt phẳng (BCC’B’) không? Chứng minh
Bài toán 8. Đường thẳng d có nằm trong
mặt phẳng (BCC’B’) không? Chứng minh.
Bài 9. Đường thẳng d có nằm trong mặt
phẳng (BCC’B’) không? Chứng minh.
Trong phần này, chúng tôi chọn hai
biến dạy học: dạng câu hỏi và sự phân
hoạch miền không gian của một khối hộp.
Câu hỏi gồm hai dạng: nằm trong mặt
phẳng hay song song với một mặt phẳng.
Các mặt phẳng này được xác định bằng
một mặt của hình hộp.
Sự phân hoạch miền không gian bởi
một hình hộp: mang khía cạnh văn hóa.
Chẳng hạn, trong hình 23, tùy theo mỗi
người, đường thẳng d có thể được xem
nằm trong mặt phẳng (A’B’C’D’), hay nằm
“phía trên” hình hộp.
Hình 23
M T NGHIÊN CỨU VỀ ĐỌC HÌNH VẼ BIỂU DIỄN ĐỐI TƯỢNG HÌNH HỌC TRONG KHÔNG GIAN
44
Trong bài toán 6, chúng tôi cố gắng
xem biến “hình hộp” ảnh hưởng lên kiểu
chứng minh đến mức nào. Chúng tôi giả
thuyết rằng câu trả lời chiếm đa số sẽ là
“Không, vì d không song song với một
đường thẳng nào của mặt phẳng (BCC’B’).
Đó chính là hệ quả của quy tắc diễn giải
“đường thẳng – song song – mặt phẳng”.
Trong ba bài toán 7, 8 và 9, câu hỏi là
liệu rằng đường thẳng d có nằm trong mặt
phẳng xác định bởi mặt trước của hình hộp
hay không. Chúng tôi đã thay đổi vị trí của
đoạn thẳng biểu diễn đường thẳng so với
hình hộp. Biến dạy học sự phân hoạch
miền không gian bằng một hình hộp.
Chúng tôi giả thuyết rằng đối với bài tập số
7, phần lớn câu trả lời sẽ là “có” theo quy
tắc diễn giải “đường thẳng – trong – mặt
phẳng”, nhưng đối với bài tập 8 và 9 câu
trả lời chiếm đa số sẽ là “không”.
Bài toán nghiên cứu vị trí tương đối
của hai đường thẳng.
Bài toán 10. Hai đường thẳng d và d’
có cắt nhau không? Chứng minh.
Bài toán 11. Cho d là một đường thẳng nằm trong
mặt phẳng (SAB) và d’ là đường thẳng nằm trong
mặt phẳng (SCD). Hai đường thẳng d và d’ có cắt
nhau không? Chứng minh.
Trong bài toán 10, chúng tôi muốn
kiểm chứng phỏng đoán 5 liên quan đến
quy tắc diễn giải “đường thẳng – cắt –
đường thẳng”. Hai đường thẳng được biểu
diễn bởi hai đoạn thẳng cắt nhau.
Trong bài toán 11, hai đường thẳng d
và d’ được biểu diễn bởi hai đoạn thẳng
nằm bên trong hai tam giác SAB và SCD
của hình chóp S.ABCD. Không như những
bài toán khác, đối với bài toán chúng tôi chỉ
ra một số mối quan hệ giữa các đối tượng
hình học. Những dữ liệu này cho phép
quyết định ở mức độ hình vẽ các đường
thẳng có cắt nhau hay không. Đây là kiểu
tình huống mời học sinh giải các bài toán
hình học trong không gian mà việc dựng
hình có thể thực hiện được trên hình vẽ.
Bằng cách kéo dài các đoạn thẳng biểu
diễn của hai đường thẳng d và d’, học sinh
sẽ tìm thấy cùng một tình huống với bài
toán 10. Chúng tôi cũng quan tâm đến câu
trả lời “không” của các em học sinh trong
bài toán 10 bằng cách chứng minh rằng các
đường thẳng không cắt nhau bởi không có
đánh dấu chấm giao nhau của chúng.
6.4. Thu thập dữ liệu
Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm bộ
câu hỏi trên 206 học sinh lớp 11 của ba
trường THPT. Giáo viên không được trả
lời bất kỳ câu hỏi nào của học sinh liên
quan đến hình vẽ và không giải thích
nhiệm vụ trả lời câu hỏi của các em. Tên
NGUYỄN ÁI QUỐC
45
họ học sinh ghi trong bài làm được mã hóa
bằng một số tự nhiên. Để thống kê các kết
quả, chúng tôi mã hóa câu trả lời “Có” bởi
“C”, “Không” bởi “K” và “Em không biết
gì cả” bởi “KB”.
6.5. Phân tích hậu nghiệm
6.5.1. Bài toán nghiên cứu vị trí tương
đối của ba điểm
Bảng 1: Chính là hai bài toán 1 và 2 có kết quả thực nghiệm
được trình bày trong bảng 1
Bài toán 1 2
Kiểu trả lời C K KB C K KB
Số lượng
Phần trăm
116
56,3
20
9,7
70
34
138
67
36
17,5
32
15,5
Kết quả thống kê cho thấy có sự gia
tăng câu trả lời đúng giữa hai bài toán 1 và
2. Hơn nửa số học sinh đã huy động tính
chất “ba điểm không thẳng hàng xác định
một mặt phẳng” độc lập với tính chất của
đối tượng nghiên cứu.
Tuy nhiên, số câu trả lời “P” trong bài
tập 2 nhiều hơn trong bài tập 1. Hầu hết
các câu trả lời “P” trong bài toán 1 (100
câu) cùng kiểu với các câu trả lời trong bài
toán 2 (112 câu), trong đó có đến 34 câu
trả lời kiểu “Pg” (34%) trong bài toán 1 và
22 câu trả lời kiểu này (19,6%) trong bài
toán 2. Điều này khẳng định tầm quan
trọng của biến dạy học “tính chất của đối
tượng” và cụ thể hơn, học sinh bị hạn chế
với các mặt phẳng được trình bày trong
trường hợp đối tượng được nghiên cứu là
một khối đa diện thường xuyên hơn trong
các trường hợp khác.
6.5.2. Bài toán nghiên cứu vị trí tương
đối của đường thẳng và mặt phẳng
Trường hợp đối tượng nghiên cứu
không phải là hình hộp
Bảng 2: Chính là ba bài toán 3, 4 và 5 có kết quả thực nghiệm
được trình bày trong bảng 2
Bài toán 3 4 5
Kiểu trả lời C K KB C K KB C K KB
Số lượng
Phần trăm
36
17,5
8
3,9
162
78,6
80
38,8
6
2,9
120
58,3
142
68,9
0
0
64
31,1
Trong bài toán 3, mặc dù có gần 80%
câu trả lời kiểu “KB”, nhưng học sinh đã
sử dụng một số quy tắc ngầm ẩn của hình
vẽ biểu diễn: “Thiếu dấu nét đứt đoạn”,
“Cần kéo dài đoạn thẳng để xem”, “Cần
làm rõ giao điểm”.
Tám học sinh đã trả lời “K” mà không
chứng minh câu trả lời bằng sự thiếu vắng
nét đứt đoạn.
Trong 36 câu trả lời “C”, có 8 chứng
minh đề cập đến quy tắc diễn giải “đường
thẳng – cắt – mặt phẳng” và 14 sử dụng
M T NGHIÊN CỨU VỀ ĐỌC HÌNH VẼ BIỂU DIỄN ĐỐI TƯỢNG HÌNH HỌC TRONG KHÔNG GIAN
46
một phần kết quả hình học: một đường
thẳng hoặc song song hoặc cắt một mặt
phẳng, trong đó chứng minh đường thẳng d
không song mặt phẳng (P) bằng cách sử
dụng quy tắc diễn giải “đường thẳng –
song song – mặt phẳng” (phỏng đoán 2)
Trong bài toán 4, phần lớn các chứng
minh cho câu trả lời kiểu “C” là:
“Có, vì A và B nằm hai phía của mặt
phẳng (P)”. Một số học sinh đã cho rằng “A
nằm phía trên (P) và B nằm bên dưới (P)”.
Các chứng minh này là một phần quy tắc
diễn giải “ở trên / ở dưới” (phỏng đoán 1).
“Có, vì đường thẳng AB không song
song với (P)”. Chúng tôi nghĩ rằng các học
sinh đưa ra các chứng minh này vì đường
thẳng AB không song song với bất kỳ cạnh
nào của hình bình hành (quy tắc diễn giải
“đường thẳng – song song – mặt phẳng”).
Các chứng minh “Vì A và B nằm hai
phía mặt phẳng (P)”, “Vì đường thẳng AB
xuyên qua (P)” và “Nếu ta mở rộng mặt
phẳng (P) ra” “thì đường thẳng cắt mặt
phẳng” là hệ quả của sự phân hoạch mặt
phẳng “ở trên / ở dưới”.
Trong bài toán 5, câu trả lời “C” chiếm
đa số thuộc kiểu “Có, vì đường thẳng song
song với một đường thẳng của mặt phẳng”
(chiếm 40%) hay “Có, vì đường thẳng d
không cắt mặt phẳng (P)” (chiếm 15%).
Trường hợp đối tượng nghiên cứu là
một hình hộp.
Bảng 3: Chính là bốn bài toán 6, 7, 8 và 9 có kết quả được trình bày trong bảng 3
Bài toán 6 7 8 9
Kiểu trả lời C K KB C K KB C K KB C K KB
Số lượng
Phần trăm
2
0,9
134
65,1
70
34
46
22,3
10
4,9
150
72,8
24
11,7
32
15,5
150
72,8
20
9,7
16
7,8
170
82,5
Trong bài toán 6, đa số câu trả lời
trùng với mong đợi của chúng tôi, nghĩa là
trả lời “K”. Trong số đó, có 50 học sinh đã
chứng minh với luận chứng liên quan đến
sự hiển nhiên về mặt nhận thức: “Không,
nó cho thấy rõ”.
Có 64 học sinh đã chứng minh với luận
chứng “Không, vì d không song song với
bất kỳ đường thẳng nào của mặt phẳng” hay
“Không, vì đường thẳng d không song song
với đường thẳng AC”. Các câu trả lời này là
hệ quả của quy tắc diễn giải “đường thẳng –
song song – mặt phẳng”. Cụ thể hơn, các
học sinh này đã sử dụng kết quả là nếu
đường thẳng không song song với bất kỳ
đường thẳng nào của mặt phẳng thì nó
không song song với mặt phẳng đó.
Trong ba bài toán 7, 8 và 9, mặc dù
câu trả lời kiểu “KB” chiếm tỉ lệ phần trăm
khá cao, nhưng chỉ có 30% của các câu trả
lời này là đúng. Một loại chứng minh khác
cho câu trả lời “KB” (chiếmj 30%) dựa trên
thực tế là “đường thẳng d song song với
mặt phẳng (ABCD) hay nằm trong mặt
phẳng này”.
Sự thiếu vắng của đánh dấu giao điểm
hay nét đứt đoạn cho phép học sinh
(khoảng 10%) kết luận về sự giao nhau của
hai đườnh thẳng hay của một đường thẳng
và một mặt phẳng.
6.5.3. Bài toán nghiên cứu vị trí tương
đối của hai đường thẳng
NGUYỄN ÁI QUỐC
47
Bảng 4: Các kết quả liên quan đến hai bài toán 10 và 11 được trình bày trong bảng 4
Bài toán 10 11
Kiểu trả lời C K KB C K KB
Số lượng
Phần trăm
40
19,4
136
66
30
14,6
134
65,1
18
8,7
54
26,2
Câu trả lời chiếm đa số đối với bài toán
10 là “K”và đối với bài toán 11 là “C”.
Trong câu trả lời “K” của bài toán 10,
có 31 học sinh chứng minh “vì chúng không
được chứa trong cùng một hình bình hành”
và có 37 học sinh chứng minh “vì chúng
không có giao điểm chung trên hình vẽ”.
Trong 18 câu trả lời “K” của bài toán
11, chỉ có 6 học sinh đã chứng minh “d và
d’ không cắt nhau vì giao điểm của chúng
lần lượt với giao tuyến của hai mặt phẳng
(SAB) và (SCD) là hai điểm phân biệt”.
Các chứng minh khác cho câu trả lời
“K” là “d và d’ không nằm trong cùng một
mặt phẳng” hay “các mặt phẳng không
cắt nhau”.
Các chứng minh cho câu trả lời “C”
chủ yếu là:
- “d và d’ cắt nhau vì chúng cùng
nằm trong hai mặt phẳng cắt nhau” (49%).
- “Bằng cách kéo dài hai đường
thẳng, ta thấy chúng cắt nhau” (7%).
Các chứng minh cho câu trả lời
“KB” chủ yếu là:
- “bài toán cho thiếu dữ kiện” (38%).
- “Cần phải biết d và d’ có đồng
phẳng hay không?” (10%).
6.6. Tổng hợp các kết quả thực nghiệm
Phân tích cho thấy các chứng minh
dựa trên duy nhất sự hiển nhiên về mặt
nhận thức chiếm số lượng rất nhỏ. Hầu hết
các chứng minh đều sử dụng các tính chất
hình học.
Ràng buộc “Chứng minh” cho phép
chúng tôi làm rõ các quy tắc diễn giải.
Học sinh sử dụng theo cách liên hợp
các quy tắc diễn giải cùng với các định lý
của hình học trong không gian để chứng
minh cho các trả lời câu hỏi. Cần lưu ý
rằng các định lý này không hề mâu thuẫn
với các quy tắc diễn giải vì các quy tắc
diễn giải chỉ là minh họa của các định lý
đó. Chúng ta có thể suy ra rằng không tồn
tại các mâu thuẫn giữa kiến thức hình học
và việc đọc hình vẽ biểu diễn. Điều này có
thể củng cố việc sử dụng các quy tắc
diễn giải.
Khái niệm đồng phẳng đóng một vai
trò quan trọng trong các bài toán về sự
tương giao của hai đường thẳng trong
không gian như trong bài toán 10 và 11.
Đặc biệt đối với bài toán 11, hình vẽ có thể
chỉ là thông tin nếu chúng ta sử dụng các
phương tiện kiểm soát khác dựa trên các
quy tắc của phép chiếu song song. Thực
vậy, đây chính là bài toán duy nhất trong
thực nghiệm mà chúng ta có thể trả lời
bằng hình vẽ biểu diễn bằng cách sử dụng
quy tắc “nếu giao điểm của d với là giao
tuyến của hai mặt phẳng (SAB) và (SCD)
trùng với giao điểm của d’ với thì hai
đường thẳng d và d’ cắt nhau”. Quy tắc này
không được phát biểu tường minh trong
Sách giáo khoa, nhưng nó cần thiết phải
được chứng minh.
6.6.1. Phân hoạch không gian
Quy tắc diễn giải “bên trong – mặt
phẳng” và “bên ngoài – mặt phẳng” đã
M T NGHIÊN CỨU VỀ ĐỌC HÌNH VẼ BIỂU DIỄN ĐỐI TƯỢNG HÌNH HỌC TRONG KHÔNG GIAN
48
được Parzysz kiểm chứng. Chúng ta cũng
lưu ý rằng quy tắc diễn giải “bên trong –
mặt phẳng” đã được học sinh huy động
trong bài toán 1.
Trong bài toán 4, học sinh đã sử dụng
một số chứng minh cho thấy hai miền “ở
trên” và “ở dưới” mặt phẳng. Điều này cho
phép hợp thức hóa phỏng đoán 1 “ở trên /
ở dưới”.
6.6.2. Vị trí tương đối của đường
thẳng và mặt phẳng
Quy tắc diễn giải “đường thẳng –
trong – mặt phẳng” đã được Parzysz kiểm
chứng.
Quy tắc diễn giải “đường thẳng – song
song – mặt phẳng” đã được thực nghiệm
chúng tôi kiểm chứng. Quy tắc này cho
phép chứng minh rằng một đường thẳng
song song với một mặt phẳng khi nó song
song với một đoạn thẳng của mặt phẳng, và
cũng để chứng minh rằng một đường thẳng
không song song với một mặt phẳng khi
trên hình vẽ nó không song song với bất kỳ
một đoạn thẳng nào của mặt phẳng.
Quy tắc diễn giải “đường thẳng –
ngoài – mặt phẳng” đã được kiểm chứng
duy nhất trong trường hợp có khối đa diện.
6.6.3. Vị trí tương đối của hai đường
thẳng
Quy tắc diễn giải “đường thẳng – song
song – đường thẳng” đã được Parzysz
kiểm chứng. Phân tích các chứng minh của
bài toán 10 làm lộ rõ việc sử dụng quy tắc
diễn giải “đường thẳng – cắt – đường
thẳng”. Riêng trong bài 11, việc phân tích
kết quả cho thấy sự tồn tại một định lý
hành động ở học sinh:
Nếu hai đường thẳng lần lượt chứa
trong hai mặt phẳng cắt nhau, thì chúng
cắt nhau.
7. Kết luận
Các quy ước biểu diễn được chấp nhận
trong giảng dạy có chức năng minh họa
một tình huống không gian và do đó mở
rộng miền hoạt động của hình vẽ biểu diễn.
Các quy ước này đã trở thành các quy tắc
diễn giải ở học sinh trong việc đọc hình vẽ
biểu diễn. Điều này cho phép hợp thức hóa
giả thuyết nghiên cứu về các quy ước:
Các quy ước biểu diễn của phép chiếu
song song trở thành các quy tắc diễn giải
một hình vẽ biểu diễn các đối tượng hình
học trong không gian ở học sinh.
Tồn tại một định lý hành động ở học
sinh liên quan đến sự cắt nhau của hai mặt
phẳng:
Nếu hai đường thẳng lần lượt nằm trong
hai mặt phẳng cắt nhau thì chúng cắt nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bkouche R., Soufflet M. (1983),
Axiomatique, formalism, théorie, Bulletin
Inter-Irem « Enseignement de la géometrie »
(23) 3 – 24.
2. Parzysz B. (1989), Représentations planes et
enseignement de la géometrie de l’espace au
lycee, Contribution à l’étude de la relation
voir/savoir, Thèse. Paris: Université Paris-7.
3. Phan Đức Chính, Tôn Thân, Nguyễn Huy
Đoan, Lê Văn Hồng, Trương Công Thành,
Nguyễn Hữu Thảo (2007), Toán 8, Tập Hai,
Nxb Giáo dục.
4. Trần Văn Hạo, Nguyễn Mộng Hy, Khu Quốc
Anh, Nguyễn Hà Thanh, Phan Văn Viện
(2007), Hình học 11, Nxb Giáo dục.
5. Trần Văn Hạo, Nguyễn Mộng Hy, Khu Quốc
Anh, Nguyễn Hà Thanh, Phan Văn Viện
(2007), Sách Giáo viên Hình học 11, Nxb
Giáo dục.
Ngày nhận bài: 07/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27_9252_2215079.pdf