Tài liệu Một mô hình deep learning nhẹ cho bài toán nhận dạng tuổi và giới tính sử dụng mạng CNN - Phùng Thị Thu Trang: ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 200(07): 119 - 124
Email: jst@tnu.edu.vn 119
MỘT MÔ HÌNH DEEP LEARNING NHẸ CHO BÀI TOÁN NHẬN DẠNG TUỔI
VÀ GIỚI TÍNH SỬ DỤNG MẠNG CNN
Phùng Thị Thu Trang1*, Ma Thị Hồng Thu2
1Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên, 2Đại học Tân Trào
TÓM TẮT
Bài toán nhận dạng tuổi và giới tính đang thu hút được nhiều sự chú ý từ các nhà nghiên cứu đặc
biệt là khi mạng xã hội và mạng truyền thông ngày càng phổ biến. Các phương pháp được công bố
gần đây cho kết quả khá tốt về độ chính xác nhưng còn tỏ ra kém hiệu quả trong vấn đề nhận diện
thời gian thực bởi vì các mô hình này được thiết kế quá phức tạp. Trong bài báo này, chúng tôi đề
xuất một mô hình nhẹ mang tên lightweight CNN thực hiện song song 2 nhiệm vụ là phân lớp tuổi
và giới tính. Về độ chính xác trong nhận diện tuổi thì lightweight CNN tốt hơn 5.1% so với mô
hình tốt nhất đã được công bố gần đây. Về thời gian chạy và số lượng tham số được sử dụng thì
lightweight CNN...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 912 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một mô hình deep learning nhẹ cho bài toán nhận dạng tuổi và giới tính sử dụng mạng CNN - Phùng Thị Thu Trang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 200(07): 119 - 124
Email: jst@tnu.edu.vn 119
MỘT MÔ HÌNH DEEP LEARNING NHẸ CHO BÀI TOÁN NHẬN DẠNG TUỔI
VÀ GIỚI TÍNH SỬ DỤNG MẠNG CNN
Phùng Thị Thu Trang1*, Ma Thị Hồng Thu2
1Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên, 2Đại học Tân Trào
TÓM TẮT
Bài toán nhận dạng tuổi và giới tính đang thu hút được nhiều sự chú ý từ các nhà nghiên cứu đặc
biệt là khi mạng xã hội và mạng truyền thông ngày càng phổ biến. Các phương pháp được công bố
gần đây cho kết quả khá tốt về độ chính xác nhưng còn tỏ ra kém hiệu quả trong vấn đề nhận diện
thời gian thực bởi vì các mô hình này được thiết kế quá phức tạp. Trong bài báo này, chúng tôi đề
xuất một mô hình nhẹ mang tên lightweight CNN thực hiện song song 2 nhiệm vụ là phân lớp tuổi
và giới tính. Về độ chính xác trong nhận diện tuổi thì lightweight CNN tốt hơn 5.1% so với mô
hình tốt nhất đã được công bố gần đây. Về thời gian chạy và số lượng tham số được sử dụng thì
lightweight CNN sử dụng ít hơn nhiều so với các mô hình khác trên bộ dữ liệu Adience, đáp ứng
được yêu cầu về nhận dạng trong thời gian thực.
Từ khóa: Học sâu, Mạng CNN, Phân lớp tuổi, phân lớp giới tính, Mạng nơron
Ngày nhận bài: 09/4/2019;Ngày hoàn thiện: 26/4/2019;Ngày duyệt đăng: 07/5/2019
A LIGHTWEIGHT DEEP LEARNING MODEL FOR AGE AND GENDER
IDENTITY PROBLEM USING THE CNN NETWORK
Phung Thi Thu Trang
1*
, Ma Thi Hong Thu
2
1School of Foreign Language – TNU, 2Tan Trao University
ABSTRACT
Age and gender identification problems are gaining a lot of attention from researchers since social
and multimedia networks are becoming more popular nowadays. Recently published methods have
yielded quite good results in terms of accuracy but also proved ineffective in real-time
identification because these models were designed too complicated. In this paper, we propose a
lightweight model called lightweight CNN that performs parallel tasks of age and gender
classification. In terms of accuracy in identifying age, lightweight CNN is 5.1% better than the
best model recently published. About runtime and the number of parameters used, lightweight
CNN uses much less than other models on the Adience dataset, meet the identification
requirements in real time.
Keywords: Deep learning, CNN Network, Age Classification, Gender Classification, Neural
Network
Received: 09/4/2019; Revised: 26/4/2019;Approved: 07/5/2019
* Corresponding author: Tel: 0395 314806, Email: phungthutrang.sfl@tnu.edu.vn
Phùng Thị Thu Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 200(07): 119 - 124
Email: jst@tnu.edu.vn 120
1. Giới thiệu
Xử lý ảnh và thị giác máy tính đang là những
lĩnh vực được quan tâm nhiều nhất trong trí
tuệ nhân tạo với nhiều bài toán thực tế. Bên
cạnh đó, sự phát triển vượt bậc của các thuật
toán học sâu đặc biệt là mạng lưới thần kinh
tích chập (covolutional neural network –
CNN) đã cho những kết quả vượt bậc trong
các bài toán điển hình. Ví dụ Alex cùng các
cộng sự [1] đã đề xuất một mô hình sử dụng
mạng CNN và giành chiến thắng trong cuộc
thi ImageNet với tỷ lệ lỗi đạt 15.3% vào năm
2012. Đây là cuộc thi có quy mô lớn nhất thế
giới về bài toán nhận diện đối tượng trong
ảnh. Năm 2013, Zeiler và Fergus [2] đã đề
xuất một mô hình có tên ZFNet và giảm lỗi từ
15,3% xuống còn 14,8%. GoogleNet
(Inception) và VGGNet đã được đề xuất năm
2014 [3] với tỷ lệ lỗi lần lượt là 6,67% và
7,32%. Năm 2015, Kaiming He [4] đã đề xuất
kiến trúc mạng ResNet và đạt tỷ lệ lỗi 3,57%,
tỷ lệ lỗi này còn tốt hơn cả hiệu suất của con
người. Ngoại trừ bài toán nhận diện đối tượng
trong ảnh, CNN thường được áp dụng cho
nhiều bài toán khác như: Phát hiện đa đối
tượng trong ảnh, đặt tiêu đề cho ảnh, phân
đoạn ảnh, Thậm chí, Yoo Kim [5] đã áp
dụng mạng CNN cho bài toán phân lớp câu và
đạt hiệu quả cao trong nhiều bộ cơ sở dữ liệu
về văn bản khác nhau.
Khuôn mặt là một đối tượng trong cơ thể con
người và hình ảnh khuôn mặt mang rất nhiều
thông tin quan trọng như: tuổi tác, giới tính,
trạng thái cảm xúc, dân tộc, Trong đó, việc
xác định tuổi tác và giới tính là hết sức quan
trọng, đặc biệt trong giao tiếp, chúng ta cần
sử dụng những từ ngữ phù hợp với giới tính
của người nghe ví dụ trong tiếng Việt chúng
ta có: anh/chị, chú/cô... Hay với nhiều ngôn
ngữ khác nhau trên thế giới, chẳng hạn như
tiếng Việt thì lời chào hỏi dành cho người lớn
tuổi khác với người trẻ tuổi. Do đó, việc xác
định tuổi và giới tính dựa trên khuôn mặt là
một bài toán hết sức quan trọng, có ý nghĩa
thực tế to lớn.
Bài toán ước lượng tuổi và giới tính đã được
quan tâm nhiều trong suốt 20 năm gần đây, đã
có rất nhiều các công trình được công bố với
nhiều kỹ thuật khác nhau chẳng hạn như:
AGing pattErn Subspace (AGES), Gaussian
Mixture Models (GMM), Hidden-Markov-
Model (HMM), Support Vector Machines
(SVM), ... Từ khi các mô hình học sâu được
áp dụng cho bài toán này đã cải thiện đáng kể
kết quả về mặt hiệu suất cũng như tốc độ. Độ
chính xác của mô hình khi ước lượng tuổi đạt
62,8% và đối với giới tính đạt 92,6% [6].
Tuy nhiên, để đạt được hiệu suất cao thì các
mô hình thường được xây dựng càng phức tạp
với số lượng tham số lớn (từ 10 triệu đến hơn
100 triệu tham số), do đó gây khó khăn trong
vấn đề nhận dạng trong thời gian thực. Trong
bài báo này, chúng tôi đề xuất một mô hình
nhẹ sử dụng CNN với khoảng 1 triệu tham số
nhưng đạt kết quả nhận diện tuổi lên đến
67,9% và nhận diện giới tính lên đến 88,8%.
Với số lượng tham số nhỏ này thì mô hình
của chúng tôi hoàn toàn có thể chạy được trên
các thiết bị nhúng và thiết bị di động một cách
dễ dàng đảm bảo vấn đề thời gian thực. Sự
đóng góp của chúng tôi trong bài báo này là:
(1) Xây dựng một mô hình nhẹ để giải quyết
bài toán đa nhiệm vụ (dự đoán tuổi và giới
tính từ ảnh chụp khuôn mặt). (2) Từ kết quả
của mô hình cho thấy rằng thuật toán không
chỉ tốt về mặt hiệu suất mà còn giảm thiểu số
lượng tham số được sử dụng từ đó giúp cải
thiện tốc độ của mô hình và đáp ứng được yêu
cầu về nhận diện trong thời gian thực.
2. Các nghiên cứu gần đây
Như đã được đề cập ở phần Giới thiệu, bài
toán ước lượng tuổi và giới tính đã được
nghiên cứu từ rất lâu. Nhưng hầu như chúng
chỉ được nghiên cứu tách rời nhau. Các mô
hình được xây dựng riêng biệt cho từng
nhiệm vụ. Cho đến năm 2016, Linnan Zhu
cùng các cộng sự [7] đề xuất một mô hình đa
nhiệm vụ giải quyết cả hai bài toán cùng một
lúc. Trước tiên chúng ta xét lần lượt các bài
toán để có cái nhìn tổng quan.
Phùng Thị Thu Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 200(07): 119 - 124
Email: jst@tnu.edu.vn 121
2.1 Bài toán phân lớp tuổi: Nhiệm vụ của bài
toán này là đưa ra ước lượng tuổi của một
người từ bức ảnh chụp khuôn mặt của họ. Bài
toán này được giới thiệu lần đầu tiên bởi
Kwon và Lobo [8] trong đó, họ sử dụng
phương pháp phát hiện và tính toán tỷ lệ của
các nếp nhăn trên khuôn mặt để có thể dự
doán độ tuổi và sau đó nó được cải tiến bởi
Ramanathan và Chellappa [9]. Tuy nhiên,
phương pháp này có thể phân biệt được độ
tuổi giữa người lớn và trẻ em, nhưng rất khó
có thể phân biệt được độ tuổi giữa những
người lớn với nhau. Một cách tiếp cận khác
do Geng cùng các cộng sự [10] trình bày là sử
dụng AGES cho hiệu quả cao hơn nhưng
thuật toán này cần một lượng lớn hình ảnh
khuôn mặt của từng người và đặc biệt hình
ảnh đầu vào này cần phải ở chính giữa, mặt
hướng thẳng và được căn chỉnh đúng kích
thước. Tuy nhiên, trên thực tế thì các bức ảnh
chụp lại rất ít khi thỏa mãn điều kiện như vậy
do đó cách tiếp cận này không được phù hợp
với nhiều ứng dụng thực tế.
Một cách tiếp cận khác dựa trên các thuật
toán thống kê đã được sử dụng như GMM
[11] và HMM, super-vectors [12] được sử
dụng để làm đại diện cho từng phần của
khuôn mặt. Trong thập kỷ qua, khi các thuật
toán học máy dần được cải tiến và đạt được
thành tựu to lớn đặc biệt là học sâu, thì một
loạt các công trình nghiên cứu về phân lớp
tuổi được công bố cho kết quả khả quan, có
thể kể đến như: Eidinger cùng các cộng sự
[13] đã sử dụng SVM kết hợp với dropout
cho bài toán nhận diện tuổi và nhận diện giới
tính. Năm 2015, Gil Levi và Tal Hassner [14]
đã đưa ra mô hình Deep Neural Network đầu
tiên cho bài toán phân lớp tuổi và giới tính.
Sau đó, Zhu cùng các cộng sự [7] đã xây
dựng một mô hình đa nhiệm vụ cho phép chia
sẻ và tìm hiểu các tính năng tối ưu để cải
thiện hiệu suất nhận dạng cho cả hai nhiệm
vụ. Đây là bài báo đầu tiên áp dụng mô hình
tối ưu hóa bài toán nhận diện tuổi và giới tính
cùng nhau để thấy được mối quan hệ giữa 2
bài toán.
2.2 Bài toán phân lớp giới tính: Cùng với sự
phát triển của bài toán nhận dạng tuổi, bài
toán nhận biết giới tính đã được đề xuất và
giải quyết từ những năm 1990. Tổng quan về
các phương pháp phân lớp giới tính bạn đọc
có thể được tìm thấy trong [15]. Sau đây,
chúng tôi sẽ tóm tắt một số phương pháp liên
quan. Cottrell [16] là người đầu tiên đề xuất
mô hình mạng nơron giải quyết bài toán nhận
dạng giới tính, tuy nhiên các khuôn mặt đầu
vào phải đảm bảo nhiều yêu cầu nhất định,
gây ra nhiều hạn chế cho mô hình. Sau đó,
Lyons cùng các cộng sự [17] đã sử dụng thuật
toán PCA (Principal Component Analysis) và
LDA (Linear Discriminant Analysis) để nhận
diện ra giới tính. SVM và AdaBoost được sử
dụng trong [18] và [19]. Trong [20], Ullah đã
sử dụng Bộ mô tả kết cấu cục bộ Webers để
nhận dạng giới tính. Hầu hết các phương pháp
được thảo luận ở trên đã sử dụng bộ cơ sở dữ
liệu FERET để đánh giá hiệu suất của mô
hình. Tuy nhiên, các hình ảnh trong bộ dữ
liệu FERET được chụp trong điều kiện tốt,
hình ảnh các khuôn mặt không bị che phủ, và
hướng thẳng. Hơn nữa, kết quả thu được trên
bộ dữ liệu này cho thấy nó đã bão hòa và
không thách thức đối với các phương pháp
hiện đại. Do đó, những năm gần đây bộ cơ sở
dữ liệu Adience thường được sử dụng để so
sánh kết quả giữa các mô hình. Bởi vì bộ dữ
liệu này chứa hình ảnh thách thức hơn so với
bộ dữ liệu FERET và được thiết kế để khai
thác tốt hơn các thông tin từ các ảnh dữ liệu
đào tạo [14]. Cũng tương tự như bài toán phân
lớp tuổi, các mô hình như SVM, Deep Neural
Network bao gồm AdienceNet [14], CaffeNet,
VGG-16, và GoogleNet [6] cũng được áp dụng
cho bài toán nhận diện giới tính.
Tuy nhiên, các phương pháp được nêu ở trên
đều tồn tại những hạn chế nhất định. Với các
phương pháp gần đây sử dụng mạng neural
network thì đã khắc phục được những hạn chế
đó nhưng số lượng tham số được sử dụng còn
rất lớn, gây khó khăn cho vấn đề nhận diện
trong thời gian thực và cho các thiết bị nhúng.
Phùng Thị Thu Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 200(07): 119 - 124
Email: jst@tnu.edu.vn 122
3. Đề xuất thuật toán
Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày một
mô hình đa tác vụ nhẹ mang tên lightweight
CNN để giải quyết bài toán phân lớp tuổi và
giới tính. Mô hình của chúng tôi được trình
bày thành 3 phần bao gồm: Mạng tích chập
nhẹ, kiến trúc mô hình và cuối cùng là huấn
luyện và thử nghiệm. Sau đây, chúng tôi sẽ
giới thiệu về mạng tích chập nhẹ.
3.1 Mạng tích chập nhẹ: là sử dụng mạng
CNN để xây dựng ra mô hình với số lượng
tham số ít, nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả về
mặt hiệu suất. Hay nói cách khác là làm thế
nào để xây dựng một mô hình CNN với số
lượng tham số ít nhất có thể nhưng lại đạt
hiệu quả tốt nhất có thể, đây cũng là thách
thức khó khăn nhất được đặt ra đối với các
mô hình nhẹ nói chung. Khác với các mô hình
như VGG Net hay ResNet sử dụng hơn 40
triệu hoặc thậm chí hơn 100 tham số, các mô
hình nhẹ chỉ sử dụng vài triệu hoặc thậm chí
chỉ hơn 1 triệu tham số. Ví dụ: với phân loại
độ tuổi, mô hình AdienceNet từ [14] đã sử
dụng hơn 10 triệu tham số và độ chính xác là
50,7%, mô hình VGG-16 từ [6] đã sử dụng
hơn 100 triệu tham số và độ chính xác là
62,8%, nhưng mô hình nhẹ từ [7] chỉ sử dụng
10 triệu tham số và độ chính xác lên tới 46,0%.
3.2 Kiến trúc mô hình: mô hình lightweight
CNN được mô tả như trong hình 1. Phần đầu
tiên của mô hình, chúng tôi sử dụng mạng
CNN để trích chọn ra các đặc trưng từ dữ liệu
ảnh đầu vào. Các hoạt động trong tầng CNN
này bao gồm: Convolution (Conv) + Batch
Normalization (BN) + Rectified Linear Unit
(ReLU) + Max Pooling (MaxPool) với kích
thước cửa sổ trượt là 2x2, bước nhảy bằng 2 +
Drop out (Dropout) với tỷ lệ drop là 0,25. Ở
phần sau của mô hình, chúng tôi sử dụng mạng
Fully Connected (FC) với tỷ lệ dropout là 0,25.
3.3 Huấn luyện và thử nghiệm: Đầu vào của
mô hình là các hình ảnh RGB được thay đổi
kích thước xuống còn 64x64, đầu ra của mô
hình là vectơ y bao gồm 2 giá trị tương ứng với
ước lượng tuổi và ước lượng giới tính của
người trong ảnh đầu vào. Hàm mất mát của mô
hình được thiết kế như trong công thức (1).
(1)
Trong đó, N là số mẫu đưa vào mô hình huấn
luyện, T là số lượng nhiệm vụ (với bài toán
này T = 2). Chúng ta có là kết quả đầu ra
của mô hình và y là kết quả thực tế của dữ
liệu. Hàm mất mát được xây dựng dựa trên
công thức MSE và áp dụng cho bài toán đa
nhiệm vụ.
4. Thử nghiệm
4.1 Bộ cơ sở dữ liệu Adience: Như đã được
đề cập ở mục trước, chúng tôi sử dụng bộ cơ
sở dữ liệu Adience từ [21] để tiến hành huấn
luyện và đánh giá mô hình. Bộ cơ sở dữ liệu
Adience chủ yếu được xây dựng để nhận biết
độ tuổi và giới tính dựa vào ảnh chụp khuôn
mặt. Adience chứa hơn 26 nghìn hình ảnh với
độ phân giải 816 × 816 của hơn 2 nghìn người
khác nhau. Hầu hết các hình ảnh từ bộ dữ liệu
được tự động tải xuống từ Flickr và chúng
được thu thập trực tiếp từ các thiết bị di động
mà không qua lọc thủ công trước đó.
Có 8 nhóm đại diện cho độ tuổi của các đối
tượng bao gồm 0-2, 4-6, 8-13, 15-20, 25-32,
38-43, 48-53, 60-. Hình 2 là một ví dụ về các
hình ảnh với chất lượng điều kiện ánh sáng
kém, bị che một phần khuôn mặt, các tư thế
đầu khác nhau, ... cho thấy sự thách thức từ
bộ cơ sở dữ liệu này.
Chúng tôi không sử dụng bất kỳ dữ liệu bên
ngoài nào trong giai đoạn huấn luyện. Mô
hình lightweight CNN được đào tạo từ đầu
với hàm tối ưu hóa là Adam. Các hình ảnh
huấn luyện được chia thành nhiều phần với
kích thước là 32 hình ảnh trên mỗi batch và tỷ
lệ học tập chúng tôi sử dụng là 0,001. Để
đánh giá chính xác hiệu suất của mô hình,
chúng tôi sử dụng five-fold cross validation và
so sánh kết quả của mô hình với các phương
pháp đã được đề xuất gần đây trong [14], [6],
[7], [22] về cả độ chính xác, lượng tham số sử
dụng cũng như thời gian thực hiện.
Phùng Thị Thu Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 200(07): 119 - 124
Email: jst@tnu.edu.vn 123
Hình 1. Kiến trúc mô hình lightweight CNN
Hình 2. Một số ảnh trong bộ dữ liệu Adience
4.2 Kết quả và so sánh:
Từ bảng 1, có thể thấy rằng mô hình của
chúng tôi cho kết quả cao nhất trong việc ước
lượng độ tuổi (đạt 67.9% cao hơn 5.1% so với
kết quả tốt nhất hiện tại là VGG-16), về mặt
dự đoán giới tính, mô hình của chúng tôi kém
hơn 5% so với các mô hình học sâu khác như
VGG-16.
Bảng 1. So sánh độ chính xác giữa các mô hình
Mô hình Tuổi Giới tính
AdienceNet 50,7% ± 5,1% 86,8% ± 1,4%
Best from 46,0% ± 0,6% 86,0% ± 1,2%
CaffeNet 54,3% 90,6%
GoogleNet 58,5% 91,7%
VGG-16 62,8% 92,6%
CNN–ELM 52,3% ± 5,7% 88,2% ± 1,7%
Lightweight
CNN
67,9% ± 1,9% 88,8% ± 1,8%
Bảng 2, cho thấy số lượng tham số được sử
dụng của các mô hình. Mô hình light weight
CNN chỉ sử dụng khoảng 1 triệu tham số,
trong khi các mô hình khác sử dụng vài triệu
thậm chí hơn 100 triệu tham số chẳng hạn
như VGG-16 sử dụng tới 138 triệu tham số.
Bảng 2. So sánh số lượng tham số được sử dụng
giữa các mô hình
Mô hình Số lượng tham số sử dụng
AdienceNet [14] 12 triệu
Best from [7] 7 triệu
CaffeNet [6] 61 triệu
GoogleNet [6] 4 triệu
VGG-16 [6] 138 triệu
CNN–ELM [22] 11 triệu
Lightweight CNN 1 triệu
Về thời gian thực hiện, chúng tôi so sánh với
Best from [7] bởi vì đây là mô hình nhẹ duy
nhất và cũng là mô hình duy nhất có công bố
thời gian chạy. Chúng tôi xây dựng lại mô
hình của họ và chạy chúng trên cùng một máy
tính có cấu hình 3.6GHz CPU và 20GB
RAM. Mô hình trong [7] mất 0.4 giây để dự
đoán ra tuổi và giới tính từ một bức ảnh đầu
vào, trong khi đó mô hình light weight CNN
chỉ mất 0.08 giây để làm việc tương tự.
5. Kết luận
Trong bài báo này, chúng tôi đã đề xuất một
mô hình học sâu nhẹ sử dụng mạng CNN để
nhận diện tuổi và giới tính dựa vào hình ảnh
khuôn mặt. Mô hình mới này cho phép sử
dụng một số lượng nhỏ các tham số nhưng đạt
hiệu suất tốt hơn các mô hình đã được công
bố gần đây, đồng thời góp phần giải quyết
vấn đế nhận diện trong thời gian thực.
Trong tương lai gần, chúng tôi đang có kế
hoạch cải thiện độ chính xác của mô hình, đặc
biệt là đối với ước lượng giới tính. Mặt khác,
chúng tôi sẽ áp dụng mô hình của chúng tôi
Phùng Thị Thu Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 200(07): 119 - 124
Email: jst@tnu.edu.vn 124
cho các bài toán khác trong lĩnh vực thị giác
máy tính và xử lý hình ảnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. A. Krizhevsky, I. Sutskever, and G. E. Hinton,
“Imagenet classification with deep convolutional
neural networks,” Advances in neural information
processing systems, pp. 1097-1105, 2012.
[2]. M. D. Zeiler and R. Fergus, “Visualizing and
understanding convolutional networks”, European
conference on computer vision. Springer, pp. 818-
833, 2014.
[3]. C. Szegedy, W. Liu, Y. Jia, P. Sermanet, S.
Reed, D. Anguelov, D. Erhan, V. Vanhoucke, and
A. Rabinovich, “Going deeper with convolutions”,
Proceedings of the IEEE conference on computer
vision and pattern recognition, pp. 1–9, 2015.
[4]. He Kaiming et al. "Deep residual learning for
image recognition", Proceedings of the IEEE
conference on computer vision and pattern
recognition, 2016.
[5]. Y. Kim, “Convolutional neural networks for
sentence classification,” arXiv preprint arXiv,
1408.5882, 2014.
[6]. S. Lapuschkin, A. Binder, K. R. Muller, and
W. Samek, “Understanding ¨ and comparing deep
neural networks for age and gender classification”,
the IEEE Conference on Computer Vision and
Pattern Recognition, pp. 1629–1638, 2017.
[7]. L. Zhu, K. Wang, L. Lin, and L. Zhang,
“Learning a lightweight deep convolutional
network for joint age and gender recognition”,
Pattern Recognition (ICPR), 2016 23rd
International Conference on. IEEE, pp. 3282–
3287, 2016.
[8]. Y. H. Kwon and da Vitoria Lobo, “Age
classification from facial images”, in 1994
Proceedings of IEEE Conference on Computer
Vision and Pattern Recognition, June 1994, pp.
762–767, 1994.
[9]. N. Ramanathan and R. Chellappa, “Modeling
age progression in young faces”, in Computer
Vision and Pattern Recognition, 2006 IEEE
Computer Society Conference on, vol. 1. IEEE,
pp. 387–394, 2006.
[10]. X. Geng, Z. H. Zhou, and K. Smith-Miles,
“Automatic age estimation based on facial aging
patterns”, IEEE Transactions on pattern analysis
and machine intelligence, Vol. 29, No. 12, pp.
2234–2240, 2007.
[11]. S. Yan, M. Liu, and T. S. Huang, “Extracting
age information from local spatially flexible
patches”, in Acoustics, Speech and Signal
Processing, ICASSP 2008. IEEE International
Conference on, pp. 737–740, 2008.
[12]. X. Zhuang, X. Zhou, M. Hasegawa-Johnson,
and T. Huang, “Face age estimation using patch-
based hidden markov model supervectors”, in
Pattern Recognition, 2008. ICPR 2008. 19th
International Conference on. IEEE, pp. 1–4, 2008.
[13]. E. Eidinger, R. Enbar, and T. Hassner, “Age
and gender estimation of unfiltered faces”, IEEE
Transactions on Information Forensics and
Security, Vol. 9, No. 12, pp. 2170–2179, 2014.
[14]. G. Levi and T. Hassner, “Age and gender
classification using convolutional neural
networks”, in Proceedings of the IEEE
Conference on Computer Vision and Pattern
Recognition Workshops, pp. 34–42, 2015.
[15]. D. A. Reid, S. Samangooei, C. Chen, M. S.
Nixon, and A. Ross, “Soft biometrics for
surveillance: an overview”, in Handbook of
statistics. Elsevier, Vol. 31, pp. 327–352, 2013.
[16]. G. W. Cottrell and J. Metcalfe, “Empath:
Face, emotion, and gender recognition using
holons”, in Advances in neural information
processing systems, pp. 564–571, 1991.
[17]. M. J. Lyons, J. Budynek, A. Plante, and S.
Akamatsu, “Classifying facial attributes using a 2-d
gabor wavelet representation and discriminant
analysis”, Automatic Face and Gesture Recognition,
Proceedings. Fourth IEEE International Conference
on. IEEE, pp. 202–207, 2000.
[18]. B. Moghaddam and M.-H. Yang, “Learning
gender with support faces”, IEEE Transactions on
Pattern Analysis and Machine Intelligence, Vol.
24, No. 5, pp. 707–711, 2002.
[19]. S. Baluja and H. A. Rowley, “Boosting sex
identification performance”, International Journal of
computer vision, Vol. 71, No. 1, pp. 111–119, 2007.
[20]. I. Ullah, M. Hussain, G. Muhammad, H.
Aboalsamh, G. Bebis, and A. M. Mirza, “Gender
recognition from face images with local wld
descriptor”, in Systems, Signals and Image
Processing (IWSSIP), 2012 19th International
Conference on. IEEE, pp. 417–420, 2012.
[21]. E. Eidinger, R. Enbar, and T. Hassner, “Age
and gender estimation of unfiltered faces”, IEEE
Transactions on Information Forensics and
Security, Vol. 9, No. 12, pp. 2170–2179, 2014.
[22]. M. Duan, K. Li, C. Yang, and K. Li, “A
hybrid deep learning cnn– elm for age and gender
classification”, Neurocomputing, Vol. 275, pp.
448–461, 2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 542_1477_1_pb_0039_2135461.pdf