Tài liệu Mối quan hệ giữa “nhân nghĩa” và “lợi ích” trong đường lối chính trị của Mạnh Tử - Bùi Xuân Thanh: 129
Mối quan hệ giữa . . .
MỐI QUAN HỆ GIỮA “NHÂN NGHĨA” VÀ “LỢI ÍCH”
TRONG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA MẠNH TỬ
Bùi Xuân Thanh *
TĨM TẮT
Với tư tưởng dùng nhân nghĩa trong chính trị, Mạnh Tử đặc biệt đề cao vai trị của nhân
nghĩa trong cơng việc trị nước của nhà cầm quyền và chủ trương tuyệt đối hĩa tư tưởng đức trị của
Khổng Tử trong xã hội Trung Quốc đương thời. Để làm sáng tỏ vai trị của nhân nghĩa, Mạnh Tử đã
đối lập nhân nghĩa với lợi ích và địi hỏi nhà cầm quyền làm chính trị là vì nhân nghĩa chứ khơng
vì lợi ích. Theo ơng, khi nhà cầm quyền cĩ nhân nghĩa và thi hành nhân nghĩa trong chính trị thì
việc làm đĩ tự nhiên sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm
xuất phát cho suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tổn hại nhân nghĩa và cĩ thể mất luơn lợi ích.Cĩ
thể nĩi, lý luận về mối quan hệ giữa“nhân nghĩa” và “lợi ích” là tư tưởng đặc sắc, cĩ giá trị trong
đường lối chính trị của mạnh tử nĩi riêng và trong học thuyết chín...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa “nhân nghĩa” và “lợi ích” trong đường lối chính trị của Mạnh Tử - Bùi Xuân Thanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
129
Mối quan hệ giữa . . .
MỐI QUAN HỆ GIỮA “NHÂN NGHĨA” VÀ “LỢI ÍCH”
TRONG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA MẠNH TỬ
Bùi Xuân Thanh *
TĨM TẮT
Với tư tưởng dùng nhân nghĩa trong chính trị, Mạnh Tử đặc biệt đề cao vai trị của nhân
nghĩa trong cơng việc trị nước của nhà cầm quyền và chủ trương tuyệt đối hĩa tư tưởng đức trị của
Khổng Tử trong xã hội Trung Quốc đương thời. Để làm sáng tỏ vai trị của nhân nghĩa, Mạnh Tử đã
đối lập nhân nghĩa với lợi ích và địi hỏi nhà cầm quyền làm chính trị là vì nhân nghĩa chứ khơng
vì lợi ích. Theo ơng, khi nhà cầm quyền cĩ nhân nghĩa và thi hành nhân nghĩa trong chính trị thì
việc làm đĩ tự nhiên sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm
xuất phát cho suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tổn hại nhân nghĩa và cĩ thể mất luơn lợi ích.Cĩ
thể nĩi, lý luận về mối quan hệ giữa“nhân nghĩa” và “lợi ích” là tư tưởng đặc sắc, cĩ giá trị trong
đường lối chính trị của mạnh tử nĩi riêng và trong học thuyết chính trị - xã hội của ơng nĩi chung.
Từ khoá: nhân nghĩa, lợi ích, đường lối chính trị, Manh Tử
THE RELATION BETWEEN “BENEVOLENCE” AND “BENEFIT” OF
MENCIUS’ POLITICAL LINE.
ABSTRACT
With the thought of using benevolence in political, Mencius particularly gives prominence
to the role of benevolence in the govern a country of authorities and advocate absolutely the thought
of Mencius’ Rule of virtue in the then Chinese Society. To clarify the role of benevolence, Mencius
opposed benevolence and benefit and claimed the authorities doing politics for benevolence but not
for benefit. According to Mencius, If the authorities have benevolence and carry out the benevolence
in the politics, it will bring benefit. By contrast, if they give prominence to benefit, choosing benefit
as starting point for their thought and action, it will corrupt benevolence and may be lost benefit.
In fact, the theory of relation between “Benevolence” and “Benefit” is the special thought which
is very valuable in the Mencius’ political line in particular and political theory in his society in
general.
Keywords: benevolence, benefit, political line, Mencius (Mạnh Tử)
* TS. GV. Khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
130
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi nghiên cứu tư tưởng triết lý, chính trị,
đạo đức của Nho gia Tiên Tần qua các nhà tư
tưởng, với các tác phẩm lớn mà sau này được
xếp như là kinh điển của Nho gia, cĩ thể nĩi
một trong những điểm đặc sắc nhất trong học
thuyết chính trị - xã hội của Mạnh Tử là lý
luận về mới quan hệ biện chứng giữa “nhân
nghĩa” và “lợi ích”. Thơng qua việc bàn về
mới quan hệ này, Mạnh Tử đã đặc biệt đề cao
vai trò của nhân nghĩa. Xuất phát từ đĩ, ơng
vận dụng nhân nghĩa vào cơng việc chính trị
của nhà cầm quyền hình thành nên tư tưởng
nhân chính với những nội dung cơ bản: xây
dựng đường lới chính trị nhân nghĩa, hồn
thiện đạo đức vua quan, đề cao vai trò của dân
theo tinh thần dân bản, dưỡng dân gắn liền
với giáo hĩa dân, cùng với những quan điểm
về kinh tế, chiến tranhmang tính nhân văn
sâu sắc.
2. NHÂN NGHĨA VÀ LỢI ÍCH
TRONG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA
MẠNH TỬ
Nhân nghĩa được hiểu theo nghĩa khái
quát nhất là dùng nhân nghĩa trong chính trị.
Do đĩ, mặc dù Mạnh Tử khơng ưa biện luận,
nhưng để thuyết phục các vua chư hầu sử dụng
học thuyết của mình, và để triển khai những
tư tưởng cơ bản trong đường lới nhân nghĩa;
trước hết ơng tập trung làm sáng tỏ vai trò của
nhân nghĩa đới với cơng việc cai trị của nhà
cầm quyền. Chính vì thế, lý luận về vai trò của
nhân nghĩa trong chính trị trở thành một trong
những nội dung mang tính cơ sở trong đường
lới nhân chính của Mạnh Tử nĩi riêng và trong
học thuyết chính trị - xã hội của ơng nĩi chung.
Là một nhà Nho cĩ tấm lòng nhân ái,
Mạnh Tử rất coi trọng nhân nghĩa. Lập trường
nhất quán của ơng là khi: “Thiên hạ chìm đắm,
muớn tiếp cứu họ, phải dùng đạo lý (nhân,
nghĩa, lễ) mới được” [12] Chính vì vậy,
trong học thuyết chính trị - xã hội của mình,
Mạnh Tử chủ trương nhà cầm quyền phải lấy
nhân nghĩa làm gớc trong cơng việc trị nước.
Trong suy nghĩ của ơng, các bậc vương giả
trị quớc, bình thiên hạ là vì nhân nghĩa chứ
khơng phải vì lợi ích. Ơng đề cao tới mức độ
tuyệt đới hĩa vai trò của nhân nghĩa, đặt nĩ
lên trên lợi ích nên cho rằng nhà cầm quyền
khơng cần nĩi tới lợi ích mà chỉ cần nĩi tới
nhân nghĩa là đủ. Chính vì thế, khi Mạnh Tử
sang nước Lương, Huệ vương hỏi ơng cĩ
phương pháp gì để làm lợi cho nước mình.
Ơng trả lời: Vua cần gì phải nĩi việc lợi? Hãy
nĩi việc nhân nghĩa mà thơi.
Nếu ở trên bậc quớc vương nĩi rằng: Cĩ
cách gì để làm lợi cho đất nước ta? Kế đĩ,
hàng đại phu nĩi rằng: Cĩ cách gì để làm lợi
cho gia tộc ta? Sau đĩ hạng sĩ và hạng bình
dân nĩi rằng: Cĩ cách gì để làm lợi cho thân
phận ta? Như vậy, từ trên tới dưới đều tranh
nhau vì mới lợi, ắt vận nước phải lâm nguy
đĩ” [11].
Khơng phải ngẫu nhiên mà Mạnh Tử coi
trọng nhân nghĩa và đặt nhân nghĩa lên trên
lợi ích. Theo ơng: “Những vị Thiên tử đời
trước nhân cĩ lòng chẳng nỡ đới với kẻ khác,
thành ra phở cập lòng thương xĩt người trong
việc chính trị của mình. Bởi cĩ lòng chẳng
nỡ ấy, các ngài bèn đem lòng thương xĩt mà
thi hành trong chính sự, cho nên các ngài cai
trị thiên hạ dường như cĩ thể xây trở mĩn đồ
trên bàn tay” [11]. Trong suy nghĩ của ơng,
khi nhà cầm quyền “biết làm cho bớn mới
thương xĩt, hở thẹn, khiêm nhượng và phải
quấy được sung túc” nơi mình, họ sẽ đủ sức
cai trị thiên hạ. Ngược lại, nếu họ lấy lợi ích
131
Mối quan hệ giữa . . .
làm mục đích cho suy nghĩ và hành động của
mình thì kẻ dưới sẽ vì lợi mà hại kẻ trên, còn
kẻ trên cũng vì lợi ích chiếm đoạt hết của cải
của kẻ dưới. Trong một quớc gia và trong cả
thiên hạ, nếu tất cả mọi người chỉ biết đuởi
theo lợi ích của bản thân mình, gia đình mình
và dòng tộc mình, tất sẽ đưa xã hội tới tình
trạng loạn lạc, mọi người tranh giành, cướp
đoạt của cải của nhau. Chính vì thế, muớn
bình trị thiên hạ, nhà cầm quyền khơng được
lấy lợi ích làm điểm xuất phát cũng như mục
tiêu hướng tới của đường lới cai trị.
Mạnh Tử rất coi thường những ai khơng
coi trọng nhân nghĩa. Trong suy nghĩ của ơng,
người học theo “Thánh hiền”, nới nghiệp vua
Nghiêu, vua Thuấn, sáng vừa thức dậy đã lo
việc sửa mình và giúp đời. Còn kẻ theo phường
gian trá vừa bừng mắt ra, đã mưu tính việc lợi
cho mình. Những ai coi trọng nhân nghĩa và
biết làm nhân chính là những kẻ thiện đức. Kẻ
nào trong lòng thường sinh ra tư tưởng dục lợi
là những kẻ đạo tặc. Ơng viết: “Nghe gà gáy
rộ mà thức dậy, chăm chăm làm việc thiện,
người ấy là phái đồ của vua Thuấn, bậc trí
đức vậy. Nghe gà gáy rộ mà thức dậy, chăm
chăm là việc lợi, kẻ ấy là mơn đồ của người
Chích, tay cướp tở vậy”[12]. Theo đĩ, nhân
nghĩa là phẩm chất khơng thể thiếu của vua và
các bậc quan lại, nĩi rộng ra là của nhà cầm
quyền. Mạnh Tử phê phán gay gắt vua Trụ là
kẻ làm hại đức nhân nghĩa nên khơng xứng
đáng làm vua. Vì vậy khi Tề Tuyên vương hỏi
ơng về trường hợp vua chư hầu Võ vương giết
vua Trụ nhà Thương: “Bề tơi mà giết vua cĩ
nên chăng?”. Ơng trả lời: “ Kẻ làm hại đức
nhân gọi là tặc; kẻ làm hại đức nghĩa gọi là
tàn. Kẻ tàn, kẻ tặc chẳng qua là một người
thường mà thơi. Tơi từng nghe vua Võ vương
chỉ giết một người thường là Trụ thơi, chứ tơi
chưa hề nghe giết vua”[11]. Thơng qua việc
phê phán vua Trụ, Mạnh Tử muớn khuyến cáo
Tề Tuyên vương khơng được coi thường nhân
nghĩa trong đạo trị nước. Theo ơng, một vị vua
bất nhân và bất nghĩa tất sẽ cai trị bằng “bạo
ngược” đẩy nhân dân vào cảnh “nước lửa”. Đĩ
chính là nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng
của dân đới với vua, khiến vua phải trả giá
bằng chính mạng sớng của mình. Ngược lại,
một ơng vua biết coi trọng nhân nghĩa, thi hành
nhân chính, tất sẽ nhận được sự ủng hộ của dân
để làm nên nghiệp lớn. Do đĩ ơng khuyên vua
Mục Cơng nước Trâu: “Nếu vua thi hành nền
chính trị nhân đức, ban ân huệ cho dân, khiến
các quan chức trơng nom dân chúng thì bá tính
sẽ thương mến người bề trên của mình và dám
liều chết vì kẻ lớn của mình”[11].
Cĩ thể nĩi, đạo trị nước của Mạnh Tử tĩm
gọn trong hai chữ nhân chính và hồi bão lớn
nhất của ơng là làm thế nào cho đức nhân
nghĩa trở thành lẽ sớng của mỗi người trong
xã hội. Để đức nhân nghĩa cĩ thể lan rộng và
tỏa sáng, Mạnh Tử bơn ba các nước khơng
mệt mỏi khuyên các vua chư hầu thực hiện
đường lới nhân chính. Nếu Khởng Tử khuyên
người ta “phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ
vật ngơn, phi lễ vật động: sắc chi chẳng hợp
lễ thì mình đừng ngĩ, tiếng chi chẳng hợp lễ
thì đừng nghe, lời chi chẳng hợp lễ thì mình
đừng nĩi, việc chi chẳng hợp lễ thì mình đừng
làm”[10], thì nguyên tắc của Mạnh Tử là
nghe điều nhân nghĩa, nĩi điều nhân nghĩa và
làm điều nhân nghĩa. Điều đĩ được thể hiện
qua câu nĩi của ơng với Cảnh Sửu: “Ta đây,
ngồi cái đạo lý của vua Nghiêu, vua Thuấn,
ta chẳng dám đem điều gì khác mà tâu bày
trước vua”[11]. Cái đạo lý của vua Nghiêu
vua Thuấn mà Mạnh Tử nĩi tới ở đây chính
là đạo nhân nghĩa. Mạnh Tử cho rằng các vị
132
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
“Thiên tử” đời trước là những người cĩ nhân
nghĩa, biết “phở cập lòng thương xĩt người
trong việc chính trị của mình”, nghĩa là biết
đem lòng nhân nghĩa thi hành trong chính
trị nên sự nghiệp mới bền vững. Nhắc lại lời
Khởng Tử: Đạo chỉ cĩ hai đường nhân và bất
nhân, Mạnh Tử chỉ ra đạo trị nước cũng chỉ
cĩ hai đường nhân và bất nhân. Theo ơng, sở
dĩ các triều đại trong quá khứ được thiên hạ
là nhờ biết làm nhân (đĩ là các trường hợp
vua Vũ lập ra nhà Hạ, vua Thương lập ra nhà
Thương và vua Võ vương dựng lên nhà Chu).
Ngược lại, các triều đại mất thiên hạ là do làm
điều bất nhân (đĩ là các trường hợp vua Kiệt
làm mất nhà Hạ, vua Trụ để mất nhà Thương,
vua Lệ và vua U nhà Chu mất ngơi). Chính vì
lẽ đĩ, Mạnh Tử đòi hỏi các vua chư hầu phải
trị nước theo pháp tiên vương. Đới với ơng,
đĩ là cách duy nhất để đưa xã hội Trung Quớc
đương thời ra khỏi cảnh loạn lạc, phân tranh,
và đĩ cũng là phương pháp tớt nhất để một
ơng vua củng cớ sự nghiệp.
Cớ nhiên, khi lấy nhân nghĩa làm gớc
trong đạo trị nước, Mạnh Tử cĩ lý lẽ riêng
của ơng. Ơng tin tưởng rằng: “Hiện nay nếu
vua chư hầu chịu hành chính như Văn vương,
trong bảy năm ắt nền nhân chính sẽ phở khắp
thiên hạ”[12]. Mặt khác, trong suy nghĩ của
ơng, “Đức nhân là chỗ an ởn của người đời.
Đức nghĩa là con đường chính đại của người
đời”[12], nên khi nhà cầm quyền cai trị bằng
bạo lực là khơng biết “ở trong đức nhân và noi
theo đức nghĩa”. Như vậy cĩ thể đưa dân vào
khuơn khở nhưng khơng thể thu phục lòng
dân. Từ đĩ cho thấy, thi hành nhânnghĩa trong
chính trị về thực chất là trị nước bằng đắc
nhân tâm. Nĩi cách khác là nhà cầm quyền
phải thu phục nhân tâm bằng đức nhân nghĩa
của mình.
Thế nhưng thời đại của Mạnh Tử là thời
đại của chiến tranh và loạn lạc. Trong bới
cảnh ấy Mạnh Tử khơng thể khơng nhận
thấy xã hội Trung Quớc đương thời vẫn xảy
ra những trường hợp mặc dù nhà cầm quyền
lấy nhân nghĩa làm trọng trong đường lới trị
quớc, nhưng họ vẫn khơng nhận được sự phục
tùng, tin yêu của dân nên sự nghiệp khơng bền
vững. Lý giải về những trường hợp ấy, Mạnh
Tử cho rằng khơng phải vì đức nhân nghĩa
khơng thể thu phục nhân tâm mà do lòng nhân
của kẻ cai trị chưa đủ để cảm hĩa lòng người.
Mặt khác, theo ơng nhân phải gắn liền với
trí. Đã cĩ nhân trong suy nghĩ mà khơng biết
làm nhân là khơng cĩ trí. Vậy nên “Mình yêu
thương người mà người chẳng thân mến, vậy
mình nên tự xét coi mình cĩ đủ lòng nhân hay
chăng. Mình cai trị người mà người chẳng
phục tùng, vậy mình nên xét coi mình cĩ đủ
trí sáng hay chăng” [12].
Theo đĩ, đạo trị nước phải gắn liền nhân
với trí. Khi nhà cầm quyền cĩ đủ nhân và trí,
tất sẽ biết được điều gì nên làm để làm, điều
gì khơng nên làm để khơng làm, nên sẽ cảm
hĩa được lòng dân, thu phục được nhân tâm.
Khi đề xuất đường lới nhân chính với nhà
cầm quyền, mọi chủ trương, chính sách Mạnh
Tử đưa ra chỉ vì nhân nghĩa chứ khơng vì lợi
ích. Thế nhưng, xét tới cùng, bản chất của mới
quan hệ giữa người với người trong xã hội,
giữa cá nhân với tập thể, cũng như giữa cá
nhân với xã hội lại là mới quan hệ lợi ích. Vậy
việc Mạnh Tử kịch liệt phản đới những ai nĩi
tới lợi ích cĩ phải do ơng khơng hiểu rằng lợi
ích là động lực cơ bản chi phới mọi hành vi
của con người?
Chúng tơi cho rằng Mạnh Tử hồn tồn
khơng phủ nhận lợi ích ngay cả khi ơng đới
lập nhân nghĩa với lợi ích. Thực ra việc đới
133
Mối quan hệ giữa . . .
lập nhân nghĩa với lợi ích chỉ là cái cách mà
Mạnh Tử đề cao nhân nghĩa. Phản đới việc
người đời lấy lợi ích làm động cơ cho hành
động của họ vì Mạnh Tử khơng tin rằng xuất
phát từ lợi ích, người ta lại cĩ thể giữ được
nhân nghĩa. Đặt nghĩa và lợi trong mới quan
hệ một chiều, ơng cĩ dụng ý làm rõ cơng dụng
của nhân nghĩa. Ơng tin tưởng rằng khi nhà
cầm quyền cĩ nhân nghĩa và thi hành nhân
nghĩa trong chính trị thì việc làm đĩ tự nhiên
sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề
cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm xuất phát cho
suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tởn hại nhân
nghĩa và cĩ thể mất luơn lợi ích. Chính vì lẽ đĩ
khi Tớng Hinh muớn đem điều lợi để khuyên
Tần và Sở khơng nên đánh nhau, Mạnh Tử đã
phân tích về sự cĩ hại của việc làm này, qua
đĩ làm nởi bật vai trò của nhân nghĩa. Ơng
nĩi: Nếu tiên sinh đem việc lợi mà nĩi với vua
nước Tần và vua nước Sở, hai vua ấy đẹp lòng
vì chỗ lợi, bèn bãi hết các sư đồn trong tam
quân Rồi kẻ làm tơi vì ham lợi nên thờ vua.
Kẻ làm con vì ham lợi nên thờ cha. Kẻ làm em
vì ham lợi nên thờ anh. Như vậy, vua tơi, cha
con, anh em rớt cuộc đều bỏ hết điều nhân và
điều nghĩa; ai nấy đều giao tiếp nhau chẳng
qua vì lòng tham lợi mà thơi. Nước nhà như
thế mà chẳng diệt vong, thì chưa từng cĩ vậy.
Còn như tiên sinh đem điều nhân và điều
nghĩa mà nĩi với vua nước Tần và vua nước
Sở, hai vua ấy đẹp lòng về chỗ nhân và chỗ
nghĩa, bèn bãi hết các sư đồn trong tam
quân Rồi ra, kẻ làm tơi vì mộ nhân nghĩa
nên thờ vua, kẻ làm con vì mộ nhân nghĩa nên
thờ cha. Kẻ làm em vì mộ nhân nghĩa nên thờ
anh. Như vậy, vua tơi, cha con, anh em rớt
cuộc đều bỏ tuyệt điều lợi, ai nấy đều giao
tiếp nhau chỉ vì lòng hâm mộ nhân nghĩa mà
thơi. Cần chi phải nĩi chuyện lợi?”[12]. Tư
tưởng trên đây của Mạnh Tử đượm tinh thần
nhân văn sâu sắc. Nĩ chứng tỏ ơng là nhà tư
tưởng cĩ tấm lòng nhân ái, luơn đề cao nhân
nghĩa. Coi nhân nghĩa là gớc của đạo làm
người, Mạnh Tử muớn nới lòng mình lan tỏa
tới mọi người để đức nhân nghĩa được phở
cập rộng khắp và khuyến cáo nhà cầm quyền
phải biết dùng nhân nghĩa điều chỉnh các mới
quan hệ xã hội, đưa thiên hạ trở lại hữu đạo.
Tuy nhiên, việc Mạnh Tử đề cao tới mức
độ tuyệt đới hĩa vai trò của nhân nghĩa và đòi
hỏi con người phải lấy nhân nghĩa đới xử với
nhau trong cuộc sớng một cách vơ điều kiện,
cho thấy ơng chưa nhìn rõ sức mạnh thực sự
của bản năng, của cái phần “động vật” trong
con người với vơ sớ nhu cầu cần phải thỏa
mãn. Mặt khác, chúng ta hiểu rằng con người
muớn hướng thiện nhưng con người lại khơng
thể chới bỏ bản năng nên ngay trong suy nghĩ
của mỗi người luơn luơn tồn tại sự đấu tranh
giữa lợi ích và sự thánh thiện. Khi Mạnh Tử
kêu gọi mỗi người, cả nước, cả thiên hạ hãy
sớng vì nhân nghĩa thì lời kêu gọi ấy của ơng
mang tính giáo dục hơn là tính phương pháp
trong cơng việc trị nước của nhà cầm quyền.
Thế nhưng tại sao Mạnh Tử lại đới lập
nghĩa với lợi và khuyên nhà cầm quyền phải
quên lợi? Xét tới cùng, đĩ chỉ là cái cách đề
cao nghĩa của ơng. Nếu như Khởng Tử coi
nghĩa là đức tính quan trọng để phân biệt
người quân tử với kẻ tiểu nhân nên đặt nghĩa
lên trên tư lợi cá nhân và đòi hỏi con người
khơng được vì lợi mà quên nghĩa, thì Mạnh
Tử đã đi xa hơn một bước bằng cách tuyệt đới
hĩa vai trò của nghĩa, đòi hỏi người ta phải
quên lợi vì nghĩa. Trong suy nghĩ của Mạnh
Tử, lợi là quan tước, bởng lộc, tiền của luơn
cám dỗ con người, làm cho con người khơng
còn giữ được nhân nghĩa. Hơn nữa, thời đại
134
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
của ơng - thời Chiến quớc, xã hội Trung Hoa
đang loạn lạc, các nước chư hầu tranh thành
cướp đất của nhau, chỉ biết đuởi theo lợi ích.
Thế nhưng các cuộc chiến tranh vì lợi ích ấy
chẳng những khơng mang lại lợi ích mà còn
làm tởn hại lợi ích của vua chúa và các tập
đồn vua chúa cũng như tính mạng, tài sản
của nhân dân. Để cứu vãn tình trạng đĩ, Mạnh
Tử chủ trương dùng các giá trị chuẩn mực
đạo đức điều chỉnh hành vi con người, và một
trong những giá trị chuẩn mực đạo đức ấy là
nhân nghĩa. Ơng đưa ra lẽ sớng: Kẻ nào coi
trọng lợi ích tất sẽ nhận được sự đới xử cũng
chỉ vì lợi ích của kẻ khác nên dễ mất luơn lợi
ích. Ngược lại, những ai coi trọng nhân nghĩa
sẽ nhận được sự đới xử cĩ nhân nghĩa của mọi
người, từ đĩ tự nhiên cĩ lợi. Như vậy, khơng
cầu lợi mà tự khắc sẽ cĩ lợi, còn nếu đuởi theo
lợi sẽ mất luơn lợi ích.
Rõ ràng, đới lập nhân nghĩa với lợi ích và
đòi hỏi người ta phải quên lợi, về thực chất
lại là mưu cầu lợi ích. Xét tới cùng, cái trật
tự xã hội mà Mạnh Tử phấn đấu xây dựng
cũng chỉ là xã hội bảo đảm quyền lợi cho vua,
cùng các tập đồn vua chúa và mục tiêu mà
ơng đặt ra cho kẻ sĩ cũng là để cĩ danh lợi.
Như vậy, Mạnh Tử khơng phê phán lợi ích nĩi
chung mà chỉ tập trung phê phán cái lợi nào
cĩ hại cho nhân nghĩa. Tuy nhiên, xã hội là sự
hợp thành của các cá nhân với sự đa dạng về
nhân cách. Do hồn cảnh sớng, kinh nghiệm,
trường đời, tuởi tác của mỗi cá nhân trong
xã hội khơng giớng nhau, nên những quan
niệm cùng những trạng thái xúc cảm tâm lý
của các cộng đồng người, các cá nhân về các
giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm và
về các quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi
ứng xử giữa cá nhân với xã hội, cá nhân với cá
nhân luơn luơn cĩ sự khác biệt. Do đĩ, khơng
phải bất kỳ cá nhân nào khi thu nhận phạm trù
đạo đức nhân nghĩa bằng con đường lý tính
đều chuyển hĩa nĩ thành hành vi nhân nghĩa.
Đồng thời khơng phải lúc nào trong cuộc sớng
đức nhân nghĩa cũng được thực hiện suơn sẻ;
khơng phải bất cứ ai cứ đới xử nhân nghĩa với
người khác cũng được đáp trả bằng hành vi
nhân nghĩa và lợi ích. Điều ấy cho thấy cách
đạt đến lợi ích của Mạnh Tử khơng mang tính
triệt để và thiếu thiết thực nên ơng khĩ cĩ thể
thuyết phục được các vua chư hầu làm theo
trong bới cảnh “đời suy đạo hỏng”.
Cĩ thể nĩi, nếu điểm cớt lõi mang tính
đặc sắc trong học thuyết chính trị - xã hội của
Mạnh Tử là tư tưởng dùng nhân nghĩa trong
chính trị, thì hạn chế đầu tiên và xuyên suớt
của học thuyết ấy cũng bắt đầu từ tư tưởng
này. Mạnh Tử chủ trương dùng đạo đức nhân
nghĩa trong chính trị, nhưng đĩ là thứ đạo
đức tiên nghiệm, chứ khơng phải những giá
trị, chuẩn mực đạo đức được hình thành trong
quá trình phát triển của xã hội. Theo Mạnh
Tử, vũ trụ bên ngồi thuần túy là vũ trụ tâm
linh. Những nguyên tắc đạo đức của con người
đồng thời cũng là những nguyên tắc siêu hình
của vũ trụ và bản tính con người chỉ là sự thể
hiện đặc biệt những nguyên tắc ấy.
Lòng thương xĩt là đầu mới của đức nhân
“mọi người đều cĩ” - điều đĩ cĩ nghĩa nĩ
mang tính bản năng và phở biến. Mạnh Tử
nĩi “mọi người đều cĩ lòng chẳng nỡ” nên
cớ nhiên các ơng vua trị vì thiên hạ cũng cĩ
lòng “chẳng nỡ”. Chính vì vậy mới cĩ chính
trị “chẳng nỡ” đới với mọi người. Đức nhân
chỉ là sự phát triển của lòng thương xĩt, lòng
thương xĩt chỉ phát triển được khi thi hành
nhân ái nên thương người và làm những việc
thương người là để đức nhân trở nên phở
biến. Vương đạo khơng cĩ gì khác hơn là sự
135
Mối quan hệ giữa . . .
thi hành nhân của vua chúa. Điều đĩ cho thấy
Mạnh Tử lấy đức nhân làm điểm xuất phát
để nới lòng mình lan tới người trong đạo trị
nước. Tuy nhiên, trong đời sớng xã hội đầy
những biến cớ phức tạp, đức nhân nghĩa ơng
đưa ra sẽ gặp rất nhiều lực cản, làm cho nĩ
khơng thể hiện một cách suơn sẻ và khĩ trở
thành phở biến. Khi chuẩn mực đạo đức ấy
khơng thể đi vào cuộc sớng, khơng giải quyết
được mới quan hệ giữa nĩ với những hành
động bất thiện của con người thì việc thực
hiện nhân nghĩa chỉ là sự thể hiện mờ nhạt.
Khi đề cập đến mới quan hệ giữa nhân
nghĩa và lợi ích, Mạnh Tử đã đặt niềm tin
tuyệt đới vào sức mạnh của đạo đức, nên ơng
khơng tính đến những rào cản trong việc thi
hành nhân nghĩa trong chính trị. Tư tưởng
nhân nghĩa nĩi riêng và tư tưởng đạo đức của
ơng nĩi chung xuất phát từ tính tự giác của con
người. Khi dùng nĩ để điều chỉnh hành vi cá
nhân, ơng đã khơng nhìn thẳng vào mâu thuẫn
giữa lý trí, đạo đức với hiện thực cuộc sớng,
nên đã khơng giải quyết được mâu thuẫn ấy.
Do đĩ, sự hy vọng cảm hĩa nhân tâm trong
đường lới chính trị của ơng khơng tránh khỏi
sự mơ hồ, khĩ thuyết phục đới với những ai
đã dày dạn trong trường đời. Điều này cắt
nghĩa tại sao các vua chư hầu đã khơng sử
dụng học thuyết của ơng trong cơng việc trị
nước của họ.
Trước sự xung đột giữa lẽ phải và dục
vọng, giữa nhân nghĩa và lợi ích Mạnh Tử
cũng chỉ biết đề cao nhân nghĩa để xoa dịu
tình hình mà khơng thực sự giải quyết mâu
thuẫn đĩ. Dùng nhân nghĩa trong chính trị, coi
thường lợi ích là để mong con người hướng
thiện, nhưng con người cĩ hướng thiện được
hay khơng, khơng chỉ phụ thuộc vào nhân
nghĩa của kẻ cai trị mà còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tớ: sinh lý, hồn cảnh khách quan,
điều kiện sớng Mạnh Tử đã khơng nhận ra
điều đĩ nên ơng khơng biết sử dụng và kết
hợp các yếu tớ ấy để giảm bớt những sai trái
trong hành vi con người. Chính vì thế, mặc dù
đã rất cớ gắng “hành đạo” nhưng Mạnh Tử và
các nhà Nho chủ trương đức trị trong xã hội
Trung Quớc đương thời vẫn khơng thể cứu
vãn được tình trạng “đời suy, đạo hỏng”. Cuới
cùng, sự bế tắc trên con đường chính trị và sự
thất bại trong sự nghiệp “cứu đời, cứu người”
đã được ơng giải thích bằng “mệnh trời” như
Khởng Tử.
Mạnh Tử là một nhà triết học duy tâm.
Trên nền tảng tư tưởng “Thiên mệnh” của
Khởng Tử và một sớ nhà Nho như Tử Tư,
Tăng Sâm ơng đã dựng lên một hệ thớng
triết học duy tâm chủ nghĩa của các nhà Nho
và phát triển thế giới quan duy tâm trong
triết học Khởng Tử lên đến đỉnh cao. Trong
tư tưởng của Mạnh Tử, trời là đấng tới cao
chi phới vạn vật và xét tới cùng mọi sự biến
đởi của đời sớng xã hội, sự thay thế nhau của
các vương triều cũng như quyền hành, chức
tước của mỗi cá nhân đều do “Thiên mệnh”
chi phới. Ơng nĩi: “Tự mình là vua nước lớn
mạnh mà giúp vua các nước nhỏ yếu, đĩ là
mình vui thuận Mạng Trời. Tự mình là vua
nước nhỏ yếu mà thờ phụng vua nước lớn
mạnh, đĩ là mình kính sợ Mạng Trời. Bậc
Thiên tử vui thuận Mạng Trời thì cĩ thể bảo
tồn cuộc cai trị thiên hạ một cách bền vững.
Bậc quớc trưởng kính sợ Mạng Trời thì đủ
sức gìn giữ nước nhà mình một cách miên
trường.”[11]. Theo ơng: “Phàm việc gì mình
khơng cớ ý làm mà tự nhiên mình làm, đĩ là ý
Trời; mình khơng mong cầu mà tự nhiên tới,
đĩ là Mạng Trời vậy”[12]. Vậy nên: “Mình
bảo tồn lòng dạ mình, lương tâm mình, mình
136
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
tưởng dưỡng bản tính mình là để thờ Trời vậy.
Dẫu mình cĩ chết yểu hay sớng dai; hai việc
ấy mình vẫn coi như nhau; mình cứ bền chí
mà tu tập lấy mình, bình tĩnh đới với giờ phút
cuới cùng của mình; đĩ là cách mình lập vững
cái Mạng do Trời ban cho mình vậy”[12].
Rõ ràng, đạo đức nhân nghĩa là do trời
phú, và suy cho cùng mọi suy nghĩ, hành vi,
địa vị của mỗi người là do trời quy định.
Trời quy định tất cả, vậy sự lu mờ của kỷ
cương phép nước, sự đảo lộn của luân thường
đạo lý và cả sự tham lợi của con người lẽ nào
lại khơng do trời quy định? Từ đĩ cho thấy,
việc quá đề cao mệnh trời lại làm giảm đi vai
trò của nhân nghĩa, làm cho đạo đức nhân
nghĩa bị bao bọc bởi cái vỏ duy tâm thần bí
nên khĩ cĩ thể phát huy tác dụng mà chỉ thể
hiện ra một cách yếu ớt.
Thế nhưng, học thuyết chính trị - xã hội
của Mạnh Tử với những quan điểm về mới
quan hệ giữa nhân nghĩa và lợi ích đã đề cập
trên đây thấm đẫm tinh thần nhân bản, dân
bản của ơng. Chủ trương đạt đến lợi ích bằng
cách làm điều nhân nghĩa của Mạnh Tử khơng
chỉ thể hiện một tinh thần nhân văn sâu sắc
mà còn thể hiện sự khát khao của ơng về sự
hướng thiện của con người. Nĩ cũng chứng
tỏ rằng ngay cả lúc tình trạng suy đồi đạo đức
lên đến đỉnh điểm, Mạnh Tử vẫn thể hiện một
lập trường nhất quán và một niềm tin sắt đá
vào sự thức tỉnh lương tri của con người. Với
những lập luận đặc sắc về tâm tính và với
niềm tin ấy ơng đã dành gần trọn cả cuộc đời,
chuyên tâm, bền chí giáo dục đạo đức cho
đồng loại.
3. KẾT LUẬN
Nhìn chung, trong quá trình mở rộng nhân
nghĩa đến chính trị, Mạnh Tử đã đưa ra những
lập luận sắc sảo về vai trò của nghĩa trong
tương quan giữa nghĩa với lợi, cũng như vai
trò của nhân nghĩa trong mới quan hệ giữa
nhân nghĩa với sự hưng vong của các vương
triều và sự bền vững của ngơi vua. Tiếp tục kế
thừa tư tưởng của Khởng Tử: “Quân tử hiểu
rõ về nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ về lợi”, nhưng
Mạnh Tử tuyệt đới hĩa vai trò của nghĩa, đòi
hỏi nhà cầm quyền phải vì nghĩa quên lợi. Mặc
dù đề cao nghĩa xét tới cùng cũng là để mưu
cầu lợi ích, nhưng cái cách đạt đến lợi ích trên
cơ sở nhân nghĩa trong đường lới chính trị của
Mạnh Tử đã thể hiện tinh thần nhân văn sâu
sắc. Cĩ thể nĩi việc đề cao nhân nghĩa chính
là chủ ý của Mạnh Tử nhằm cụ thể hĩa đường
lới đức trị của Khởng Tử thành nhân chính và
hiện thực hĩa tư tưởng ấy trong đời sống
xã hội. Nĩ thực sự là một trong những tinh
hoa của tư tưởng lồi người nĩi chung và tư
tưởng Trung Quớc nĩi riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán Việt, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
[2] Tào Thượng Bân (2005), Tư tưởng nhân bản của Nho học Tiên Tần, Nxb. Đại học Quớc gia, Hà Nội.
[3] Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê (1960), Đại cương triết học Trung Quớc. Cảo Thơm, Sài Gòn.
137
Mối quan hệ giữa . . .
[4] Doãn Chính (2004), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị quớc gia, Hà Nội.
[5] Doãn Chính, Trương Giới, Trương Văn Chung (1994), Giải thích các danh từ triết học sử Trung
Quốc, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
[6] Vũ Khiêu (chủ biên) (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
[7] Vũ Khiêu (1995), Đức trị và pháp trị trong Nho giáo, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
[8] Trần Trọng Kim (1971), Nho giáo, Trung tâm Học liệu, Sài Gòn.
[9] Nguyễn Hiến Lê (1996), Mạnh Tử, Nxb. Văn hĩa - Thơng tin, Hà Nội.
[10] Luận ngữ, (bản dịch của Đồn Trung Còn) (1950), Trí Đức Tòng thơ, Sài Gòn.
[11] Mạnh Tử-Quyển thượng, (bản dịch của Đồn Trung Còn).;1950, Trí Đức Tòng thơ, Sài Gòn.
[12] Mạnh Tử – Quyển hạ, (bản dịch của Đồn Trung Còn) (1950), Trí Đức Tòng thơ, Sài Gòn.
[13] Mạnh Tử quốc văn giải thích, (Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đơn Phục dịch thuật) (1992), Nxb. Tp.
Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
[14] Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học tại Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
[15] Tứ thư tập chú (Chu Hy, do Nguyễn Đức Lân chú dịch)(1998), Nxb. Văn hĩa -Thơng tin.
[16] Nguyễn Khắc Viện (1996), Bàn về đạo Nho, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34_0661_2121728.pdf