Tài liệu Mối quan hệ giữa hệ sinh thái khởi nghiệp và thành công của các doanh nghiệp khởi nghiệp – Bằng chứng các doanh nghiệp khởi nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh - Trần Hoàng Ngân: 1Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 48, 12/2018
__________________________________________
1 Học viện Cán bộ Tp. Hồ Chí Minh
2 Trường Đại Học Tài chính – Marketing
MỐI QUAN HỆ GIỮA HỆ SINH THÁI KHỞI NGHIỆP VÀ
THÀNH CÔNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP –
BẰNG CHỨNG CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP
TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
THE RELATIONSHIP BETWEEN STARTUPS ECOSYSTEM
AND STARTUPS PERFORMANCE – EVIDENCE
FROM STARTUPS IN HOCHIMINH CITY
Trần Hoàng Ngân1
Phạm Quốc Việt2, Hồ Thu Hoài2
Ngày nhận: 26/10/2018 Ngày nhận bản sửa: 2/11/2018 Ngày đăng: 5/12/2018
Tóm tắt
Là trung tâm kinh tế - khoa học công nghệ, Tp. Hồ Chí Minh đã đi đầu trong phong trào khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo cả nước. Bước đầu, Thành phố đã dần hình thành được hệ sinh thái khởi
nghiệp, làm “bàn đẩy” đưa phong trào khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển. Tuy nhiên, các
thành phần trong hệ sinh thái hoạt động còn rời rạc ở quy mô nhỏ, cho nên chưa đáp ứng được nhu
cầu của cộng đồng khởi nghiệp. Th...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 432 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa hệ sinh thái khởi nghiệp và thành công của các doanh nghiệp khởi nghiệp – Bằng chứng các doanh nghiệp khởi nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh - Trần Hoàng Ngân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 48, 12/2018
__________________________________________
1 Học viện Cán bộ Tp. Hồ Chí Minh
2 Trường Đại Học Tài chính – Marketing
MỐI QUAN HỆ GIỮA HỆ SINH THÁI KHỞI NGHIỆP VÀ
THÀNH CÔNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP –
BẰNG CHỨNG CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP
TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
THE RELATIONSHIP BETWEEN STARTUPS ECOSYSTEM
AND STARTUPS PERFORMANCE – EVIDENCE
FROM STARTUPS IN HOCHIMINH CITY
Trần Hoàng Ngân1
Phạm Quốc Việt2, Hồ Thu Hoài2
Ngày nhận: 26/10/2018 Ngày nhận bản sửa: 2/11/2018 Ngày đăng: 5/12/2018
Tóm tắt
Là trung tâm kinh tế - khoa học công nghệ, Tp. Hồ Chí Minh đã đi đầu trong phong trào khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo cả nước. Bước đầu, Thành phố đã dần hình thành được hệ sinh thái khởi
nghiệp, làm “bàn đẩy” đưa phong trào khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển. Tuy nhiên, các
thành phần trong hệ sinh thái hoạt động còn rời rạc ở quy mô nhỏ, cho nên chưa đáp ứng được nhu
cầu của cộng đồng khởi nghiệp. Thông qua khảo sát ý kiến các chuyên gia và 300 nhà khởi nghiệp
tại Tp. Hồ Chí Minh, nhóm tác giả tìm thấy mối liên hệ giữa hệ sinh thái khởi nghiệp với thành
công của các doanh nghiệp khởi nghiệp tại Tp. Hồ Chí Minh. Kết quả này là cơ sở cho các đề xuất
hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.
Từ khóa: Hệ sinh thái khởi nghiệp, thành công của doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi
nghiệp tại Tp. Hồ Chí Minh.
Abstract
Being the economic, scientific and technological center, Ho Chi Minh City has been at the forefront
of the nation’s creative innovation. Initially, the city has gradually formed the start-up ecosystem,
to push forward entrepreuneurship and innovation (E&I) development. However, the components
of the start-up ecosystem are fragmented on a small scale, hardly to meet the needs of the start-up
community. By surveying experts and 300 entrepreneurs in Ho Chi Minh City, the authors found
relationship between start-up ecosystem and start-up performance in the city. The result is the
base of suggestions to improve the startup ecosystem of Ho Chi Minh City in particular and of the
country in general.
Key words: startups ecosystem, startups performance, startups in Hochiminh city.
2Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 48, 12/2018
thái khởi nghiệp và thành công của các doanh
nghiệp khởi nghiệp, đặc biệt là tại Tp. Hồ Chí
Minh - trung tâm kinh tế - khoa học công nghệ,
đã đi đầu trong phát triển khởi nghiệp của cả
nước.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm
hiểu mối quan hệ giữa hệ sinh thái khởi nghiệp
và thành công của doanh nghiệp khởi nghiệp tại
Tp. Hồ Chí Minh hay không, từ đó đề xuất một
số gợi ý chính sách hoàn thiện hệ sinh thái khởi
nghiệp, qua đó gia tăng thành công của doanh
nghiệp khởi nghiệp tại đây.
2. Các lý thuyết và bằng chứng thực
nghiệm có liên quan
2.1. Một số khái niệm
Khởi nghiệp
Theo định nghĩa của Steve Blank (2010),
khởi nghiệp được đặc trưng bởi khám phá, đánh
giá và khai thác các cơ hội; mang các ý tưởng
mới đến thị trường và chuyển đổi chúng thành
các doanh nghiệp bền vững về kinh tế. Khởi
nghiệp thường được thảo luận dưới góc độ các
yếu tố khởi nghiệp, chức năng khởi nghiệp,
sáng kiến khởi nghiệp và hành vi khởi nghiệp và
thậm chí liên quan đến “tinh thần khởi nghiệp”.
Đặc trưng phân biệt khởi nghiệp và doanh
nghiệp nhỏ (tại Việt Nam, có thể sử dụng từ
tương đương là “lập nghiệp”, tự tạo việc làm
cho mình và cho xã hội) nằm ở sự đổi mới, hoạt
động sáng tạo; thể hiện ở 5 đặc trưng do
Schumpeter (1934) gợi ý: (1) Giới thiệu hàng
hoá mới; (2) Giới thiệu các phương pháp sản
xuất mới; (3) Mở ra thị trường mới; (4) Mở ra
nguồn cung ứng mới; (5) Tái tổ chức ngành
kinh doanh.
Hệ sinh thái khởi nghiệp và các thành phần
của hệ sinh thái khởi nghiệp
Theo định nghĩa ban đầu của Dubini
(1989), hệ sinh thái được mô tả bằng sự hiện
diện của các doanh nghiệp gia đình, một nền
1. Giới thiệu
Sự lớn mạnh của các doanh nghiệp trong
nước góp phần quan trọng trong tăng trưởng của
toàn nền kinh tế cũng như đóng góp ngân sách
quốc gia. Tuy nhiên, xét trên quan điểm nguồn
lực hữu hạn (sự hỗ trợ của Chính phủ là hữu
hạn), cần phát hiện các “ưu tiên hỗ trợ” nhằm
nâng cao hiệu quả hỗ trợ từ Chính phủ. Nhiều
quốc gia trên thế giới ưu tiên hỗ trợ các doanh
nghiệp khởi nghiệp (start-up enterprises), gọi
tắt là khởi nghiệp, với quan điểm rằng đây là
các doanh nghiệp tạo ra việc làm mới với suất
đầu tư thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp lâu
đời và các doanh nghiệp này có xu hướng đổi
mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ,
qua đó nâng cao năng suất lao động. Cùng với
xu thế đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo quốc gia đến năm 2025” (Quyết định
số 844/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2016) với
mục tiêu tạo lập môi trường thuận lợi để thúc
đẩy, hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển
loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng
nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công
nghệ, mô hình kinh doanh mới.
Thực tế, trong khoảng thời gian tương đối
ngắn (từ giữa năm 2016 đến năm 2018), đã có
các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
và hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp. Những chính
sách này một mặt tập trung vào hỗ trợ nhóm đối
tượng cộng đồng khởi nghiệp và hệ sinh thái
khởi nghiệp, mặt khác đã kế thừa và phát huy
các chính sách đã ban hành trước đó nhằm thúc
đẩy phát triển khoa học - công nghệ, công nghệ
cao và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy
nhiên, để có cơ sở cho việc hoàn thiện các chính
sách hiện hữu và đề xuất những chính sách
mới phù hợp hơn cần thiết phải đánh giá thực
trạng doanh nghiệp khởi nghiệp, hệ sinh thái
khởi nghiệp cũng như mối quan hệ giữa hệ sinh
3Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 48, 12/2018
các khởi nghiệp mới thành lập và các bên khác
tham gia vào rủi ro khởi sự, tài trợ và hỗ trợ các
dự án có rủi ro cao. Hệ sinh thái khởi nghiệp
là một tập hợp các tác nhân và các yếu tố phụ
thuộc lẫn nhau phối hợp theo cách cho phép tạo
ra khởi nghiệp thành công.
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2013) đã liệt kê
cho một hệ sinh thái thành công, mỗi trụ cột có
một số thành phần. Những trụ cột này tập trung
vào sự hiện diện của các nhân tố (các nguồn lực)
chủ chốt như nguồn nhân lực, tài chính và dịch
vụ; các thể chế chính thức (Chính phủ và khuôn
khổ pháp lý) và phi chính thức (hỗ trợ văn hoá)
khởi nghiệp và cuối cùng là tiếp cận với khách
hàng trên các thị trường trong và ngoài nước.
kinh tế đa dạng, cơ sở hạ tầng, vốn đầu tư
sẵn có, nền văn hóa hỗ trợ khởi nghiệp, và
các chính sách khuyến khích thành lập khởi
nghiệp. Các nghiên cứu của Isenberg (2010)
và các nhóm như Diễn đàn Kinh tế Thế giới
(2013) đã lập luận rằng thị trường trong nước
và quốc tế có thể dễ dàng tiếp cận, nguồn nhân
lực và nguồn vốn sẵn có, hệ thống tư vấn và
hỗ trợ, các khung pháp lý vững chắc và các
trường đại học lớn là những trụ cột quan trọng
nhất của một hệ sinh thái.
Từ các lập luận trên, nhóm tác giả cho rằng:
Các hệ sinh thái khởi nghiệp là sự kết hợp của
các yếu tố xã hội, kinh tế, và văn hoá trong một
khu vực hỗ trợ phát triển và tăng trưởng của
những khởi nghiệp sáng tạo và khuyến khích
Bảng 1. Các trụ cột của hệ sinh thái khởi nghiệp và các thành phần của chúng
Trụ cột Các thành phần
Các thị trường có
thể tiếp cận
Thị trường trong nước: các công ty lớn/vừa/nhỏ như khách hàng và Chính
phủ như khách hàng.
Thị trường ngoài nước: các công ty lớn/vừa/nhỏ như khách hàng và Chính
phủ như khách hàng.
Nhân lực/Lực
lượng lao động
Nhân tài quản lý, nhân tài kỹ thuật, kinh nghiệm của công ty khởi nghiệp,
gia công sẵn có và tiếp cận với nguồn nhân lực nhập cư.
Tài trợ & tài chính Bạn bè và gia đình, nhà đầu tư thiên thần, cổ phần tư nhân, vốn mạo hiểm
và tiếp cận với nợ.
Hệ thống hỗ trợ/
Nhà tư vấn
Cố vấn, dịch vụ chuyên nghiệp, vườn ươm/chất xúc tác và mạng lưới các
nhà khởi nghiệp
Chính quyền và
khuôn khổ pháp lý
Sự dễ dàng khởi nghiệp, ưu đãi thuế, luật/chính sách thân thiện với khởi
nghiệp, tiếp cận với cơ sở hạ tầng cơ bản, tiếp cận với viễn thông và tiếp
cận với giao thông.
Giáo dục & đào tạo Lực lượng lao động có trình độ phổ thông, lực lượng lao động có trình độ
đại học và những người được đào tạo chuyên môn về khởi nghiệp.
Trường đại học là
chất xúc tác
Thúc đẩy văn hoá tôn trọng tinh thần khởi nghiệp, đóng vai trò then chốt
trong việc hình thành ý tưởng cho các công ty mới và đóng vai trò then
chốt trong việc cung cấp sinh viên tốt nghiệp cho các công ty mới.
Hỗ trợ văn hóa Chấp nhận rủi ro và thất bại, ưu tiên cho việc tự làm chủ, các câu chuyện
thành công/mô hình vai trò, văn hoá nghiên cứu, hình ảnh tích cực của nhà
khởi nghiệp và ca tụng sự đổi mới.
Nguồn: World Economic Forum (2013, pp. 6–7)
4Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 48, 12/2018
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm có liên
quan
Các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo là một trong những động lực cho phát triển
kinh tế quốc gia thông qua tác động tích cực
đến việc làm và trẻ hóa các ngành công nghiệp
bằng công nghệ đột phá (Christensen và Bower,
1996). Tuy nhiên, tỷ lệ tồn tại của các doanh
nghiệp này rất thấp, đây là nguồn ý tưởng cho
nhiều nghiên cứu liên quan đến chủ đề này.
Hướng nghiên cứu thứ nhất liên quan đến
nhận dạng các yếu tố thành công chính yếu của
khởi nghiệp thông qua các nghiên cứu tại nhiều
quốc gia trên thế giới, bắt đầu ở Mỹ của March-
Chorda (2004) nghiên cứu các yếu tố thành
công của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo tại San Francisco (Hoa Kỳ) năm
1994. Từ 33 yếu tố thành công, tác giả xác định
được 22 yếu tố thành công. Tiếp đến, Song và
ctg (2008) đã tiến hành nghiên cứu các yếu tố
thành công của các doanh nghiệp khởi nghiệp
công nghệ trên mẫu hơn 11.000 doanh nghiệp
khởi nghiệp tại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1991-
2000. Từ 24 yếu tố thành công, các tác giả tìm
thấy 8 yếu tố có tác động có ý nghĩa đến thành
công của doanh nghiệp khởi nghiệp: (1) Tích
hợp chuỗi cung ứng; (2) Phạm vi thị trường;
(3) Tuổi doanh nghiệp; (4) Quy mô nhóm khởi
nghiệp; (5) Các nguồn lực tài chính; (6) Kinh
nghiệm marketing của nhóm khởi nghiệp; (7)
Kinh nghiệm kinh doanh của nhóm khởi nghiệp;
và (8) Sự tồn tại của bảo hộ bằng sáng chế. Gần
đây nhất, Spender và ctg (2017) đã tổng hợp
các nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa
khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong giai đoạn
1994-2015 và phát hiện thấy chủ đề nghiên cứu
này tăng mạnh trong giai đoạn 2009-2015. Các
chủ đề được nghiên cứu chính về mối quan hệ
này là: (1) Vai trò của mạng lưới khởi nghiệp;
(2) Các bên liên quan với khởi nghiệp trong đổi
mới sáng tạo; (3) Hệ thống sinh thái khởi nghiệp
Thành công của doanh nghiệp khởi nghiệp
Venkatraman và Ramanujam (1986) đã
cung cấp một khuôn khổ để phân loại các thước
đo thành công, hình thành cấu trúc về hiện trạng
của lĩnh vực nghiên cứu. Khuôn khổ này là một
sơ đồ phân loại toàn diện, hai chiều cho tất cả
các phương pháp đo lường thành công. Khía
cạnh thứ nhất bao gồm các thước đo tài chính
và hoạt động (phi tài chính). Khía cạnh thứ
hai bao gồm các nguồn dữ liệu sơ cấp và thứ
cấp. Murphy và ctg (1996) đã sử dụng khuôn
khổ này để tiến hành lược khảo các nghiên cứu
trong lĩnh vực khởi nghiệp công bố trong giai
đoạn 1987–1993. Ba tiêu chí đã được sử dụng
trong việc lựa chọn các công bố: (1) Nghiên cứu
thuộc dạng thực nghiệm; (2) Thành công của
doanh nghiệp được dùng làm biến phụ thuộc;
và (3) Mẫu phải bao gồm các doanh nghiệp nhỏ
và/hoặc tổ chức khởi nghiệp mới.
Bảng 2. Các thước đo thành công của
khởi nghiệp và tần suất xuất hiện
Thước đo Tần suất (%)
Hiệu suất 30
Tăng trưởng 29
Lợi nhuận 26
Quy mô 15
Thanh khoản 9
Thành công/Thất bại 7
Thị phần 5
Đòn bẩy tài chính 3
Nguồn: Murphy và ctg (1996)
Bảng 2 trình bày một danh sách các thước
đo thành công được xem xét trong các công bố
khác nhau và tần suất xuất hiện mỗi thước đo
được xem xét (có bài sử dụng nhiều hơn một
thước đo). Hiệu suất, tăng trưởng và lợi nhuận
là những thước đo được sử dụng nhiều nhất
trong các nghiên cứu.
5Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 48, 12/2018
sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp
khoa học công nghệ; công bố của Nguyễn Thị
Liên (2010) phân tích các yếu tố cung của thị
trường dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp kinh doanh,
thực trạng cung ứng dịch vụ, từ đó đề xuất một
số giải pháp phát triển cung ứng dịch vụ hỗ trợ
khởi nghiệp tại Việt Nam.
Thông qua lược khảo các nghiên cứu trước
đây cho thấy cần thiết có một nghiên cứu kết
hợp hai hướng nghiên cứu về doanh nghiệp
khởi nghiệp (các yếu tố thành công chính yếu
của doanh nghiệp khởi nghiệp và hệ sinh thái
khởi nghiệp) nhằm lấp đầy khoảng trống về
nghiên cứu liên quan đến khởi nghiệp.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm tác giả sử dụng phương pháp nghiên
cứu hỗn hợp (mixed method, Creswell, 2013),
định tính trước và định lượng sau, trọng tâm là
định lượng. Với phương pháp nghiên cứu này,
dự kiến kết quả thu được sẽ có độ tin cậy cao.
- Nghiên cứu định tính: thực hiện thông qua
phỏng vấn các chuyên gia là những nhà nghiên
cứu, nhà quản trị trong các tổ chức cung ứng
dịch vụ khởi nghiệp; cán bộ quản lý nhà nước
tại Sở Khoa học – Công nghệ Tp. Hồ Chí Minh
thông qua phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm
tập trung. Nội dung phỏng vấn nhằm xác định
thước đo thành công của khởi nghiệp và các
thành phần chính của hệ sinh thái khởi nghiệp
tại Tp. Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu định lượng: Thông qua bảng
câu hỏi tự điền, được thiết kế từ kết quả nghiên
cứu định tính, thực hiện trên mẫu khảo sát gồm
300 nhà khởi nghiệp tại Tp. Hồ Chí Minh. Nội
dung nghiên cứu nhằm xác định thực trạng
thành công của khởi nghiệp và mức độ tham
gia hệ sinh thái khởi nghiệp. Kết quả khảo
sát được xử lý thông qua phân tích phân biệt
(discriminant analysis).
và vai trò trong đổi mới sáng tạo; (4) Ma trận
khởi nghiệp trong quá trình đổi mới sáng tạo;
(5) Vai trò của tài trợ và các định chế tài trợ; (6)
Thành công của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo; (7) Vốn kiến thức trong quá trình
đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp khởi nghiệp.
Hướng nghiên cứu thứ hai nhằm tìm kiếm
các thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp
Theo Startup Commons (2014), hệ sinh thái
khởi nghiệp do con người tạo ra, gồm nhiều
dạng tổ chức định vị tại không gian thực hay
ảo, tương tác với nhau như một hệ thống nhằm
tạo lập và phát triển các doanh nghiệp khởi
nghiệp qua các giai đoạn khởi nghiệp khác
nhau. Kể từ năm 2012, tổ chức Startup Genome
đã lập báo cáo về xếp hạng các hệ sinh thái
khởi nghiệp toàn cầu thông qua 8 chỉ số thành
phần: (1) Đầu ra khởi nghiệp, (2) Tài trợ, (3)
Thành quả của doanh nghiệp; (4) Tài năng; (5)
Cơ sở hạ tầng hỗ trợ; (6) Tư duy doanh nhân;
(7) Xu hướng cách tân và (8) Khác biệt hóa
hệ sinh thái. Trong báo cáo năm 2017, Startup
Genome đã phát triển các thành phần thành
2 nhóm: bên ngoài, bao gồm thành quả, các
nguồn lực (tài trợ, tài năng, sự thu hút), các
thành phần khác (nghiên cứu thị trường, kinh
nghiệm khởi nghiệp, kết nối toàn cầu, sự tham
dự của doanh nghiệp) và bên trong, liên quan
đến người sáng lập (khát vọng, chiến lược toàn
cầu, nhóm khởi nghiệp). Tuy nhiên, các nghiên
cứu về hệ sinh thái khởi nghiệp còn khiêm tốn
và khái niệm về hệ sinh thái khởi nghiệp chưa
được định nghĩa rõ ràng và chưa hình thành lý
thuyết về nó (Oh và ctg, 2016).
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về khởi
nghiệp hiện còn rất ít. Điển hình, công bố của
Phạm Hồng Quất, Phan Hoàng Lan (2014)
phân tích thực trạng hệ thống sinh thái khởi
nghiệp tại Việt Nam và đề xuất vai trò Nhà
nước trong việc xây dựng các cơ chế, chính
6Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 48, 12/2018
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Các thành phần của hệ sinh thái khởi
nghiệp tại Tp. Hồ Chí Minh
Xuất phát từ cơ sở lý thuyết, nhóm tác giả
đã đề xuất các thành phần của hệ sinh thái khởi
nghiệp để chuyên gia cho ý kiến. Nhìn chung,
các chuyên gia đồng ý với các thành phần của hệ
sinh thái khởi nghiệp do nhóm tác giả đề xuất.
Để khám phá mức độ quan trọng của các thành
phần này tại Tp. Hồ Chí Minh, các chuyên gia
được yêu cầu liệt kê 5 thành phần quan trọng
nhất theo trật tự mức độ quan trọng giảm dần.
Bảng 3. Đánh giá của chuyên gia về mức độ quan trọng của các
thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp
STT
Thành phần của
hệ sinh thái khởi nghiệp
Mức độ
quan trọng
Tần suất
xuất hiện
1 Chính sách và quy định 34 9
2 Vốn đầu tư 27 8
3 Tiếp cận thị trường 24 8
4 Mạng lưới 19 8
5 Người cố vấn và tấm gương 15 5
6 Nhân tài 12 4
7 Dịch vụ hỗ trợ 12 4
8 Cơ sở vật chất 10 4
9 Văn hóa hỗ trợ 9 4
10 Đại học 3 1
11 Lịch sử khởi nghiệp 0 0
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát chuyên gia
Qua tổng hợp kết quả khảo sát tại Bảng 3, 5
thành phần được đánh giá là quan trọng nhất và
có tần suất xuất hiện cao của hệ sinh thái khởi
nghiệp theo thứ tự từ cao đến thấp là chính sách
và quy định, vốn đầu tư, tiếp cận thị trường,
mạng lưới, người cố vấn và tấm gương.
4.2. Thực trạng tham gia hệ sinh thái khởi
nghiệp
Tiếp đó, nhóm tác giả tiến hành điều tra thực
trạng tham gia vào hệ sinh thái khởi nghiệp trên
của các nhà khởi nghiệp tại Tp. Hồ Chí Minh.
Kết quả được tổng hợp trong Bảng 4.
Bảng 4. Thực trạng tham gia hệ sinh thái khởi nghiệp của nhà khởi nghiệp ở TP.HCM
Số lượng nhà khởi
nghiệp tham gia hệ
sinh thái
Số lượng nhà khởi
nghiệp không tham
gia hệ sinh thái
Tổng
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
Hệ sinh thái 234 91.8% 21 8.2% 255 100.0%
Bảng tần suất
Số lượng Tỷ lệ Tần suất
Doanh nghiệp có cố vấn 104 15.0% 44.4%
Doanh nghiệp có tham gia vườn ươm khởi
nghiệp (incubator)
155 22.3% 66.2%
7Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 48, 12/2018
Bảng tần suất
Số lượng Tỷ lệ Tần suất
Doanh nghiệp có tham gia tăng tốc khởi
nghiệp (accelerator)
121 17.4% 51.7%
Doanh nghiệp có tham gia các cuộc thi ý
tưởng khởi nghiệp
127 18.3% 54.3%
Doanh nghiệp có tham gia các cộng đồng
khởi nghiệp
188 27.1% 80.3%
TỔNG 695 100.0% 297.0%
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát nhà khởi nghiệp
Theo thống kê ban đầu, với mẫu bao gồm
255 nhà khởi nghiệp được khảo sát thì có 234
nhà khởi nghiệp có tham gia vào hệ sinh thái
khởi nghiệp, chiếm 91.8%. Như vậy lượng nhà
khởi nghiệp tiếp cận hệ sinh thái khởi nghiệp ở
Tp. Hồ Chí Minh khá đông đảo.
Với hệ sinh thái khởi nghiệp sẵn có ở thành
phố, số lượng các nhà khởi nghiệp tham gia các
thành phần trong hệ sinh thái này được sắp xếp
theo thứ tự giảm dần như sau:
Đông nhất là số lượng các nhà khởi nghiệp
tham gia các cộng đồng khởi nghiệp, chiếm
80.3%. Hiện nay ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng
và cả nước nói chung có sự hiện diện của một
số cộng đồng khởi nghiệp lớn bao gồm Twenty.
vn, Startup.vn, và một số trang thông tin về
khởi nghiệp như Techinasia.com, Techdaily.
vn, Action.vn, là nơi nhà khởi nghiệp có thể
cập nhật thông tin thường xuyên về tình hình hệ
thống sinh thái khởi nghiệp, tình hình phát triển
của các khởi nghiệp nói chung, những giao dịch
sáp nhập, mua bán, gọi vốn lớn cũng như nâng
cao kỹ năng quản lý và kinh doanh cho mình.
Tiếp đến là doanh nghiệp có tham gia vườn
ươm khởi nghiệp, chiếm 66.2%. Hiện tại, Tp.
Hồ Chí Minh có hơn 20 cơ sở ươm tạo. Cơ sở
ươm tạo được tổ chức với mục đích hỗ trợ hiện
thực hóa ý tưởng, hình thành sản phẩm mẫu cho
các nhóm khởi nghiệp trong một thời gian nhất
định bằng cách hỗ trợ cơ sở hạ tầng, thiết bị,
một phần chi phí hoạt động và các dịch vụ tư
vấn để các chủ thể này có thể chuyển sang giai
đoạn thương mại hóa sản phẩm.
Số lượng doanh nghiệp có tham gia các
cuộc thi ý tưởng khởi nghiệp và doanh nghiệp
có tham gia tăng tốc khởi nghiệp với số lượng
xấp xỉ nhau, chiếm tương ứng 54.3% và 51.7%.
Chương trình tăng tốc thường có khung thời
gian từ vài tuần đến vài tháng làm việc với một
nhóm người cố vấn để xây dựng doanh nghiệp
của họ và giải quyết các vấn đề phát sinh. Tại tổ
chức tăng tốc, các công ty giai đoạn đầu thường
được đầu tư ban đầu (seed investment) với quy
mô nhỏ, nhưng được tiếp cận với một mạng
lưới cố vấn lớn, đổi lấy một lượng vốn góp nhỏ.
Cuối cùng là số lượng doanh nghiệp có cố
vấn, chiếm 44.4%. Là một trong những địa
phương đi đầu trong phong trào khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo, đến nay, Tp. Hồ Chí Minh đã đào
tạo 145 chuyên gia tư vấn, cố vấn khởi nghiệp;
có 950 dự án khởi nghiệp và 3.500 nhóm khởi
nghiệp kết nối trực tiếp và gián tiếp với nhà
đầu tư, chuyên gia và tổ chức tư vấn. Theo số
liệu thống kê từ mẫu nghiên cứu, số lượng nhà
khởi nghiệp có cố vấn chiếm tỷ lệ thấp nhất, tuy
nhiên vẫn chiếm gần 45% số lượng người tham
gia khảo sát.
8Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 48, 12/2018
khởi nghiệp thì chỉ có 21 nhà khởi nghiệp không
tham gia bất cứ hoạt động nào (chiếm 8.2%).
Số lượng nhà khởi nghiệp tham gia từ hai hoạt
động trong hệ sinh thái khởi nghiệp chiếm tỷ lệ
lớn nhất với 184 doanh nghiệp, chiếm 72.15%.
Thống kê theo các nhóm tương ứng với số hoạt
động mà nhà khởi nghiệp có tham gia trong hệ
sinh thái khởi nghiệp với thành công của doanh
nghiệp đó cho thấy, các nhà khởi nghiệp tham
gia nhiều hoạt động trong hệ sinh thái có tăng
trưởng doanh thu và lợi nhuận cao hơn các
nhóm nhà khởi nghiệp tham gia ít hoạt động
hơn hoặc không tham gia hoạt động nào.
4.3. Mối liên hệ giữa hệ sinh thái khởi
nghiệp và thành công của doanh nghiệp
khởi nghiệp
Sau khi khảo sát mức độ tham gia vào hệ
sinh thái khởi nghiệp của các nhà khởi nghiệp,
nhóm tác giả chia nhóm các đối tượng khảo sát
thành 4 nhóm: Nhóm không tham gia hoạt động
nào; Nhóm tham gia chỉ một trong các hoạt
động trên; Nhóm tham gia từ hai hoạt động trở
lên (hai đến bốn hoạt động); Nhóm tham gia tất
cả các hoạt động.
Kết quả từ phiếu khảo sát cho thấy hầu như
các nhà khởi nghiệp đều tham gia vào hệ sinh
thái khởi nghiệp của thành phố. Trong 255 nhà
Hình 1. Tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận các nhóm nhà khởi nghiệp
0
0,1
0,2
0,3
0,4
0,5
0,6
0,7
0,8
Không
tham gia
Có tham
gia 1 hoạt
động
Tham gia
từ 2 hoạt
động trở
lên
Tham gia
tất cả hoạt
động
Tăng trưởng Doanh
thu năm 2016
Tăng trưởng Doanh
thu năm 2017
Tăng trưởng Lợi
nhuận năm 2016
Tăng trưởng Lợi
nhuận năm 2017
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát doanh nghiệp khởi nghiệp
Khả năng tăng trưởng, khả năng sinh lời của
nhóm nhà khởi nghiệp không tham gia bất kỳ
hoạt động nào trong hệ sinh thái khởi nghiệp là
thấp nhất. Nhóm các nhà khởi nghiệp tham gia
từ hơn hai hoạt động trở lên có khả năng sinh
lời cao nhất.
Hình 2. Khả năng sinh lợi các nhóm nhà khởi nghiệp
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu khảo sát doanh nghiệp khởi nghiệp
9Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 48, 12/2018
Các cơ sở ươm tạo cấp hai với quy mô cơ sở
vật chất được đầu tư lớn, lựa chọn các ý tưởng
thông qua giới thiệu từ cơ sở ươm tạo cấp một,
và qua hội đồng tuyển chọn. Nội dung và quy
mô tài trợ cho nhóm khởi nghiệp/doanh nghiệp
khởi nghiệp sẽ đa dạng hơn, không chỉ cung
cấp môi trường thử nghiệm, mà còn hỗ trợ một
phần chi phí vận hành của doanh nghiệp khởi
nghiệp (chủ yếu là phí thuê mặt bằng, phí sử
dụng máy móc thiết bị, tiền lương nhân viên
làm thuê), cung ứng các dịch vụ tư vấn pháp
lý, đăng ký doanh nghiệp, thủ tục kế toán, thuế;
và kết nối doanh nghiệp khởi nghiệp với mạng
lưới hệ sinh thái khởi nghiệp.
Về hoạt động của các tổ chức tăng tốc, mặc
dù có thể tham gia hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp giai đoạn đầu, nhưng các tổ chức này
nên có mối liên kết chặt chẽ với các cơ sở ươm
tạo cấp một và cấp hai, để có thể lựa chọn được
những doanh nghiệp khởi nghiệp có tiềm năng
thành công lớn nhất.
Thứ hai, thành lập câu lạc bộ, hội doanh
nghiệp sáng tạo, mạng lưới cố vấn. Hiện nay,
tại nhiều trường đại học, cơ sở ươm tạo đã
thành lập các câu lạc bộ khởi nghiệp. Ngày 10
tháng 01 năm 2017, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
có quyết định công nhận ban vận động thành
lập Hiệp hội Khởi nghiệp Quốc gia. Hiệp hội
Khởi nghiệp Quốc gia (ViNen) có sứ mệnh là
nơi cổ vũ tinh thần khởi nghiệp, giúp các hội
viên đạt được khát vọng của mình là trở thành
những doanh nhân thành đạt thông qua các
chương trình đào tạo, tư vấn, xúc tiến đầu tư,
kết nối thị trường và cung cấp các dịch vụ rất
chặt chẽ trong tổ chức, khả thi về mặt ứng dụng
và chuyên nghiệp trong cách hoạt động giúp
các hội viên gia tăng khả năng tạo dựng và phát
triển các mối quan hệ kinh doanh dài lâu, bền
chặt với đúng đối tượng khách hàng và đối tác.
Như vậy có thể thấy các thành phần trong
hệ sinh thái khởi nghiệp có đóng góp vào thành
công cho các nhà khởi nghiệp ở khu vực Tp. Hồ
Chí Minh. Các nhà khởi nghiệp tham gia càng
nhiều thành phần trong hệ sinh thái khởi nghiệp
sẽ có nhiều cơ hội để mở rộng mạng lưới liên
kết, cập nhật các thông tin liên quan đến tình
hình khởi nghiệp trong và ngoài nước, có nhiều
cơ hội tiếp cận nguồn vốn lớn, kinh nghiệm
quản lý và tổ chức nhân sự.
5. Gợi ý chính sách
Từ kết quả nghiên cứu, hai thành phần quan
trọng của hệ sinh thái khởi nghiệp có liên quan
đến thành công của doanh nghiệp khởi nghiệp
là các cơ sở ươm tạo và nhà cố vấn. Từ đó,
nhóm tác giả có một số đề xuất nhằm hoàn thiện
hệ sinh thái khởi nghiệp, qua đó thúc đẩy thành
công của doanh nghiệp khởi nghiệp.
Thứ nhất, đề xuất thành lập hệ thống cơ sở
ươm tạo tại Tp. Hồ Chí Minh theo mô hình hai
cấp: cấp một là hệ thống trung tâm ươm tạo/hỗ
trợ khởi nghiệp trực thuộc các cơ sở giáo dục
đại học, cao đẳng, trung cấp; cấp hai là các cơ
sở ươm tạo có quy mô lớn hơn, được tài trợ từ
chính quyền Thành phố, các quỹ đầu tư mạo
hiểm, các nhà đầu tư thiên thần và thậm chí các
doanh nghiệp quy mô lớn.
Các cơ sở ươm tạo cấp một được tài trợ chủ
yếu từ kinh phí cho hoạt động khoa học công
nghệ của cơ sở giáo dục, với nhiệm vụ chủ yếu
là cung ứng dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức, kỹ năng khởi nghiệp trong sinh viên, học
sinh của cơ sở giáo dục, cung cấp phòng thực
hành và máy móc, thiết bị để thử nghiệm các ý
tưởng sáng tạo của giảng viên, sinh viên, học
sinh, tổ chức và tài trợ các cuộc thi ý tưởng sáng
tạo trong sinh viên, học sinh. Những ý tưởng
độc đáo phát sinh từ cơ sở ươm tạo cấp một sẽ
được giới thiệu cho các cơ sở ươm tạo cấp hai
cùng ngành nghề, lĩnh vực.
10
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 48, 12/2018
Việc khuyến khích thành lập các tổ chức của
nhà khởi nghiệp, nhà cố vấn, nhà đầu tư đóng
vai trò củng cố và phát triển hệ sinh thái khởi
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
Nguyễn Thị Liên (2010). Một số ý kiến về phát triển cung ứng dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp kinh
doanh. Tạp chí Khoa học thương mại, số 37/2010, trang 59-69.
Phạm Hồng Quất, Phan Hoàng Lan (2014). Hệ thống sinh thái cho doanh nghiệp khởi nghiệp ở Việt
Nam. Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt Nam, 2014, No. 18.
Tiếng Anh
Blank, S. (2010). What’s A Startup? First Principles. Steve Blank.
Christensen, C. M., & Bower, J. L. (1996). Customer power, strategic investment, and the failure
of leading firms. Strategic management journal, 197-218.
Dubini, P. (1989) The influence of motivations and environment on business start-ups: Some hints
for public policies. Journal of Business Venturing 4: 11-26.
Isenberg, D.J. (2010) How to Start an Entrepreneurial Revolution. Harvard Business Review 88(6):
41-50.
March-Chorda, I. (2004). Success factors and barriers facing the innovative start-ups and their
influence upon performance over time. International Journal of Entrepreneurship and Innovation
Management, 4(2-3), 228-247.
Murphy, G. B., Trailer, J. W., & Hill, R. C. (1996). Measuring performance in entrepreneurship
research. Journal of Business Research, 36(1), 15-23.
Oh, D. S., Phillips, F., Park, S., & Lee, E. (2016). Innovation ecosystems: A critical
examination. Technovation, 54, 1-6.
Schumpeter, J.A. (1934). The theory of economic development. Cambridge: Harvard University
Press.
Song, M., Podoynitsyna, K., Van Der Bij, H., & Halman, J. I. (2008). Success factors in new
ventures: A meta-analysis. Journal of product innovation management, 25(1), 7-27.
Spender, J. C., Corvello, V., Grimaldi, M., & Rippa, P. (2017). Startups and open innovation: a
review of the literature. European Journal of Innovation Management, 20(1), 4-30.
Startup Genome. (2017). Global Startup Ecosystem Report 2017 (Rep.). Retrieved from https://
startupgenome.com/report2017/
Venkatraman, N., & Ramanujam, V. (1986). Measurement of business performance in strategy
research: A comparison of approaches. Academy of Management Review, 11(4), 801-814.
Wisdom, J., & Creswell, J. W. (2013). Mixed methods: integrating quantitative and qualitative
data collection and analysis while studying patient-centered medical home models. Rockville:
Agency for Healthcare Research and Quality.
World Economic Forum (2013) Entrepreneurial Ecosystems Around the Globe and Company
Growth Dynamics. Davos: World Economic Forum.
nghiệp thông qua việc trao đổi thông tin, chia
sẻ kinh nghiệm, kết nối nhà khởi nghiệp với các
bên liên quan.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34_7468_2141165.pdf