Tài liệu Mối liên quan giữa nồng độ đường huyết đói trong nghiệm pháp 75 gram glucose và nhu cầu điều trị insulin ở thai phụ đái tháo đường thai kỳ tại Bệnh viện Hùng Vương: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 115
MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ ĐƯỜNG HUYẾT ĐÓI
TRONG NGHIỆM PHÁP 75 GRAM GLUCOSE VÀ NHU CẦU ĐIỀU TRỊ INSULIN
Ở THAI PHỤ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Nguyễn Sỹ Quảng*, Ngô Thanh Hà**, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đái tháo đường thai kỳ có xu hướng ngày càng tăng trên thế giới và ở Việt Nam. Can thiệp
ban đầu đa số là chế độ ăn tiết chế, một số nghiên cứu gần đây ghi nhận ngưỡng đường huyết đói trong xét
nghiệm dung nạp đường cao liên quan với thất bại điều chỉnh chế độ ăn đơn thuần.
Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa đường huyết đói trong nghiệm pháp 75 gram glucose lớn hơn
102,42 mg/dl và nhu cầu điều trị insulin ở thai phụ đái tháo đường thai kì tại khoa Sản bệnh, BV Hùng Vương.
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ lồng bệnh chứng trên 160 thai phụ đái tháo đường thai kỳ điều trị tại
khoa Sản bệnh, Bệnh viện Hùng Vương, TP.Hồ Chí Minh...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên quan giữa nồng độ đường huyết đói trong nghiệm pháp 75 gram glucose và nhu cầu điều trị insulin ở thai phụ đái tháo đường thai kỳ tại Bệnh viện Hùng Vương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 115
MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ ĐƯỜNG HUYẾT ĐÓI
TRONG NGHIỆM PHÁP 75 GRAM GLUCOSE VÀ NHU CẦU ĐIỀU TRỊ INSULIN
Ở THAI PHỤ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Nguyễn Sỹ Quảng*, Ngô Thanh Hà**, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đái tháo đường thai kỳ có xu hướng ngày càng tăng trên thế giới và ở Việt Nam. Can thiệp
ban đầu đa số là chế độ ăn tiết chế, một số nghiên cứu gần đây ghi nhận ngưỡng đường huyết đói trong xét
nghiệm dung nạp đường cao liên quan với thất bại điều chỉnh chế độ ăn đơn thuần.
Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa đường huyết đói trong nghiệm pháp 75 gram glucose lớn hơn
102,42 mg/dl và nhu cầu điều trị insulin ở thai phụ đái tháo đường thai kì tại khoa Sản bệnh, BV Hùng Vương.
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ lồng bệnh chứng trên 160 thai phụ đái tháo đường thai kỳ điều trị tại
khoa Sản bệnh, Bệnh viện Hùng Vương, TP.Hồ Chí Minh từ 11/2017 đến 05/2018, đủ tiêu chuẩn chọn mẫu và
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Kết quả: Đường huyết đói khi làm nghiệm pháp 75 gram glucose cao hơn 102,42 mg/dl có độ nhạy 75% và
độ chuyên 95,14%, giá trị tiên đoán dương là 63,16%, giá trị tiên đoán âm là 97,16% cho nguy cơ phải điều trị
bổ sung với insulin để đạt đường huyết mục tiêu. Đường huyết đói, 1 giờ sau ăn và 2 giờ sau ăn trong nghiệm
pháp 75 gram glucose cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm thai phụ điều trị đái tháo đường thai kì với insulin so
với nhóm thai phụ điều trị bằng chế độ ăn tiết chế đơn thuần.
Kết luận: Ngưỡng đường huyết đói khi thực hiện xét nghiệm 75 gram Glucose có giá trị tiên đoán âm tốt
cho khả năng thất bại với chế độ ăn tiết chế.
Từ khóa: đái tháo đường thai kỳ, chế độ ăn tiết chế, đường huyết lúc đói
ABSTRACT
THE RELATIONSHIP BETWEEN FASTING PLASMA GLUCOSE IN 75 GRAMS TOLERANCE TEST
AND THE NEEDS OF INSULIN THERAPY AMONG PREGNANT WOMEN WITH GESTATIONAL
DIABETES MELLITUS IN HUNG VUONG HOSPITAL
Nguyen Sy Quang, Ngo Thanh Ha, Huynh Nguyen Khanh Trang
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 115 - 120
Background: Gestational diabetes mellitus (GDM) is on the rise in the world and in Vietnam. Primary
intervention was a modest diet; some recent studies have documented the high blood glucose level in 75 grams
glucose tolerance testing associated with simple dietary control failure.
Objectives: To determine the relationship between the level fasting plasma glucose in 75 grams of glucose
tolerance test greater than 102.42 mg / dl and the needs of insulin therapy in gestational diabetes mellitus at the
Department of High Risk pregnancy, Hung Vuong hospital.
Methods: A nested case-control study including 160 pregnant women with GDM treated at the
Department of High Risk pregnancy, Hung Vuong Hospital, HCMC from 11/2017 to 05/2018, were eligible for
sampling and consent to participate.
*Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh **Bệnh viện Hùng Vương
***Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch,
Tác giả liên lạc: PGS TS. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang ĐT: 0903882015 Email: tranghnk08@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 116
Results: (1) Fasting plasma glucose level in 75 grams of glucose intolerance test was higher than 102.42 mg
/ dl with 75% sensitivity and 95.14% specificlity, with a positive predictive value (PPV) of 63.16%. NPV 97.16%
for the risk of additional therapy with insulin to achieve target blood glucose. (2) Fasting plasma glucose, 1 hour
after ingestion and 2 hours after ingestion in the 75 grams glucose test were significantly higher in the gestational
diabetes mellitus group with insulin compared with the control group diet.
Conclusion: The fasting glucose threshold of 75 g glucose has good predictive value for the possibility of
failure to abstain from diet.
Key words: gestational diabetes, dietary abstinence, fasting plasma glucose
ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 2013, Hội nghị (đái tháo đường) ĐTĐ
quốc tế (IDF) đã ước tính có khoảng 16,6% trẻ
sinh sống từ người mẹ có tăng đường huyết
trong thai kỳ. Báo cáo này cũng ghi nhận có sự
khác biệt rất lớn về tần suất bệnh, lên đến 25% ở
Đông Nam Á tới 10,4% ở vùng Bắc Mỹ và
Caribean(11). Trong đó, có tới 91,6% số thai phụ
ĐTĐTK đến từ các quốc gia thu nhập thấp và
trung bình. Tại Việt Nam, đái tháo đường thai kì
(ĐTĐTK) là vấn đề ngày càng được quan tâm,
một loạt các nghiên cứu về dịch tễ được thực
hiện trong những năm gần đây, ghi nhận tỷ lệ
ĐTĐTK có xu hướng ngày càng gia tăng trong
dân số. Tuy vậy, một điều đáng lưu ý rằng, tần
suất bệnh bị ảnh hưởng bởi dân số nghiên cứu
(được thực hiện tại Bệnh viện) hoặc sử dụng tiêu
chuẩn chuẩn đoán 1 bước-75g (theo tổ chức
IADSP) có thể khiến tỉ lệ bệnh cao hơn hẳn so
với tầm soát đại trà hay sử dụng tiêu chuẩn 2
bước-100g (WHO)(6). Như trong nghiên cứu của
tác giả Jane Hirst, ghi nhận trên 2702 thai phụ
thực hiện tầm soát ĐTĐTK bằng xét nghiệm 75
gr đường, với tiêu chuẩn của ADA 2010, có 6,1%
(164 thai phụ) được chần đoán dương tính,
nhưng khi áp dụng tiêu chuẩn thiết lập bởi tổ
chức IADPSG, có đến 20,3% thai phụ phải điều
trị ĐTĐTK(5).
Bệnh nhân đái tháo đường thai kì có đặc
trưng là bất thường tiết insulin và bất thường đề
kháng insulin. Dựa trên cơ sở sinh lý của insulin
trong cơ thể, đường huyết đói thể hiện khả năng
tiết insulin nền của bệnh nhân, trong khi đó
đường huyết sau ăn thể hiện đáp ứng của tuyến
tụy với glucose và mức độ đáp ứng của cơ thể
với insulin. Cũng chính vì lý do đó, trước đây
người ta dùng đường huyết đói để tầm soát và
cả cho mục đích chẩn đoán đái tháo đường thai
kì. Tuy nhiên sau đó, nhiều nghiên cứu chứng
minh chỉ một mình đường huyết đói bất thường
sẽ không đủ để chẩn đoán đái tháo đường thai
kì. Mặc dù vậy, đường huyết đói vẫn có giá trị
trong việc tiên lượng điều trị cũng như kết cục
của trẻ sơ sinh ở bà mẹ đái tháo đường(1).
Khi bệnh nhân được làm xét nghiệm dung
nạp đường với 75 gram glucose, chúng ta sẽ ghi
nhận được các giá trị xét nghiệm đường huyết
đói, đường huyết 1 giờ và đường huyết 2 giờ sau
uống glucose. Các kết quả này chỉ giúp xác định
bệnh nhân có bị đái tháo đường hay không, hay
còn tiên đoán gì cho kết quả điều trị của bệnh
nhân? Liệu rằng một bệnh nhân với kết quả xét
nghiệm đường huyết lúc đói cao thì tỉ lệ đáp ứng
với điều chỉnh chế độ ăn đơn thuần là bao nhiêu
phần trăm? Và ngưỡng đường huyết đói của các
chủng tộc khác nhau thì có tương đương với
nhau hay không? Một vài nghiên cứu chỉ ra rằng
ngưỡng đường huyết đói trong xét nghiệm dung
nạp đường cao liên quan với thất bại điều chỉnh
chế độ ăn đơn thuần. Nghiên cứu của Bakiner
năm 2013 chỉ ra có 72,7% bệnh nhân đái tháo
đường thai kì có đường huyết đói >89,5mg/dl
cần điều trị bổ sung insulin, trong khi 27,3%
bệnh nhân có đường huyết đói dưới 89,5mg/dl
cần bổ sung insulin(3). Các nghiên cứu khác cũng
đã xác nhận mối liên quan này, với các ngưỡng
đường huyết đói để tiên lượng thất bại điều trị là
95mg/dl của Quintero năm 2008, 105mg/dl của
Ares năm 2017(2,3).
Tương tự, Ya Zhang năm 2016(12) thực hiện
nghiên cứu tại Trung Quốc cũng kết luận đường
huyết đói trong xét nghiệm 75 gram glucose ở
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 117
nhóm bệnh nhân sử dụng insulin cao hơn có ý
nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân điều
chỉnh chế độ ăn đơn thuần. Tác giả cũng xây
dựng một ngưỡng đường huyết đói là 5,69
mmol/l (tương đương 102,42mg/dl) tiên lượng
thất bại điều trị ở 67,3% bệnh nhân. Vì đặc điểm
chủng tộc, văn hóa, xã hội của nghiên cứu này
khá tương đồng với dân số Việt Nam, nên chúng
tôi đặt ra câu hỏi: ngưỡng đường huyết lúc đói
trong nghiệm pháp 75 gram glucose lớn 102,42
mg/dl có liên quan như thế nào trong việc tiên
lượng điều trị với insulin ở thai phụ đái tháo
đường thai kì?
Từ đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu: Mối
liên quan giữa nồng độ đường huyết lúc đói
trong nghiệm pháp 75 gram glucose và nhu cầu
điều trị insulin trên thai phụ đái tháo đường thai
kì tại Bệnh viện Hùng Vương.
Nghiên cứu thực hiện với mục tiêu
1Xác định mối liên quan giữa đường huyết
đói trong nghiệm pháp 75 gram glucose lớn hơn
102,42 mg/dl và nhu cầu điều trị insulin ở thai
phụ đái tháo đường thai kì.
Tìm liên quan một số yếu tố nguy cơ với
nhu cầu điều trị insulin ở thai phụ đái tháo
đường thai kì.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu đoàn hệ lồng bệnh chứng
(Nested case-control study).
Đối tượng
Thai phụ được chẩn đoán đái tháo đường
thai kì bằng nghiệm pháp 75 gram glucose nhập
khoa sản bệnh-Bệnh viện Hùng Vương từ tháng
11/2017 đến tháng 05/2018, thỏa tiêu chuẩn chọn
mẫu và đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Tiêu chuẩn nhóm dùng insulin: bệnh nhân
được làm nghiệm pháp dung nạp đường dương
tính, được quản lí đái tháo đường tại đơn vị
quản lý đái tháo đường của Bệnh viện Hùng
Vương và được chỉ định insulin tại đây.
Tiêu chuẩn nhóm không dùng insulin: bệnh
nhân được làm nghiệm pháp dung nạp đường
tại dương tính, được quản lí đái tháo đường tại
đơn vị đái tháo đường Bệnh viện Hùng Vương,
đường huyết ổn định với chế độ ăn tiết chế kết
hợp với vận động.
Tiêu chuẩn loại trừ
Loại trừ các bệnh nhân được sử dụng insulin
mà không phải từ đơn vị quản lý đái tháo
đường. Thai phụ đã được chẩn đoán đái tháo
đường trước khi mang thai, các thai phụ có kết
quả xét nghiệm trước 24 tuần mà chỉ số đường
huyết vượt ngưỡng đái tháo đường. Không có
kết quả xét nghiệm dung nạp 75 gram glucose.
Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Cỡ mẫu
Chúng tôi chọn phương pháp tính cỡ mẫu
cho chẩn đoán
Với ngưỡng đường huyết 102,42mg/dl có độ
nhạy là pse=67,2% và độ chuyên là 79,7% cho nhu
cầu điều trị insulin theo nghiên cứu của Ya
Zhang năm 2016(12). Chọn ɷ =0,16.
TP+FN=
( )
Với tỉ lệ điều trị insulin trong nghiên cứu của Arendz
năm 2013 là p=22,8%(1).
N=
Vậy cỡ mẫu tối thiểu là 146 đối tượng. Chọn
mẫu theo phương pháp thuận tiện cho đến khi
đủ số mẫu.
Kỹ thuật chọn mẫu
Với mỗi bệnh nhân được chọn làm nhóm
bệnh, có nghĩa là đã thất bại với tiết chế ăn uống
vào ngày thứ 7 và thỏa những tiêu chuẩn chọn
mẫu, chúng tôi sẽ chọn ra những ca có đái tháo
đường thai kì và đường huyết ổn định trong thời
gian đó làm nhóm chứng.
Nhóm chứng được chọn cũng đồng thời
thỏa mãn tiêu chuẩn có tuổi thai lúc lấy mẫu
không chênh lệch quá 1 tuần so với tuổi thai của
những ca thuộc nhóm bệnh. Chúng tôi chỉ lấy
mẫu ở thời điểm 7 ngày sau điều trị, những bệnh
TP+FN
p
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 118
nhân thuộc nhóm chứng nếu sau khoảng thời
gian đó phát sinh nhu cầu sử dụng insulin sẽ
không thuộc mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi.
Nhập số liệu bằng phần mềm epidata 3.1. Xử
lí số liệu bằng phần mềm stata 10.0.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm phân bố dịch tễ trong nghiên cứu
(n=160).
Yếu tố Giá trị Tần số
(n=160)
Tỉ lệ %
Tuổi trung bình 31,12 ± 5,14
<35 tuổi
≥35 tuổi
119
41
74,28
25,63
Dân tộc Kinh 155 96,88
Khác 5 3,13
Địa chỉ TPHCM 72 45
Tỉnh 88 55
Nghề nghiệp Viên chức 40 25
Công nhân 67 41,88
Nội trợ 34 21,25
Buôn bán 16 9,38
Nông dân 3 1,88
Sinh viên 1 0,63
Trình độ học vấn < cấp 3 61 38,13
>=cấp 3 99 61,88
BMI trước khi
mang thai
Trung bình 21,75±3
Nhẹ cân (<18,5)
Bình thường (18,5-24,9)
Thừa cân (24,9-29.9)
Béo phì (≥ 30)
23
119
15
3
14,38
74,38
9,38
1,88
Tiền căn gia
đình
Có
Không
19
141
11,88
88,12
Tiền căn sinh
con to
Có
Không
3
157
1,88
98,12
Tiền căn đái
tháo đường thai
kì
Có
Không
9
151
5,63
94,37
Tiền căn bệnh lý Không
Tăng huyết áp
Khác
135
4
21
84,38
2,5
13,3
Thai lưu, sảy
thai sớm
Không
Có
145
15
90,63
9,38
Số lần sinh Con so 80 50
Con rạ 80 50
Giá trị của ngưỡng đường huyết đói lớn hơn
102,42 mg/dl, trong nghiên cứu: khi áp dụng
ngưỡng đường huyết đói trong nghiệm pháp 75
gram glucose lớn hơn 102,42mg/dl vào dân số
nghiên cứu của chúng tôi, nhận thấy độ nhạy
của ngưỡng này 75% và độ chuyên là 95,14% cho
nhu cầu điều trị insulin. Giá trị dự báo dương là
63,16% và giá trị dự báo âm là 97,16% (Bảng 2).
Bảng 2. Phân bố đối tượng nghiên cứu có đường
huyết đói lớn hơn 102,42mg/dl.
Yếu tố liên
quan
AIT
(N=16)
MNT
(N=144)
RR KTC 95% P*
Đường huyết
đói lúc OGTT
<102,42mg/dl
≥102,42 mg/dl
4(25)
12(75)
137(95,14)
7(4,86)
22,3
10,6-
46,73
<0,001
Đường huyết đói cao hơn ở nhóm điều trị
insulin so với nhóm điều trị tiết chế, RR=1,13 với
KTC 95% [1,08-1,18], p<0,001. Đường huyết 1 giờ
sau làm nghiệm pháp ở nhóm điều trị insulin
cao hơn so với nhóm tiết chế, RR=1,08 KTC 95%
[1,04-1,07], p<0,001 (Bảng 3).
Bảng 3. Mối liên quan giữa kết quả xét nghiệm 75
gram glucose và nhu cầu điều trị insulin
Yếu tố liên
quan
AIT
N=16
MNT
N=144
RR KTC 95% P*
Đường huyết
đói
109,65±14
,15
84,72±10,4
8
1,13 1,08-1,18 <0,00
1
Đường huyết
1 giờ
249,43±37
,37
185,61±26,
31
1,08 1,04-1,07 <0,00
1
Đường huyết
2 giờ
216,15±51
,22
154,32±26,
72
1,05 1,03-1,07 <0,00
1
Tương tự, đường huyết 2 giờ sau uống 75
gram glucose cũng cao hơn ở nhóm điều trị
insulin so với nhóm tiết chế ăn uống đơn thuần,
p<0,001, RR=1,05 với KTC 95% [1,03-1,07].
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận kết quả
khá tương đồng với nghiên cứu của Ya Zhang
thực hiện năm 2016 tại Trung Quốc, có lẽ do đặc
điểm chủng tộc, địa lý, văn hóa ăn uống khá
tương đồng nên nồng độ đường huyết đói
nghiên cứu của chúng tôi tương tự nghiên cứu
của Ya Zhang, tuy nhiên tỉ lệ điều trị insulin
trong nghiên cứu này khá cao (44,8%)(12) có lẽ do
nghiên cứu này thực hiện hồi cứu và đối tượng
nghiên cứu không được nhập viện nên mức độ
tuân thủ điều trị của bệnh nhân không được
đảm bảo.
Khi so sánh với nghiên cứu của Okan
Bakiner năm 2013 và Akinci năm 2008 tại Thổ
Nhĩ Kỳ, nghiên cứu của chúng tôi có kết quả
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 119
đường huyết đói trong nghiệm pháp dung nạp
đường cao hơn đáng kể, tuy nhiên trong nghiên
cứu này sự khác biệt về đường huyết đói giữa
hai nhóm bệnh nhân cũng có khác biệt có ý
nghĩa thống kê. Có lẽ do đặc điểm chủng tộc
cũng như văn hóa, chế độ ăn uống khác biệt,
phác đồ theo dõi bệnh nhân đái tháo đường
khác nhau, đồng thời trong nghiên cứu này mức
cân nặng trước khi mang thai của hai nhóm
bệnh nhân cao hơn đáng kể so với nghiên cứu
của chúng tôi, lần lượt là 30,2 ± 4,6 và 31,6 ± 4,9
kg/m2 ở nhóm MNT và AIT, vì vậy sự đề kháng
insulin cao hơn nên nhu cầu insulin sẽ cao hơn
với những đối tượng bệnh nhân ngưỡng đường
huyết đói thấp(3).
Trong nghiên cứu của Wantanabe ở Nhật
Bản năm 2016, tác giả lại không tìm thấy sự khác
biệt về đường huyết đói trong nghiệm pháp
dung nạp đường, mà chỉ có sự khác biệt về
đường huyết 1 giờ và 2 giờ sau khi uống 75
gram glucose(9). Trong nghiên cứu này cỡ mẫu
khá nhỏ ( 37 thai phụ) và thời điểm chẩn đoán
đái tháo đường thai kì khá sớm (18,9 tuần ở
nhóm AIT và 21,6 tuần ở nhóm MNT) nên kết
quả nghiên cứu có khác biệt so với nghiên cứu
của chúng tôi, vì có thể ở thời điểm chẩn đoán
sớm như vậy, sự đề kháng insulin chưa cao cũng
như tình trạng nghén gây nôn nhiều, bệnh nhân
ăn uống kém có thể ảnh hưởng đến kết quả
đường huyết đói.
Theo nghiên cứu của Vicent W.Wong năm
2011 tại Úc với 612 bệnh nhân chia thành hai
nhóm, đường huyết đói trong nghiệm pháp
dung nạp 75 gram glucose cũng có sự khác biệt
rõ rệt(11). Nghiên cứu này có độ tuổi trung bình ở
hai nhóm lần lượt là 31,9 và 30,9 tuổi, khá tương
đồng với độ tuổi nghiên cứu của chúng tôi là
31,06 và 31,12 tuổi, tuy nhiên chỉ số BMI trung
bình lại cao hơn đáng kể.
Qua so sánh các nghiên cứu khác nhau về
đặc điểm địa lý, tuổi, dân tộc, tiêu chuẩn chọn
lựa điều trị insulin thì đều thấy được mối liên
quan chặt chẽ giữa đường huyết đói trong
nghiệm pháp dung nạp đường và tiên lượng
điều trị insulin ở bệnh nhân đái tháo đường
thai kì. Điều này có thể lí giải thông qua những
rối loạn cơ bản trong sự tiết insulin nền khác
nhau của bệnh nhân. Saisho năm 2010 đã
nghiên cứu đặc điểm rối loạn hoạt động của tế
bào bêta tụy trên bệnh nhân đái tháo đường
thai kì(7), cho thấy có sự giảm nhạy cảm và
giảm tiết insulin, đồng thời tương quan với
đường huyết đói và đường huyết mao mạch
trung bình hàng ngày của bệnh nhân ở nhóm
điều trị insulin so với nhóm điều trị ăn tiết chế.
Sau khi phân tích đơn biến, chúng tôi nhận
thấy đường huyết sau uống 75 gram glucose
thời điểm 1 giờ và 2 giờ cao hơn ở nhóm điều trị
insulin so với nhóm chỉ tiết chế đơn thuần, với
RR lần lượt là 1,08 và 1,05, p<0,001. Tuy nhiên
sau phân tích đa biến thì mối liên quan này
không còn tồn tại, với mức RR hiệu chỉnh là 1,03
và 1,03 theo thứ tự (p>0,05).
Tìm kiếm y văn trên thế giới chúng tôi ghi
nhận mối liên quan này cũng thay đổi giữa các
nghiên cứu với nhau. Theo nghiên cứu của Ya
Zhang, đường huyết 2 giờ là yếu tố độc lập liên
quan với điều trị insulin OR=1,16, KTC 95%
[1,07-1,27](12), trước đó thì cả đường huyết 1 giờ
và 2 giờ đều cao hơn có ý nghĩa thống kê trong
mô hình đơn biến.
Còn trong nghiên cứu của Wantanabe thì
sau khi phân tích đa biến thì cả đường huyết 1
giờ và đường huyết 2 giờ là yếu tố độc lập tiên
lượng điều trị insulin ở hai nhóm bệnh nhân(9).
HẠN CHẾ
Sai lệch hồi tưởng: thai phụ nhớ không chính
xác ngày kinh chót (trong trường hợp thai phụ
không có siêu âm 3 tháng đầu thai kì), thai phụ
nhớ không đúng về tiền căn đái tháo đường thai
kì trước, nhớ không chính xác hoặc không biết
được những thông tin về tiền căn gia đình có
người bị đái tháo đường hay không. Thai phụ
cũng có thể khai không chính xác về những bệnh
lí trước đây hoặc tiền căn hút thuốc lá. Thông tin
về cân nặng trước khi mang thai cũng do sản
phụ nhớ lại nên có thể bị sai lệch hoặc nếu thai
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 120
phụ không nhớ được thì dùng cân nặng được
ghi nhận lần đầu tiên trong sổ khám thai, việc
này có thể dẫn đến không chính xác trong việc
tính toán chỉ số khối cơ thể.
KẾT LUẬN
Qua thực hiện nghiên cứu, chúng tôi rút ra được:
Đường huyết đói khi làm nghiệm pháp 75
gram glucose cao hơn 102,42 mg/dl có độ nhạy
75% và độ chuyên 95,14%, giá trị tiên đoán
dương là 63,16%, giá trị tiên đoán âm là 97,16%
cho nguy cơ phải điều trị bổ sung với insulin để
đạt đường huyết mục tiêu.
Đường huyết đói, 1 giờ sau ăn và 2 giờ sau
ăn trong nghiệm pháp 75 gram glucose cao hơn
có ý nghĩa thống kê ở nhóm thai phụ điều trị đái
tháo đường thai kì với insulin so với nhóm thai
phụ điều trị bằng chế độ ăn tiết chế đơn thuần.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arendz IJ, et al (2013). "Prevalence of gestational diabetes in
high-risk pregnancies: screened using an oral glucose tolerance
test". Ned Tijdschr Geneeskd, 157(18):pp.A5409
2. Ares J, Martín-Nieto A, Díaz-Naya L et al (2017). "Gestational
Diabetes Mellitus (GDM): Relationship Between Higher Cutoff
Values for 100 g Oral Glucose Tolerance Test (OGTT) and
Insulin Requirement During Pregnancy". Matern Child Health J,
21(7):pp.1488-1492.
3. Bakiner O, Emre Bozkirli, Kursat Ozsahin et al (2013). "Risk
Factors That can Predict Antenatal Insulin Need in Gestational
Diabetes". J Clin Med Res, 5(5):pp.381-8.
4. Gonzalez-Quintero VH, Istwan N, Rhea D et al (2008).
"Antenatal factors predicting subsequent need for insulin
treatment in women with gestational diabetes". J Womens Health
(Larchmt), 17(7):pp.1183-7.
5. Hirst JE, Tran TS, Do MA, Morris JM, Jeffery HE (2012).
"Consequences of gestational diabetes in an urban hospital in
Viet Nam: a prospective cohort study". PLoS Med, 9(7):pp.1324-
26.
6. Hirst JE, Tran TS, Do MA, Rowena F, Morris JM, et al (2012).
"Women with gestational diabetes in Vietnam: a qualitative
study to determine attitudes and health behaviours". BMC
Pregnancy Childbirth, 12:pp. 81.
7. Krstevska B, Misevska SJ, Krstevska SS, Nakova VV (2016).
"Using 75 g OGTT in Prediction for Macrosomia in Gestational
Diabetes Mellitus". Clinics in Mother and Child Health, 13(4):pp.1-3.
8. L'Heveder R, Nolan T (2013). "International Diabetes
Federation". Diabetes Res Clin Pract, 101(3):pp. 349-51.
9. Saisho Y, Miyakoshi K, Tanaka M, Shimada A, Ikenoue
S, Kadohira I, Yoshimura Y, Itoh H (2010). "Beta cell dysfunction
and its clinical significance in gestational diabetes". Endocrine
Journal, 57(11):pp. 973-980.
10. Watanabe M, et al (2016). "Risk Factors for the Requirement of
Antenatal Insulin Treatment in Gestational Diabetes Mellitus". J
Diabetes Res, 2016:pp.9648798.
11. Wong VW, Jalaludin B (2011). "Gestational diabetes mellitus:
who requires insulin therapy?". Aust N Z J Obstet Gynaecol,
51(5):pp.432-6.
12. Zhang Y, Shao J, Li F, Xu X (2016). "Factors in Gestational
Diabetes Mellitus Predicting the Needs for Insulin Therapy".
International Journal of Endocrinology, 2017:9786436.
Ngày nhận bài báo: 30/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_lien_quan_giua_nong_do_duong_huyet_doi_trong_nghiem_phap.pdf