Tài liệu Mối liên quan giữa nghiện internet và trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở nguyễn công trứ Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 340
MỐI LIÊN QUAN GIỮA NGHIỆN INTERNET VÀ TRẦM CẢM
Ở HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ NGUYỄN CÔNG TRỨ
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, ĐỒNG NAI
Nguyễn Trường Viên*, Trần Thị Anh Thư*, Thái Thanh Trúc*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiều bằng chứng đã chỉ ra rằng nghiện internet dẫn đến một số vấn đề về sức khỏe tâm
thần đặc biệt là trầm cảm.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định mối liên quan giữa nghiện internet và trầm cảm ở học sinh
trung học cơ sở tại trường Nguyễn Công Trứ, Biên Hòa, Đồng Nai.
Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện từ tháng 3-7/2017 trên học
sinh khối 8 và 9. Các đối tượng hoàn thành bộ câu hỏi tự điền. Nghiện internet và trầm cảm được đánh giá
qua thang đo IAT và CES-D có tính tin cậy và tính giá trị cao.
Kết quả: Trong 360 học sinh tham gia nghiên cứu, tỉ lệ nghiện internet và trầm cảm lần lượt là 51,1%
và 29,2%. Kết quả phân...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 351 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên quan giữa nghiện internet và trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở nguyễn công trứ Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 340
MỐI LIÊN QUAN GIỮA NGHIỆN INTERNET VÀ TRẦM CẢM
Ở HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ NGUYỄN CÔNG TRỨ
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, ĐỒNG NAI
Nguyễn Trường Viên*, Trần Thị Anh Thư*, Thái Thanh Trúc*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhiều bằng chứng đã chỉ ra rằng nghiện internet dẫn đến một số vấn đề về sức khỏe tâm
thần đặc biệt là trầm cảm.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định mối liên quan giữa nghiện internet và trầm cảm ở học sinh
trung học cơ sở tại trường Nguyễn Công Trứ, Biên Hòa, Đồng Nai.
Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện từ tháng 3-7/2017 trên học
sinh khối 8 và 9. Các đối tượng hoàn thành bộ câu hỏi tự điền. Nghiện internet và trầm cảm được đánh giá
qua thang đo IAT và CES-D có tính tin cậy và tính giá trị cao.
Kết quả: Trong 360 học sinh tham gia nghiên cứu, tỉ lệ nghiện internet và trầm cảm lần lượt là 51,1%
và 29,2%. Kết quả phân tích hồi quy đa biến cho thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa nghiện internet với trầm
cảm. Tỉ lệ trầm cảm ở nhóm nghiện internet cao hơn 2,26 lần (KTC 95% 1,55-3,23) so với nhóm không
nghiện internet. Sự quan tâm và sự bảo vệ của mẹ là yếu tố bảo vệ của trầm cảm.
Kết luận: Tỉ lệ nghiện internet và trầm cảm cao ở học sinh trung học cơ sở. Nhà trường và gia đình
cần có biện pháp kiểm soát việc sử dụng internet của học sinh đồng thời có biện pháp hỗ trợ tâm lý. Kiểm
soát việc sử dụng internet của học sinh có thể sẽ giúp giảm trầm cảm. Cùng với đó, người mẹ cần quan tâm
đến con nhiều hơn để nâng cao sức khỏe tâm thần của con.
Từ khóa: Nghiện internet, trầm cảm, học sinh trung học cơ sở, Đồng Nai.
ABSTRACT
THE ASSOCIATION BETWEEN INTERNET ADDICTION AND DEPRESSION IN
NGUYEN CONG TRU SECONDARY SCHOOL STUDENTS IN BIEN HOA CITY, DONG NAI
Nguyen Truong Vien, Tran Thi Anh Thu, Thai Thanh Truc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 339 - 346
Introduction: Scientific evidences have revealed that internet addiction can lead to mental health
issues, especially depression.
Objectives: This study was to evaluate the association between internet addiction and depression in
secondary school students at Nguyen Cong Tru secondary school, Bien Hoa City, Dong Nai.
Methods: A cross-sectional study was conducted during 3-7/2017 in students grade 8 and 9. Students
completed a self-report structural questionnaire. Internet addiction and depression were assessed by IAT
and CES-D scale with high level of reliability and validity.
Results: Among 360 joined this study, the prevalence of internet addiction and depression was 51.1%
and 29.2% respectively. Results from multivariate data analysis revealed a significant association between
internet addiction and depression. The prevalence of depression among those with internet addiction was
* Khoa YTCC, ĐH Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Trường Viên ĐT: 0969149954 Email: truongviennguyen@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 341
2.26 times higher (95% CI 1.55-3.23) compared to those without internet addiction. Care and control from
mother were protective factors against depression.
Conclusion: The prevalence of internet addiction and depression was high among secondary school
students. Families and schools should have strategies to comtrol internet use among secondary students and
provide them with psychological support. Controlling internet use can help to prevent depression. Mothers
should pay more attention on their children to help them improving mental health.
Keywords: Internet addiction, depression, secondary school, Dong Nai.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hai thập kỷ gần đây, internet đã
phát triển với tốc độ rất nhanh và đóng một
vai trò quan trọng trong cuộc sống. Thống kê
vào tháng 3 năm 2017, số người sử dụng
internet trên toàn thế giới là trên 3,7 tỉ người(7).
Tại Việt Nam, tính đến năm 2016 có hơn 49
triệu người sử dụng internet và thanh thiếu
niên là đối tượng chủ yếu(8). Cùng với sự phát
triển của internet, vấn đề nghiện internet đã
xuất hiện và đáng báo động ở một số khu vực.
Nghiên cứu tại 31 quốc gia vào năm 2014 cho
thấy tỉ lệ nghiện internet trung bình là 6% dân
số(3). Báo cáo tổng quan từ 179 bài báo về tình
trạng nghiện internet giai đoạn 1995 đến 2016
đã chỉ ra thực trạng nghiện internet ở các quốc
gia châu Á đáng lo ngại hơn nhiều so với châu
Âu và châu Mỹ(3). Tại Việt Nam, nghiên cứu
tại Hà Nội trên học sinh sinh viên ước tính tỉ
lệ nghiện internet là khoảng 21,2%(17).
Vị thành niên được xác định là đối tượng
có nguy cơ cao do được tiếp xúc nhiều với
internet phục vụ nhu cầu học tập, giải trí. Bên
cạnh tác động lên thể chất như cận thị, béo
phì, giảm vận động(3); nhiều bằng chứng cho
thấy nghiện internet có thể gây ra một số vấn
đề sức khỏe tâm thần, đặc biệt là trầm cảm(11).
Mối liên quan giữa nghiện internet và trầm
cảm đã được khẳng định qua nhiều nhiên
cứu(11,16). Tuy nhiên các nghiên cứu chủ yếu
tập trung vào đối tượng sinh viên và học sinh
trung học phổ thông.
Với xu thế trẻ hóa độ tuổi sử dụng
internet, việc mở rộng độ tuổi nghiên cứu là
cần thiết. Nghiên cứu tại Đồng Nai năm 2011
đã cho thấy tỉ lệ nghiện internet ở lứa tuổi
trung học cơ sở là 12,3%(10). Sau 6 năm phát
triển vượt bậc của mạng xã hội, điện thoại
thông minh thì có thể dự báo tỉ lệ này đã thay
đổi lớn. Mối liên quan thuận giữa mức độ sử
dụng internet và các vấn đề sức khỏe tâm thần
cũng đã được tìm thấy trong nghiên cứu trên
học sinh trung học cơ sở tại Hà Nội năm
2013(4). Dù vậy mối liên quan này chưa được
khẳng định khi tác giả chưa xem xét yếu tố tác
động của gia đình tới đối tượng – một yếu tố
có vai trò quan trọng với tâm lý vị thành niên.
Tuy nhiên, nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí
Minh ở học sinh trung học phổ thông lại cho
thấy không có liên quan giữa nghiện internet
và trầm cảm(18).
Thành phố Biên Hòa là một trong những
thành phố lớn ở khu vực miền nam với tốc độ
phát triển cao. Trường trung học cơ sở
Nguyễn Công Trứ có số lượng học sinh lớn và
đa dạng thành phần xã hội có thể đại diện cho
các đặc điểm dân số khu vực này. Nghiên cứu
này được thực hiện với kỳ vọng sẽ phản ánh
chính xác thực trạng nghiện internet, trầm
cảm và mối liên quan giữa internet và trầm
cảm của học sinh trong trường sau khi kiểm
soát các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả nghiên
cứu; từ đó có thể đưa ra những hướng hành
động cụ thể nhằm cải thiện và nâng cao sức
khỏe tâm thần cho học sinh.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 342
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện vào
tháng 3-7/2017 trên học sinh khối 8 và 9
trường trung học cơ sở Nguyễn Công Trứ
thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai. Do sử
dụng bộ câu hỏi tự điền nên nghiên cứu
không thực hiện trên học sinh khối 6 và 7 để
hạn chế sai lệch thông tin. Trong số 16 lớp
khối 8 và 9 với tổng số 674 học sinh, thực hiện
bốc thăm ngẫu nhiên chọn ra 9 lớp. Tất cả học
sinh trong 9 lớp này được đưa vào nghiên
cứu. Hai đợt khảo sát được thực hiện để hạn
chế mất mẫu do học sinh vắng mặt trong buổi
khảo sát đầu tiên. Những học sinh đồng ý
tham gia nghiên cứu hoàn thành bộ câu hỏi tự
điền, học sinh vắng mặt trong cả hai lần khảo
sát bị loại ra khỏi nghiên cứu. Tổng cộng có
377 học sinh trong các lớp được chọn và có 360
học sinh tham gia vào nghiên cứu sau hai lần
khảo sát, chiếm tỉ lệ 96%.
Công cụ thu thập số liệu
Bộ câu hỏi tự điền bao gồm các nội dung
đặc điểm dân số xã hội, gia đình, đặc điểm sử
dụng internet, đánh giá tình trạng nghiện
internet, đánh giá sự gắn kết của con cái với
cha mẹ, đánh giá tình trạng trầm cảm.
Nghiện internet được đánh giá thông qua
thang đo IAT (Internet Addiction Test) đã
từng được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia
và cho thấy tính tin cậy, giá trị cao(6,9). Nghiên
cứu tương quan giữa mức độ sử dụng internet
và các vấn đề sức khỏe tâm thần trên học sinh
trung học cơ sở tại Hà Nội cũng đã cho thấy
tính tin cậy cao của IAT(4). Thang đo gồm 20
câu hỏi, mỗi câu hỏi được cho điểm từ 1 đến 5
lần lượt ứng với các mức độ thường xuyên
gồm ‘không bao giờ’, ’hiếm khi’, ’thỉnh thoảng‘,
’thường xuyên‘, ’luôn luôn‘. Các mức độ nghiện
internet được phân chia dựa trên tổng điểm 20
câu hỏi. Không nghiện internet khi tổng điểm
<50, nghiện nhẹ đến trung bình khi tổng điểm
từ 50 đến 79, nghiện nặng khi tổng điểm ≥
80(7).
Sự gắn kết của con cái với cha mẹ được
đánh giá thông qua thang đo PBI (Parental
Bonding Instrument). Tính tin cậy và tính giá
trị của thang đo PBI được thể hiện trong các
nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam(14, 18).
Thang đo gồm 25 câu hỏi đánh giá sự quan
tâm và sự bảo vệ của cha mẹ. Có sự quan tâm
của cha khi tổng điểm cấu phần này ≥ 24, có sự
quan tâm của mẹ khi tổng điểm cấu phần này
≥ 27. Có sự bảo vệ của cha khi tổng điểm cấu
phần này ≥ 12,5; có sự bảo vệ của mẹ khi tổng
điểm cấu phần này ≥ 13,5(18).
Tình trạng trầm cảm được đánh giá thông
qua thang đo CES-D (Center for
Epidemiologic Studies Depression scale) đã
được kiểm định và sử dụng ở rất nhiều quốc
gia trên đối tượng vị thành niên(2). Trên đối
tượng học sinh từ 13-18 tuổi tại Hải Dương và
Hà Nội, thang đo đã cho thấy tính tin cậy nội
bộ và giá trị cấu trúc thông qua phân tích nhân
tố khẳng định(13). Thang đo gồm 20 câu hỏi về
cảm nhận của học sinh trong một tuần qua.
Mỗi câu hỏi được cho điểm từ 0 đến 3 lần lượt
ứng với các mức độ và số ngày xuất hiện triệu
chứng rối loạn trầm cảm gồm ’hiếm khi hoặc
dưới 1 ngày‘, ’một vài lần hoặc 1-2 ngày‘, ’thỉnh
thoảng hoặc 3-4 ngày‘, ’hầu hết thời gian hoặc 5-7
ngày‘. Ngưỡng trầm cảm được xác định thông
qua tổng điểm 20 câu hỏi. Tổng điểm CES-D
≥16 được xem là có dấu hiệu trầm cảm nhẹ,
≥21 là mức độ trung bình và ≥ 25 là mức độ
nặng(5). Do tuổi vị thành niên có thể có những
diễn biến tâm lý không ổn định mà không hẳn
là vấn đề sức khỏe cần can thiệp, cho nên, để
xác định đối tượng nhiều khả năng có vấn đề
về trầm cảm thì chúng tôi chọn ngưỡng CES-D
≥ 21 trong các phân tích.
Phân tích dữ kiện
Tần số, tỉ lệ (%) được sử dụng cho thống
kê mô tả. Kiểm định Chi bình phương được sử
dụng để xác định mối liên quan giữa các yếu
tố, bao gồm nghiện internet với tình trạng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 343
trầm cảm. Mô hình hồi quy đa biến tuyến tính
tổng quát hóa dùng để kiểm soát các yếu tố tác
động lên mối liên quan giữa internet và trầm
cảm. Các yếu tố có giá trị p kiểm định mối liên
quan với trầm cảm ≤0,2 được đưa vào phân
tích đa biến. Việc lựa chọn mô hình dựa vào
phép kiểm tỉ số độ khả dĩ. Mô hình phù hợp
được báo cáo dưới dạng tỉ số tỉ lệ hiện mắc PR
và KTC 95%. Các kiểm định mối liên quan có
ý nghĩa thống kê ở ngưỡng p<0,05.
KẾT QUẢ
Trong số 360 học sinh tham gia nghiên
cứu, học sinh khối 8 chiếm 46,4%; còn lại
thuộc khối 9. Số lượng nam và nữ không
chênh lệch nhiều (nam chiếm 52,8%). Phần lớn
học sinh có học lực trung bình (48,3%) và hạnh
kiểm tốt (59,2%). Tỉ lệ học lực giỏi hoặc xuất
sắc thấp (10%) và hạnh kiểm dưới trung bình
thấp (2,8%). Những học sinh là con cả chiếm tỉ
lệ lớn nhất (37,9%) lần lượt sau đó là con út
(30,3%), con thứ (25,9%), không có anh chị em
ruột (5,9%). Tỉ lệ tham gia học thêm ngoài giờ
cao (68,6%) trong đó 46,9% học trên 6 giờ 1
tuần. Tỉ lệ trầm cảm theo thang đo CES-D ≥ 21
là 29,2%. Kết quả phân tích mối liên quan cho
thấy nhóm học sinh có mức hạnh kiểm cao
hơn có tỉ lệ trầm cảm thấp hơn. Học sinh có
học lực trung bình hoặc dưới trung bình có tỉ
lệ trầm cảm cao hơn học sinh khá (Bảng 1).
Bảng 1: Tỉ lệ rối loạn trầm cảm theo đặc tính mẫu nghiên cứu (n=360)
Đặc tính Tổng
n=360
n (%)
Trầm cảm p PR
(KTC 95%) Có
n=105; 29,2%; n (%)
Không
n=255; 70,8%; n (%)
Giới
Nam
Nữ
170 (47,2)
190 (52,8)
49 (28,8)
56 (29,5)
121 (71,2)
134 (70,5)
0,892
0,98 (0,71-1,35)
1
Khối
Khối 8
Khối 9
167 (46,4)
193 (53,6)
60 (31,1)
45 (26,9)
133 (68,9)
122 (73,1)
0,389
1,15 (0,83-1,60)
1
Học lực
Xuất sắc/ Giỏi
Khá
Trung bình
Dưới trung bình
36 (10,0)
98 (27,4)
173 (48,3)
51 (14,3)
11 (30,6)
17 (17,4)
58 (33,5)
19 (37,3)
25 (69,4)
81 (82,6)
115 (66,5)
32 (62,7)
0,143
0,017
0,022
1,76 (0,83-3,76)
1
1,93 (1,13-3,32)
2,15 (1,12-4,13)
Hạnh kiểm*
Tốt
Khá
Trung bình
Dưới trung bình
212 (59,2)
100 (27,9)
36 (10,1)
10 (2,8)
53 (25,0)
32 (32,0)
14 (38,9)
6 (60,0)
159 (75,0)
68 (68,0)
22 (61,1)
4 (40,0)
0,270
0,141
0,042
1
1,28 (0,83-2,00)
1,56 (0,86-2,80)
2,40 (1,03-5,58)
Thứ tự sinh
Con lớn/ con cả
Con thứ
Con út
Không có anh chị em
136 (37,9)
93 (25,9)
109 (30,3)
21 (5,9)
47 (34,6)
21 (22,6)
28 (25,7)
9 (42,9)
89 (65,4)
72 (77,4)
81 (74,3)
12 (57,1)
0,059
0,141
0,440
1
0,65 (0,42-1,02)
0,74 (0,50-1,10)
1,24 (0,72-2,14)
Học thêm
Có
Không
247 (68,6)
113 (31,4)
63 (25,5)
42 (37,2)
184 (74,5)
71 (62,8)
0,059
0,69 (0,46-1,01)
1
Thời gian học thêm
≤ 6 giờ/ tuần
Từ trên 6 - 9 giờ/ tuần
> 9 giờ/ tuần
131 (53,2)
36 (14,6)
79 (32,2)
28 (21,4)
10 (27,8)
25 (31,7)
103 (78,6)
26 (72,2)
54 (68,3)
0,477
0,154
1,30 (0,63-2,68)
1,48 (0,86-2,54)
1
*Kiểm định khuynh hướng: Hạnh kiểm p =0,02, PR =1,29 (1,04-1,60)
Có hơn 90% học sinh sống chung với cha
mẹ. Nghề nghiệp chủ yếu của cha là kinh
doanh, buôn bán (46,0%). Nghề nghiệp của mẹ
chủ yếu là nội trợ (39,8%), kinh doanh buôn
bán và công nhân cũng chiếm tỉ lệ khá cao (lần
lượt 29,4% và 25,5%). Gần 70% học sinh cho
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 344
rằng gia đình mình có mức kinh tế trung bình,
26,6% cho rằng gia đình mình giàu có hoặc
khá giả, và chỉ 5,0% nhận định gia đình thuộc
kinh tế nghèo. Khoảng một nửa số học sinh
nhận được sự quan tâm của cha mẹ (của cha
52% và của mẹ 45,9%); số học sinh cảm thấy sự
bảo vệ từ cha mẹ rất cao (với cha 89,4% và mẹ
là 85,3%). Sự quan tâm và bảo vệ của cha và
mẹ có vai trò như yếu tố góp phần làm giảm
trầm cảm ở học sinh. Tỉ lệ trầm cảm ở nhóm có
sự quan tâm của cha bằng 0,48 lần (KTC 95%
0,34-0,70) so với nhóm không có (p<0,001). Tỉ
lệ trầm cảm ở nhóm có sự quan tâm của mẹ
bằng 0,28 lần (KTC 95% 0,18-0,44) so với nhóm
không có (p<0,001). Tỉ lệ trầm cảm ở nhóm có
sự bảo vệ của cha bằng 0,59 lần (KTC 95%
0,39-0,89) so với nhóm không có (p=0,021). Tỉ
lệ trầm cảm ở nhóm có sự bảo vệ của mẹ bằng
0,47 lần (KTC 95% 0,34-0,64) so với nhóm
không có (p<0,001) (Bảng 2).
Bảng 2: Tỉ lệ trầm cảm với các yếu tố gia đình của đối tượng nghiên cứu (n=360)
Đặc tính Tổng
n=360; n (%)
Trầm cảm p PR
(KTC 95%) Có
n=105; 29,2%; n (%)
Không
n=255; 70,8%; n (%)
Sống chung với cha mẹ
Có
Không
329 (91,4)
31 (8,6)
96 (29,2)
9 (29,0)
233 (70,8)
22 (71,0)
0,986
1,01 (0,57-1,79)
1
Nghề nghiệp cha (n=339)
Kinh doanh, buôn bán
Nhân viên, viên chức
Công nhân
Khác
156 (46,0)
17 (5,0)
74 (21,8)
92 (27,2)
35 (22,4)
6 (35,3)
23 (31,1)
34 (38,0)
121 (77,6)
11 (64,7)
51 (68,9)
57 (62,0)
0,305
0,225
0,027
1
1,57 (0,66-3,74)
1,39 (0,82-2,34)
1,70 (1,06-2,71)
Nghề nghiệp mẹ (n=357)
Kinh doanh, buôn bán
Nhân viên, viên chức
Công nhân
Nội trợ
Khác
105 (29,4)
12 (3,4)
91 (25,5)
142 (39,8)
7 (1,9)
34 (32,4)
3 (25,0)
32 (35,2)
35 (24,7)
1 (14,3)
71 (67,6)
9 (75,0)
59 (64,8)
107 (75,3)
6 (85,7)
0,681
0,512
0,083
0,337
0,92 (0,62-1,36)
0,71 (0,26-1,97)
1
0,70 (0,47-1,05)
0,41 (0,06-2,55)
Kinh tế gia đình (n=358)
Giàu/Khá giả
Trung bình
Nghèo
95 (26,6)
245 (68,4)
18 (5,0)
22 (23,2)
76 (31,0)
7 (38,9)
73 (76,8)
169 (69,0)
11 (61,1)
0,227
0,232
1
1,34 (0,83-2,15)
1,68 (0,72-3,93)
Sự gắn kết với cha mẹ
Quan tâm của cha (n=331)
Có
Không
172 (52,0)
159 (48,0)
33 (19,2)
63 (39,6)
139 (80,8)
96 (60,4)
<0,001
0,48 (0,34-0,70)
1
Quan tâm của mẹ (n=353)
Có
Không
162 (45,9)
191 (44,1)
20 (12,4)
84 (44,0)
142 (87,6)
107 (56,0)
<0,001
0,28 (0,18-0,44)
1
Bảo vệ của cha (n=331)
Có
Không
296 (89,4)
35 (10,6)
80 (27,0)
16 (45,7)
216 (73,0)
19 (54,3)
0,021
0,59 (0,39-0,89)
1
Bảo vệ của mẹ (n=353)
Có
Không
301 (85,3)
52 (14,7)
76 (25,3)
28 (53,9)
225 (74,7)
24 (46,1)
<0,001
0,47 (0,34-0,64)
1
Độ tuổi bắt đầu sử dụng internet hầu hết
rơi vào ≤12 tuổi (89,4%); trong đó 20,2% bắt
đầu sử dụng ở độ tuổi <9. Thời gian sử dụng
internet chủ yếu ≥ 2 giờ/ngày (79,1%) trong đó
chủ yếu sử dụng từ 2-4 giờ/ngày (46,1%). Mục
đích chủ yếu khi sử dụng internet là tham gia
mạng xã hội (48,3%), giải trí (24,2%), trò chơi
trực tuyến (22,2%); chỉ có 5,3% sử dụng cho
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 345
việc học và các công việc khác. Có mối liên
quan giữa thời gian sử dụng internet và trầm
cảm. Nhóm học sinh sử dụng internet nhiều
hơn cho thấy tỉ lệ trầm cảm cao hơn. Kết quả
đánh giá nghiện internet theo thang đo IAT
cho thấy tỉ lệ nghiện internet là 51,1%. Có mối
liên quan giữa nghiện internet và trầm cảm
khi tỉ lệ trầm cảm ở nhóm nghiện internet
bằng 2,76 lần (KTC 95% 1,88-4,06) nhóm
không nghiện internet (p<0,001).
Bảng 3: Tỉ lệ trầm cảm với các đặc điểm sử dụng internet của đối tượng nghiên cứu (n= 360)
Đặc tính Tổng
n=360
n (%)
Trầm cảm p PR
(KTC 95%) Có
n=105; 29,2%; n(%)
Không
n=255; 70,8%; n(%)
Thời điểm bắt đầu sử dụng Internet
< 9 tuổi
9 -12 tuổi
> 12 tuổi
71 (20,2)
243 (69,2)
37 (10,6)
21 (29,6)
70 (28,8)
11 (29,7)
50 (70,4)
173 (71,2)
26 (70,3)
0,900
0,987
1
0,97 (0,64-1,47)
1,01 (0,54-1,85)
Thời gian sử dụng internet*
< 2 giờ/ngày
2 - 4 giờ/ngày
> 4 giờ/ngày
73 (20,9)
161 (46,1)
115 (33,0)
15 (20,6)
40 (24,8)
47 (40,9)
58 (79,4)
121 (75,2)
68 (59,1)
0,020
0,021
0,50 (0,28-0,90)
0,61 (0,40-0,93)
1
Mục đích sử dụng internet
Trò chơi trực tuyến
Mạng xã hội
Giải trí
Học
Khác
174 (48,3)
80 (22,2)
87 (24,2)
13 (3,6)
6 (1,7)
85 (48,9)
34 (42,5)
35 (40,2)
4 (30,8)
3 (50,0)
89 (51,1)
46 (57,5)
52 (59,8)
9 (69,2)
3 (50,0)
0,358
0,202
0,275
0,955
1
0,87 (0,65-1,17)
0,82 (0,61-1,11)
0,630 (0,27-1,45)
1,024 (0,45-2,31)
Nghiện internet
Có
Không
184 (51,1)
176 (48,9)
78 (42,4)
27 (15,3)
106 (57,6)
149 (84,7)
<0,001 2,76 (1,88-4,06)
* Kiểm định Khuynh hướng:Thời gian sử dụng Internet p=0,007; PR= 1,47 (1,11-1,94)
Kết quả phân tích đa biến cuối cùng cho
thấy trầm cảm chỉ liên quan có ý nghĩa thống
kê với nghiện inernet, sự quan tâm của mẹ, sự
bảo vệ của mẹ. Tỉ lệ trầm cảm ở nhóm nghiện
internet cao hơn 2,26 lần (KTC 95% 1,55-3,23)
so với nhóm không nghiện internet (p<0,001).
Tỉ lệ trầm cảm ở nhóm nhận được sự quan
tâm của mẹ bằng 0,34 lần (KTC 95% 0,22-0,52)
so với nhóm còn lại (p<0,001). Tỉ lệ trầm cảm ở
nhóm nhận được sự bảo vệ của mẹ bằng 0,61
lần (KTC 95% 0,46-0,82) so với nhóm còn lại.
Như vậy nghiện internet có thể là yếu tố thúc
đẩy trầm cảm, trong khi sự quan tâm và bảo
vệ của người mẹ có vai trò như yếu tố bảo vệ
khỏi trầm cảm.
Bảng 4: Mô hình hồi quy đa biến giữa trầm cảm với
nghiện internet, sự quan tâm của mẹ, sự bảo vệ của
mẹ (n=353)
Trầm cảm p PR KTC 95%
Nghiện internet <0,001 2,26 1,55-3,23
Sự quan tâm của mẹ <0,001 0,34 0,22-0,52
Sự bảo vệ của mẹ 0,001 0,61 0,46-0,82
BÀN LUẬN
Tỉ lệ nghiện internet
Khảo sát cho thấy 51,1% học sinh có dấu
hiệu nghiện internet ở ngưỡng điểm IAT ≥50.
Tỉ lệ này là khá cao so với các nghiên cứu
trước đây. Nghiên cứu của Lê Minh Công năm
2013 đã xác định tỉ lệ nghiện internet trên toàn
thành phố Biên Hòa là 12,3%(10). Nghiên cứu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 346
trên sinh viên đại học ở thành phố Hà Nội cho
thỉ lệ trung bình là 21,2%(17). Đặc điểm của hai
nghiên cứu trên là việc lấy mẫu cả khu vực nội
thành và ngoại thành, trường công lập và dân
lập nên tính đại diện cao cho dân số mục tiêu.
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ tiến hành tại
một trường nội thành nên tỉ lệ nghiện internet
có thể cao hơn. Sự khác biệt về thời gian thực
hiện cũng là một yếu tố đáng quan tâm trong
bối cảnh phát triển nhanh chóng của internet.
Tại Hong Kong năm 2005, tỉ lệ nghiện internet
vào khoảng 26,7% nhưng đến năm 2013 con số
này vào khoảng 50%(3).
Tỉ lệ trầm cảm
Với ngưỡng điểm CES-D ≥21 dùng để
đánh giá trầm cảm, tỉ lệ học sinh có biểu hiện
trầm cảm là 29,2%. Cũng với ngưỡng điểm
trên, nghiên cứu của Nguyễn Tấn Đạt trên đối
tượng học sinh trung học phổ thông đã cho tỉ
lệ 25,9% có biểu hiện trầm cảm(12). Với ngưỡng
CES-D≥ 22, nghiên cứu trên sinh viên năm hai
Đại học Thương mại cho thấy tỉ lệ trầm cảm
cao hơn bằng 49,5%(15). So với học sinh trung
học, đối tượng sinh viên thường có nguy cơ
cao hơn với trầm cảm do áp lực học tập, công
việc, điều kiện sống và mối quan hệ xã hội
phức tạp. Tuy nhiên tỉ lệ trầm cảm >25% ở học
sinh trung học là đáng báo động. Đặc biệt ở
học sinh trung học cơ sở đang ở lứa tuổi phát
triển quan trọng cả về thể chất và tâm sinh lý.
Mối liên quan giữa nghiện internet và trầm
cảm
Phân tích đơn biến cho thấy tỉ lệ trầm cảm
ở nhóm học sinh có nghiện internet cao gấp
2,76 lần (KTC 95% 1,88-4,06) nhóm không
nghiện internet (p<0,001). Mối liên hệ này đã
được tìm thấy trong nhiều nghiên cứu trước(1,
4, 5). Nghiên cứu tại Bangladesh năm 2015 cho
thấy tỉ lệ trầm cảm trong nhóm nghiện
internet cao gấp 3 lần nhóm không nghiện
internet (p<0,001)(1); con số này trong một
nghiên cứu khác là 1,9(5). Khi xem xét mối liên
quan trong sự tác động của các yếu tố khác,
mô hình đa biến vẫn tiếp tục cho thấy có sự
liên quan giữa trầm cảm với nghiện internet,
trong đó nhóm học sinh có nghiện internet thì
gia tăng 2,26 lần (KTC 95% 1,55 – 3,23) tỉ lệ
trầm cảm. Nghiên cứu tại Trung Quốc và Thổ
Nhĩ Kỳ cũng đã tìm thấy mối liên quan giữa
trầm cảm và nghiện internet. Mặc dù bối cảnh
nghiên cứu, công cụ và các yếu tố kiểm soát là
khác nhau giữa ba nghiên cứu nhưng các
nghiên cứu đã cho kết quả đồng nhất. Tuy
vậy, nghiên cứu của Vi Duy Anh trên học sinh
trung học phổ thông đã không tìm ra mối liên
hệ mặc dù có cỡ mẫu lớn, đã kiểm soát nhiều
yếu tố học tập, hoàn cảnh gia đình, mối quan
hệ gia đình.
Mặc dù đã kiểm soát một số yếu tố dẫn
đến sai lệch thông qua việc sử dụng công cụ
có độ tin cậy và giá trị, tập huấn kỹ càng cho
nghiên cứu viên, sự hợp tác tố của nhà trường,
tuân thủ phương pháp chọn mẫu, kiểm soát
nhiễu nhưng nghiên cứu vẫn có một số hạn
chế. Việc sử dụng bộ câu hỏi tự điền có thể
dẫn đến khả năng sai lệch thông tin thông qua
tự báo cáo và hồi tưởng. Nguồn lực hạn chế
khiến nghiên cứu chỉ được thực hiện tại một
trường chính vì thế kết quả nghiên cứu chưa
thể đại diện cho học sinh cùng lứa tuổi tại Biên
Hòa. Cần tiếp tục thực hiện nghiên cứu tương
tự trên địa bàn toàn thành phố Biên Hòa hoặc
tiến hành ở các trường tại nông thôn để đối
chiếu thực trạng nghiện internet và trầm cảm.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ nghiện internet và trầm cảm lần lượt
là 51,1% và 29,2%. Nhà trường và gia đình cần
có những biện pháp để quản lý việc sử dụng
internet của học sinh, khuyến khích học sinh
tham gia các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt,
thể dục thể thao. Bên cạnh đó thực hiện các
hoạt động giúp hỗ trợ tâm lý cho học sinh như
tư vấn tâm lý, tích cực trao đổi, trò chuyện để
giúp học sinh giải quyết các vấn đề gặp phải.
Kết quả nghiên cứu gợi ý việc kiểm soát việc
sử dụng internet có thể giúp giảm trầm cảm ở
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 347
học sinh trung học cơ sở. Bên cạnh đó sự quan
tâm và bảo vệ của người mẹ cũng có vai trò
quan trọng với tình trạng trầm cảm. Người mẹ
cần dành nhiều sự quan tâm cho con hơn nữa
để giúp nâng cao sức khỏe tâm thần của con.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Atia A (2016), "Internet dependency and its association
with depression among students of Bangladesh". EC
psychology and psychiatry, 1 (2): 44-48.
2. Chen JQ, Dunne MP, Han P (2004), "Child sexual abuse in
China: a study of adolescents in four provinces". Child
Abuse & Neglect, 28 (11): 1171-1186.
3. Cheng C, Li AY (2014), "Internet addiction prevalence and
quality of (real) life: a meta-analysis of 31 nations across
seven world regions". Cyberpsychol Behav Soc Netw, 17 (12):
755-760.
4. Đặng Hoàng Minh, Nguyễn Thị Phương (2013), "Tương
quan giữa mức độ sử dụng Internet và các vấn đề sức
khỏe tâm thần của học sinh trung học cơ sở". Tạp chí Khoa
học Đại học Quốc gia Hà Nội, 29 (2): 34-42.
5. Đỗ Thị Thu Thảo (2016), Tỷ lệ nghiện internet và mối liên
quan với trầm cảm ở sinh viên khoa Y tế công cộng ĐH Y
dược TPHCM năm 2016, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Y
tế công cộng, ĐH Y dược TPHCM, tr.12-65
6. Faraci P, Craparo G, Messina R, Severino S (2013),
"Internet Addiction Test (IAT): Which is the Best Factorial
Solution?". J Med Internet Res, 15 (10): 225-236.
7. Fatehi F, Monajemi A, Sadeghi A, Mojtahedzadeh R,
Mirzazadeh A (2016), "Quality of Life in Medical Students
With Internet Addiction". Acta Med Iran, 54 (10): 662-666.
8. Internet world stats news (2017), Number of internet users
in Vietnam from 2015 to 2021 (in millions),
https://www.statista.com/statistics/369732/internet-users-
vietnam/, accessed on 29th june 2017.
9. Lee K, Gyeong HF, Yu BF, Song YF, Kim D (2013),
"Reliability and validity of the Korean version of the
internet addiction test among college students". J Korean
Med Sci, 28 (5): 763-768.
10. Lê Minh Công (2013), Tình trạng nghiện internet ở học
sinh trung học cơ sở tại thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng
Nai, Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ 3 về Tâm lý Đại học
Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh, tr.33-35. NXB Đại học Sư
phạm Tp.Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
11. Mustafa KOÇ (2011), "Internet addiction and
psychopatology". The Turkish Online Journal of Educational
Technology, 10 (1): 143-137.
12. Nguyen DT, et al. (2013), "Depression, anxiety, and
suicidal ideation among Vietnamese secondary school
students and proposed solutions: a cross-sectional study".
BMC Public Health, 13 (1195): 1-10.
13. Nguyễn Thanh Hương, Lê Vũ Anh, Michael Dunne
(2007), "Giá trị và độ tin cậy của hai thang đo trầm cảm và
lo âu sử dụng trong nghiên cứu cộng đồng với đối tượng
vị thành niên". Tạp Chí Y tế công cộng, 7 (7): 25-31.
14. Nguyễn Thanh Hương, Trương Quang Tiến, Hoàng
Khánh Chi, Nguyễn Hoàng Phượng, Trần Bích Phượng,
Miccheal Dunne (2009), "Một số yếu tố nguy cơ và bảo vệ
đối với vấn đề trầm cảm và lo âu của học sinh 2 trướng
THCS thành phố Hà Nội". Tạp chí Y tế công cộng, 13(13):9-
16.
15. Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Hữu Hiếu, Trần Thị Thanh
Hương (2014), "Thực trạng hành vi sức khỏe và nguy cơ
trầm cảm của sinh viên năm thứ hai đại học thương mại".
Tạp chí Y học thực hành, số 4/2014 (914): 101-105.
16. Tan Y, Chen Y, Lu Y, Li L (2016), "Exploring Associations
between Problematic Internet Use, Depressive Symptoms
and Sleep Disturbance among Southern Chinese
Adolescents". Int J Environ Res Public Health, 13(3): 313-
325.
17. Tran XB, et al. (2017), "A study on the influence of internet
addiction and online interpersonal influences on health-
related quality of life in young Vietnamese". BMC Public
Health, 17: 138-136.
18. Vi Duy Anh (2011), Tỷ lệ nghiện internet trong học sinh
THPT Thanh Đa, quận Bình Thạnh TPHCM năm 2011 và
các yếu tố liên quan, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Y tế
công cộng, Đại học Y dược TPHCM, tr. 34-41.
Ngày nhận bài báo: 02/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_lien_quan_giua_nghien_internet_va_tram_cam_o_hoc_sinh_tr.pdf