Tài liệu Mối liên quan giữa hoạt động thể lực với đái tháo đường thai kỳ ở phụ nữ mang thai: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 246
MỐI LIÊN QUAN GIỮA HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC
VỚI ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ Ở PHỤ NỮ MANG THAI
Hoàng Thị Phương*, Đỗ Văn Dũng*, Lê Thị Thanh Hiền*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang**
TÓM TẮT
Mở đầu: Đái tháo đường thai kỳ là một trong những bệnh lý thường gặp nhất trong thai kỳ. Hoạt
động thể lực có mối liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc đái tháo đường ở bà mẹ và đứa trẻ trong tương
lai. Một nghiên cứu phân tích gần đây cho thấy cần có thêm nhiều nghiên cứu để điều tra về loại, thời gian
và cường độ hoạt động thể chất nào có thể giảm nguy cơ mắc đái tháo đường thai kỳ. Tại Việt Nam, có
nhiều nghiên cứu về tỷ lệ và yếu tố nguy cơ của đái tháo đường thai kỳ, nhưng chưa tìm thấy nghiên cứu
nào về mối liên quan với hoạt động thể lực trong thai kỳ.
Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa hoạt động thể lực với đái tháo đường thai kỳ ở phụ nữ mang
thai.
Đối tượng – Phương ...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 258 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối liên quan giữa hoạt động thể lực với đái tháo đường thai kỳ ở phụ nữ mang thai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 246
MỐI LIÊN QUAN GIỮA HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC
VỚI ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ Ở PHỤ NỮ MANG THAI
Hoàng Thị Phương*, Đỗ Văn Dũng*, Lê Thị Thanh Hiền*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang**
TÓM TẮT
Mở đầu: Đái tháo đường thai kỳ là một trong những bệnh lý thường gặp nhất trong thai kỳ. Hoạt
động thể lực có mối liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc đái tháo đường ở bà mẹ và đứa trẻ trong tương
lai. Một nghiên cứu phân tích gần đây cho thấy cần có thêm nhiều nghiên cứu để điều tra về loại, thời gian
và cường độ hoạt động thể chất nào có thể giảm nguy cơ mắc đái tháo đường thai kỳ. Tại Việt Nam, có
nhiều nghiên cứu về tỷ lệ và yếu tố nguy cơ của đái tháo đường thai kỳ, nhưng chưa tìm thấy nghiên cứu
nào về mối liên quan với hoạt động thể lực trong thai kỳ.
Mục tiêu: Xác định mối liên quan giữa hoạt động thể lực với đái tháo đường thai kỳ ở phụ nữ mang
thai.
Đối tượng – Phương pháp: Nghiên cứu bệnh chứng được tiến hành trên 370 phụ nữ mang thai độ
tuổi từ 18 – 49 trong tuần thai từ 24 – 28 tuần, trong đó 186 phụ nữ mang thai được chẩn đoán đái tháo
đường thai kỳ thuộc nhóm bệnh, 184 phụ nữ mang thai không bị đái tháo đường thai kỳ và không bị đái
tháo đường trước đó được đưa vào nhóm chứng, với tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ ADA-
2015. Phụ nữ mang thai được phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi hoạt động thể lực thai kỳ (PPAQ), các
biến số về dân số xã hội và chỉ số nhân trắc của họ đồng thời cũng đã được ghi nhận. Phương trình hồi quy
đa biến được sử dụng để xác định các yếu tố có liên quan đến đái tháo đường thai kỳ.
Kết quả: Những phụ nữ mang thai có tổng cường độ hoạt động thể lực cao giảm được 36% khả năng
phát triển đái tháo đường thai kỳ so với những phụ nữ mang thai có tổng cường độ hoạt động thể lực thấp
với OR hiệu chỉnh=0,64 (KTC 95% hiệu chỉnh: 0,43 – 0,97). Nghiên cứu còn tìm ra được mối liên quan
giữa phụ nữ mang thai có hoạt động ngồi ở mức cao giảm được 42% khả năng phát triển đái tháo đường
thai kỳ so với phụ nữ mang thai có hoạt động ngồi ở mức thấp (OR=0,58, KTC95%: 0,38 – 0,87).
Kết luận: Nghiên cứu tìm ra mối liên quan giữa tổng cường độ hoạt động thể lực với giảm nguy cơ đái
tháo đường thai kỳ. Do đó, phụ nữ mang thai được khuyến khích thực hiện các hoạt động thể chất hàng
ngày một cách thường xuyên nếu không có chống chỉ định cụ thể với các hoạt động thể chất.
Từ khóa: Đái tháo đường thai kỳ, hoạt động thể lực, PPAQ, các yếu tố nguy cơ.
ABSTRACT
THE ASSOCIATION BETWEEN PHYSICAL ACTYVITY DURING PREGNANCY AND GESTATIONAL
DIABETES MELLITUS
Hoang Thi Phuong, Do Van Dung, Le Thi Thanh Hien, Huynh Nguyen Khanh Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 246 - 252
Background: Gestational diabetes mellitus is one of the most common complications of pregnancy.
Physical activity is associated with a lower risk of type 2 diabetes mellitus in pregnants’s and babies’ future.
A recent meta-analysis study suggested that more research is needed to investigate the type, duration and
intensity of physical activities that can help to reduce the risk of gestational diabetes mellitus. In Viet Nam,
* Đại học Y Dược TPHCM, ** Bệnh viện Hùng Vương
Tác giả liên lạc: ThS. Hoàng Thị Phương ĐT: 0908761055 Email: hoangthiphuong@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 247
there are several researches about gestational diabetes mellitus. However, the research was published in
association with physical activities during pregnancies which haven’t been found.
Objectives: The aim of the proposed research to determine whether there is an association between
physical activities and gestational diabetes mellitus of pregnant females.
Participant and Method: In the current case-control study, 370 pregnant females were chosen with
the age range was 18 – 49 years and the gestational of 24 – 28 weeks. 186 pregnant females with gestational
diabetes mellitus as the case group and 184 pregnant females as the non-diabetic control group were
recruited. To diagnose gestational diabetes mellitus using the criteria of ADA - 2015 with two-hours 75g
oral glucose tolerance test. The details of physical activity were collected by a modified version of the
physical activity questionnaire. Data were analyzed by Stata software version 13. Anthropometric and
relevant data were recorded for all of the participants. Risk estimates were obtained by logistic regression
and adjusted for confounders.
Results: Females who had high total physical activities according to the pregnancy physical activity
questionnaire reduce 36% risk of developing gestational diabetes mellitus compared to the ones. Who
reported lower level of physical activities (modified OR = 0.64, modified 95% CI: 0.43 – 0.97). Females who
had high sedentary activity questionnaire reduce 42% risk of developing gestational diabetes mellitus
compared to the ones who reported lower level of sedentary activity (OR = 0.58, 95% CI: 0.38 – 0.87).
Conclusion: The amount and intensity of physical activity during pregnancy is associated with a
lower risk of developing gestational diabetes mellitus. As a result, the pregnant females have to be
encouraged to do regular daily physical activities during pregnancy, if there is no specific contraindication
to it.
Keywords: Gestational diabetes mellitus, physical activity, pregnancy physical activity questionnaires,
Risk factors.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường thai kỳ là tình trạng không
dung nạp đường xuất hiện hoặc phát hiện lần
đầu tiên trong thai kỳ, đây là một trong những
biến chứng thường gặp nhất trong thai kỳ(14).
Tỷ lệ đái tháo đường tại các quốc gia có sự
khác nhau, dao động từ 1% đến 20%(6,8). Tại
Việt Nam, tỷ lệ này cũng có sự dao từ 3,9%
đến 20% tùy theo tiêu chí chẩn đoán(8,11). Có
nhiều kết cục bất lợi đối với cả người mẹ lẫn
thai nhi, phụ nữ bị đái tháo đường thai kỳ có
nguy cơ cao phát triển thành đái tháo đường
típ 2 trong tương lai, nguy cơ tiền sản giật cao
gấp 3 lần(1). Đối với thai nhi, có những kết cục
bất lợi như con to, hạ calci máu, vàng da, chấn
thương khi sinh, có khả năng béo phì, suy
giảm dung nạp glucose hoặc phát triển thành
đái tháo đường tuổi thiếu niên(4). Nhiều
nghiên cứu đã tìm ra các yếu tố nguy cơ của
đái tháo đường thai kỳ, như: dân tộc, béo phì,
tuổi của mẹ, tiền sử gia đình bị đái tháo đường
típ 2, tiền sử bị đái tháo đường thai kỳ, tiền sử
sinh con to (>4000 gram), tiền sử thai chết lưu
hay dị tật, tăng huyết áp trước 20 tuần thai,
hội chứng buồng trứng đa nang(3,13). Bên cạnh
đó, hoạt động thể lực trước và trong thời kỳ
mang thai được biết đến như một yếu tố làm
giảm nguy cơ phát triển đái tháo đường thai
kỳ(5). Tuy nhiên, chưa tìm thấy nghiên cứu nào
về mối liên quan giữa hoạt động thể lực với
đái tháo đường thai kỳ được thực hiện tại Việt
Nam.
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm hiểu
rõ mối liên quan giữa hoạt động thể lực đối
với sự phát triển đái tháo đường thai kỳ ở phụ
nữ mang thai đến khám tại bệnh viện Hùng
Vương, thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua
đó có thể đưa ra được khuyến nghị phù hợp
về mức độ hoạt động thể lực hợp lý cho phụ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 248
nữ mang thai, góp phần giảm nguy cơ đái
tháo đường thai kỳ và biến cố bất lợi do đái
tháo đường gây nên.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu bệnh – chứng được tiến hành
tại bệnh viện Hùng Vương, thành phố Hồ Chí
Minh từ tháng 9/2016 đến 3/2017.
Nghiên cứu sử dụng công thức so sánh hai
tỉ lệ dành cho thiết kế nghiên cứu bệnh chứng,
với xác suất sai lầm loại 1 là 5%, năng lực mẫu
là 80%, tỉ lệ phụ nữ mang thai tại TP. Hồ Chí
Minh có mức hoạt động thể lực đủ theo tiêu
chuẩn của WHO trong nghiên cứu của Cao
Hoàng Phương Trang năm 2015 là 37,1%(2).
Tính ra cỡ mẫu cần thiết là 348 trường hợp cho
cả hai nhóm. Tuy nhiên, nghiên cứu đã thu
thập được 370 trường hợp thỏa tiêu chí chọn
mẫu, vượt cỡ mẫu ban đầu là 22 trường hợp.
Tiêu chuẩn chọn mẫu: Phụ nữ mang thai
từ 24 đến 28 tuần đến khám thai tại bệnh viện,
tuổi từ 18 – 49, mang thai đơn, nhớ rõ ngày
kinh cuối hoặc có siêu âm trong 3 tháng đầu
thai kỳ. Loại trừ các trường hợp có tiền sử: đái
tháo đường thai kỳ, đái tháo đường các loại,
sinh con to trên 4 kg, sinh con bị dị tật bẩm
sinh, thai chết lưu, sẩy thai liên tiếp ≥ 3 lần;
Hút thuốc lá trước và trong khi mang thai.
Kết quả chọn mẫu: 186 phụ nữ mang thai
được chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ vào
tuần thai từ 24 đến 28 tuần được đưa vào
nhóm bệnh và 184 phụ nữ mang thai được
chẩn đoán âm tính được đưa vào nhóm
chứng.
Các thông tin sức khỏe trong nghiên cứu
được thu thập dựa trên kết quả khám thai của
bệnh viện, trích trong sổ khám thai, kết quả
siêu âm, kết quả xét nghiệm của phụ nữ mang
thai, bao gồm cả kết quả xét nghiệm đái tháo
đường thai kỳ. Tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo
đường thai kỳ bằng thử nghiệm dung nạp
glucose với 75 gram glucose, 2 lần uống
(ADA-2015). Thời điểm xét nghiệm glucose
diễn ra 3 lần: lúc đói, 1 giờ và 2 giờ sau khi
uống 75gram glucose. Thử nghiệm dương tính
khi nồng độ glucose trong huyết thanh của 3
lần lấy máu có ≤1 giá trị cao hơn các giá trị lần
lượt là 92mg/dl hoặc 5,1mmol/l, 180mg/dl hoặc
10,0mmol/l, 153mg/dl hoặc 8,5mmol/l.
Hoạt động thể lực của phụ nữ mang thai
được đo lường bằng bộ câu hỏi PPAQ đã được
dịch và chuẩn hóa từ tiếng Anh sang tiếng
Việt để đánh giá cường độ hoạt động thể lực
của phụ nữ mang thai trong thai kỳ. Bộ câu
hỏi có 4 phần và 33 câu, trong đó: hoạt động
việc nhà/ giải trí (16 câu), hoạt động đi lại (3
câu), hoạt động thể dục thể thao (9 câu) và
hoạt động công việc (5 câu)(12).
Dữ liệu được nhập liệu và phân tích bằng
phần mềm Epidata 3.1 và Stata 13. Tần số, tỷ
lệ, trung bình và độ lệch chuẩn, trung vị và
khoảng tứ phân vị sẽ được thể hiện lần lượt
cho các biến số dân số - xã hội, biến số định
lượng có phân phối bình thường (tăng cân
trong giai đoạn đầu thai kỳ), biến số định
lượng có phân phối lệch (tuổi mẹ, các biến số
hoạt động thể lực). Dùng phép kiểm Chi bình
phương hoặc Fisher đối với phân tích đơn
biến. Dùng phương trình hồi quy đa biến để
xác định các yếu tố có liên quan đến đái tháo
đường thai kỳ và kiểm soát các yếu tố gây
nhiễu, xác định tỉ số số chênh hiệu chỉnh (OR
hiệu chỉnh) và khoảng tin cậy 95% của OR
hiệu chỉnh.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm dân số - xã hội của đối tượng nghiên
cứu (n=370)
Đặc tính Chung
(n=370)
Bệnh
(n=186)
Chứng
(n=184)
Giá trị
p**
n (%) n (%) n (%)
Tuổi mẹ
(năm)*
2 (25; 32) 29 (26;33) 27
(24,0;29,5)
< 0,01
Nhóm tuổi
< 25 tuổi 90 (24,3) 31 (16,7) 59 (32,1) 0,01
≥ 25 tuổi 280(75,7) 155(83,3) 125 (67,9)
Tình trạng hôn nhân
Chưa kết
hôn
1 (0,3) 0 (0,0) 1 (0,5) 0,49‡
Kết hôn 369 (99,7) 186 (100) 183 (99,5)
Góa/ly
thân/ly dị
0 (0,0) 0 (0,0) 0 (0,0)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 249
Đặc tính Chung
(n=370)
Bệnh
(n=186)
Chứng
(n=184)
Giá trị
p**
n (%) n (%) n (%)
Số con hiện có
Chưa có
con
225 (60,8) 103 (55,4) 122 (66,3) 0,03
≥ 1 con 145 (39,2) 83 (44,6) 62 (33,7)
Nghề nghiệp
Công nhân 143 (38,6) 79 (42,5) 64 (34,8) 1
Cán bộ viên
chức
119 (32,2) 54 (29,0) 65 (35,3) 0,11
Nội trợ 34 (9,2) 16 (8,6) 18 (9,8) 0,39
Khác 74 (20) 37 (19,9) 37 (20,1) 0,46
Trình độ học vấn
Chưa hết
cấp 1
13 (3,5) 8 (4,3) 5 (2,7) 1
Chưa hết
cấp 2
55 (14,8) 30 (16,1) 25 (13,6) 0,65
Chưa hết
cấp 3
95 (25,7) 55 (29,6) 40 (21,7) 0,80
Có bằng TN
cấp 3
68 (18,4) 32 (17,2) 36 (19,6) 0,34
Từ trung
cấp trở lên
139 (37,6) 61 (32,8) 78 (42,4) 0,23
Thu nhập gia đình/tháng
≤ 4 triệu 9 (2,4) 5 (2,7) 4 (2,2)
4 – dưới 10
triệu
127 (34,3) 62 (33,3) 65 (35,3)
10 – dưới
20 triệu
190 (51,4) 96 (51,6) 94 (51,1) 0,87
20 – dưới
30 triệu
31 (8,4) 17 (9,1) 14 (7,6)
≥ 30 triệu 13 (3,5) 6 (3,2) 7 (3,8)
Tỉnh/TP
TPHCM 243 (65,7) 119 (64,0) 124 (67,4)
Tỉnh khác 127 (34,3) 67 (36,0) 60 (32,6) 0,49
Khu vực sống
Nông thôn 130 (64,9) 67 (36,0) 63 (34,2)
Thành thị 240 (64,9) 119 (64,0) 121 (65,8) 0,72
* Trung vị (khoảng tứ phân vị)
** Hồi qui Logistic
‡ Phép kiểm Fisher
Kết quả nghiên cứu cho thấy trung vị của
phụ nữ mang thai trong nhóm bệnh lớn nhóm
chứng, lần lượt là 29 (năm) và 27 (năm) (bảng
1). Tỷ lệ phụ nữ mang thai từ 25 tuổi trở lên
thực hiện nghiệm pháp dung nạp glucose
trong nhóm bệnh và nhóm chứng tương ứng
là 83,3% và 67,9% (bảng 1). Số con của phụ nữ
mang thai trong nhóm chứng thấp hơn nhóm
bệnh (bảng 1). Tất cả các sự khác biệt này đều
thể hiện mối liên quan với đái tháo đường thai
kỳ và đều có ý nghĩa thống kê (giá trị p<0,05).
Bảng 2: Mối liên quan giữa hoạt động thể lực với đái
tháo đường thai kỳ theo mức độ hoạt động (n=370)
Đặc điểm
Bệnh
(n=186)
n (%)
Chứng
(n=184)
n (%)
OR
(KTC 95%)
Giá trị
p*
Hoạt động ngồi
Thấp 105 (56,5) 79 (42,9)
Cao 81 (43,5) 105 (57,1) 0,58
(0,38-0,87)
0,01
Hoạt động cường độ nhẹ
Thấp 52 (28,0) 40 (21,7)
Cao 134 (72,0) 144 (78,3) 0,71
(0,44–1,15)
0,17
Hoạt động cường độ TB
Thấp 87 (46,8) 73 (39,7)
Cao 99 (53,2) 111 (60,3) 1,04
(0,98–1,09)
0,17
Hoạt động cường độ mạnh
Thấp 173 (93,0) 170 (92,4)
Cao 13 (7,0) 14 (7,6) 0,91
(0,42–1,99)
0,82
Tổng cường độ HĐTL
Thấp 103 (55,4) 82 (44,6)
Cao 83 (44,6) 102 (55,4) 0,64
(0,43–0,97)
0,04
* Hồi qui logistic
Nghiên cứu tìm thấy được mối liên quan
có ý nghĩa thống kê giữa mức độ của hoạt
động ngồi và tổng cường độ hoạt động thể lực
với đái tháo đường thai kỳ (giá trị p<0,05). Phụ
nữ mang thai có hoạt động ngồi ở với cường
độ cao giảm 42% khả năng phát triển ĐTĐTK
(OR=0,58, KTC95%: 0,38 – 0,87). Phụ nữ mang
thai bình thường có tổng cường độ HĐTL lớn
hơn hoặc bằng 130,43 Met-giờ/tuần giảm 36%
khả năng phát triển ĐTĐTK (OR=0,64,
KTC95%: 0,43 – 0,97).
Bảng 3: Mối liên quan giữa hoạt động thể lực với đái
tháo đường thai kỳ theo loại hoạt động (n=370)
Đặc điểm
Bệnh
(n=186)
n (%)
Chứng
(n=184)
n (%)
OR
(KTC 95%)
Giá trị
p*
Hoạt động việc nhà
Thấp 92 (49,5) 92 (50,0)
1,02
(0,68-1,54)
0,92
Cao 94 (50,5) 92 (50,0)
Hoạt động đi lại
Thấp 99 (53,2) 84 (45,7)
0,74
(0,49–1,11)
0,15
Cao 87 (46,8) 100 (54,3)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 250
Đặc điểm
Bệnh
(n=186)
n (%)
Chứng
(n=184)
n (%)
OR
(KTC 95%)
Giá trị
p*
Hoạt động công việc
Thấp 128 (68,8) 115 (62,5)
0,76
(0,49–1,16)
0,20
Cao 58 (31,2) 69 (37,5)
Hoạt động thể thao
Thấp 91 (48,9) 93 (50,5)
1,06
(0,71–1,60)
0,75
Cao 95 (51,1) 91 (49,5)
* Hồi qui logistic
Có sự chênh lệch không đáng kể về mức
độ hoạt động thể lực cho các hoạt động việc
nhà, đi lại, công việc, tập thể thao giữa phụ nữ
mang thai trong nhóm bệnh và nhóm chứng.
Không xác định được sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về tỷ lệ tham gia hoạt động thể lực ở
các nhóm hoạt động trên giữa phụ nữ mang
thai trong nhóm bệnh và nhóm chứng (giá trị
p>0,05).
Bảng 4: Các yếu tố liên quan đến đái tháo đường
thai kỳ bằng mô hình hồi qui đa biến (n=370)
Đặc tính OR thô
OR hiệu
chỉnh
(OR*)
KTC 95%
của hiệu
chỉnh
(KTC95%*)
Giá trị
p hiệu
chỉnh
Tổng cường độ
HĐTL
0,58 0,63 0,41 – 0,97 0,04
Tuổi mẹ (năm) 1,11 1,09 1,04 – 1,16 < 0,01
Số con 1,58 1,08 0,66 – 1,75 0,75
Tiền sử gia đình
ĐTĐ típ 2
2,02 1,74 0,82 – 3,73 0,15
BMI trước khi mang thai
Thiếu cân 0,63 0,69 0,39 – 1,24 0,22
Bình thường 1 1
Thừa cân/Béo phì 2,05 1,69 0,92 – 3,12 0,09
Sau khi kiểm soát tác động của các yếu tố
trong phương trình hồi qui đa biến, nghiên
cứu tìm ra được mối liên quan như sau: Phụ
nữ mang thai có tổng cường độ hoạt động thể
lực cao giảm được 37% khả năng phát triển
đái tháo đường thai kỳ so với những phụ nữ
mang thai có tổng cường độ hoạt động thể lực
ở thấp với OR* = 0,63 (KTC 95%*: 0,41 – 0,97).
Tuổi mẹ tăng lên một tuổi tăng 9% nguy cơ
mắc đái tháo đường thai kỳ ở phụ nữ mang
thai. Mối lên quan này có ý nghĩa thống kê với
giá trị p hiệu chỉnh < 0,05, với OR* = 1,09 (KTC
95%*: 1,04 – 1,16).
BÀN LUẬN
Tuổi trung vị chung của đối tượng nghiên
cứu là 28 tuổi (bảng 1), tương đồng với độ tuổi
mang thai trung bình của phụ nữ trong mẫu
nghiên cứu của tác giả như Jane Hirst(8), Lê Thị
Thanh Tâm(9). Điều này hợp lý với xu hướng
phát triển của thành phố trong thời kỳ công
nghiệp hóa và hội nhập quốc tế, phụ nữ có
nhiều cơ hội học tập, làm việc nên kết hôn
muộn hơn, sinh con muộn hơn. Phụ nữ mang
thai trong nghiên cứu thuộc nhóm tuổi ≥ 25
chiếm tỷ lệ cao (75,7%) (bảng 2), nghiên cứu
tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê
giữa nhóm tuổi với đái tháo đường thai kỳ
(giá trị p<0,05). Nhận định này phù hợp với
kết quả của các nghiên cứu khác được thực
hiện trong và ngoài nước.
Khi phân tích đơn biến, kết quả nghiên
cứu cho thấy phụ nữ mang thai có tổng cường
độ hoạt động thể lực cao trong suốt giai đoạn
sớm của thai kỳ giảm 36% khả năng mắc đái
tháo đường thai kỳ so với những phụ nữ
mang thai có tổng cường độ hoạt động thể lực
thấp (bảng 2). Sau khi phân tích đa biến kiểm
soát tác động của các yếu tố độc lập khác như
chỉ số khối cơ thể (BMI) trước mang thai, tuổi
phụ nữ mang thai, số con hiện có, tiền sử gia
đình đái tháo đường típ 2, mối liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa mức độ hoạt động thể lực
với đái tháo đường thai kỳ vẫn được xác định.
Những phụ nữ mang thai có tổng đương
lượng tiêu hao cho toàn bộ hoạt động thể lực ở
mức cao giảm được 36% khả năng phát triển
đái tháo đường thai kỳ so với những phụ nữ
mang thai có tổng đương lượng tiêu hao thấp
với OR* = 0,63 (KTC 95%*: 0,41 – 0,97) (bảng 4).
Kết quả này khác với kết quả nghiên cứu của
Fatemeh Nasiri-Amiri và cộng sự thực hiện tại
Iran năm 2015(10). Đối với hoạt động ngồi, xét
trên toàn bộ mẫu nghiên cứu thì phụ nữ mang
thai có cường độ hoạt động thể lực thấp và cao
chiếm tỷ lệ tương đương nhau (bảng 2).
Nhưng khi so sánh về mức hoạt động thể lực
ở nhóm bệnh so với nhóm chứng, thì với mức
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 251
hoạt động thể lực cao, phụ nữ mang thai trong
nhóm chứng chiếm tỷ lệ cao hơn phụ nữ mang
thai trong nhóm bệnh. Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (giá trị p < 0,05) (bảng 2). Điều
này xảy ra có lẽ là do trong thành phần hoạt
động được xếp vào hoạt động ngồi có hoạt
động lái xe máy. Ở điều kiện của Việt Nam
(đường hẹp, phương tiện giao thông đông
đúc, hay kẹt xe,), lẽ ra hoạt động tự lái xe
máy được xếp vào loại hoạt động có cường độ
trung bình hoặc cao. Nghiên cứu không xác
định được mối liên quan có ý nghĩa thống kê
giữa loại hoạt động thể lực (việc nhà/giải trí,
công việc, đi lại, thể thao) với đái tháo đường
thai kỳ. Kết quả này khác với kết quả nghiên
cứu của Fatemeh Nasiri-Amiri và cộng sự thực
hiện tại Iran năm 2015: những phụ nữ mang
thai có cường độ hoạt động thể lực thấp có
nguy cơ phát triển thành đái tháo đường thai
kỳ hơn so với phụ nữ mang thai trong có
cường độ hoạt động thể lực cao trong hoạt
động này (OR = 3,85; KTC 95%: 1,41 – 10,49)(10).
Có thể giải thích sự khác biệt này vì trong hoạt
động đi lại có hoạt động đi bộ nhanh đến trạm
xe buýt/nơi làm việc đây là một hoạt động với
cường độ mạnh, rất ít phụ nữ mang thai trong
nghiên cứu này có hoạt động này. Bên cạnh đó
cũng có những nghiên cứu không tìm thấy sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa phụ nữ có
tham gia hoạt động thể lực với phụ nữ không
hoạt động thể lực trong thai kỳ đối với sự phát
triển của đái tháo đường thai kỳ như nghiên
cứu của Dempsey(8) và Han(7).
Nghiên cứu này có một số điểm mạnh và
hạn chế. Nghiên cứu sử dụng bảng câu hỏi
vận động thể lực dành cho phụ nữ mang thai
đã được chuẩn hóa cả tiếng Anh lẫn tiếng
Việt, có khử yếu tố gây nhiễu, phát hiện được
những trường hợp đái tháo đường sớm do
sàng lọc, số liệu đại diện cho dân số khám
thai. Bên cạnh đó, bộ câu hỏi chuẩn hóa tại
Việt Nam chỉ mới đo lường độ tin cậy chưa đo
lường được đương lượng chuyển hóa và mức
độ ngồi hoạt động thể lực không đo lường
được.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa tổng cường độ hoạt động
thể lực và hoạt động ngồi với đái tháo đường
thai kỳ, trong đó những phụ nữ mang thai có
tổng cường độ hoạt động thể lực cao giảm
được 36% khả năng phát triển đái tháo đường
thai kỳ so với phụ nữ có tổng cường độ hoạt
động thể lực thấp. Phụ nữ mang thai có hoạt
động ngồi ở mức cao giảm được 42% khả năng
phát triển đái tháo đường thai kỳ so với phụ nữ
mang thai có cường độ hoạt động ở mức thấp.
Trong tương lai, cần thực hiện nghiên cứu sâu
hơn (nghiên cứu can thiệp) để phát hiện mức
độ hoạt động thể lực của từng loại hoạt động
thể lực phù hợp với phụ nữ mang thai Việt
Nam trước và trong khi mang thai nhằm làm
giảm nguy cơ phát triển đái tháo đường thai kỳ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Beucher V, Viaris de Lesegno B, Dreyfus M (2010),
"Maternal outcome of gestational diabetes mellitus." J
Gynecol Obstet Biol Reprod (Paris). 39 (8 supplement 2):
S171 – S188.
2. Cao Hoàng Hương Trang (2015), Tỉ lệ hoạt động thể lực của
thai phụ đến khám thai tại Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe sinh
sản TP.HCM năm 2015. Luận văn tốt nghiệp cử nhân Y tế
công cộng, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh, tr. 26 – 27.
3. Cypryk K, Szymczak W, Czupryniak L, Sobczak M,
Lewinski A (2008), “Gestational diabetes mellitus - an
analysis of risk factors”. Endokrynol Pol; 59 (5): 393 – 397.
4. Deierlein AL, Siega-Riz AM, Evenson KR (2012),
“Physical activity during pregnancy and risk of
hyperglycemia”, J Womens Health (Larchmt), 21 (7): 769 –
775.
5. Dempsey JC, Butler CL, Sorensen TK, Lee IM, Thompson
ML, Miller RS, et al (2004), “A case-control study of
maternal recreational physical activity and risk of
gestational diabetes mellitus”. Diabetes Res Clin Pract.;
66(2): 203 – 215. DOI:10.1016/j.diabres.2004.03.010
6. Erem C, Cihanyurdu N, Deger O, Karahan C, Can G,
Telatar M. (2003), "Screening for gestational diabetes
mellitus in northeastern Turkey (Trabzon City)." Eur J
Epidemiol; 18 (1): 39 – 43.
7. Han S, Middleton P, Crowther CA (2012), “Exercise for
pregnant women for preventing gestational diabetes
mellitus”, Cochrane Database Syst Rev; (7): CD009021.
8. Hirst JE, Tran TS, Do MAT, Morris JM, Jeffery HE (2012),
“Consequences of gestational diabetes in an urban
hospital in Vietnam: a prospective cohort study.” PLoS
Med.; 9 (7): e1001272.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 252
9. Lê Thị Thanh Tâm (2017), Nghiên cứu phân bố - một số yếu
tố liên quan và kết quả sản khoa ở thai phụ đái tháo đường thai
kỳ. Luận án tiến sĩ trường Đại học Y Hà Nội, tr. 45 - 130
10. Nasiri-Amiri F, Bakhtiari A, Faramarzi M, et al (2016),
“The Association Between Physical Activity During
Pregnancy and Gestational Diabetes Mellitus: A Case-
Control Study”. Int J Endocrinol Metab; In Press (In Press):
e37123, pp. 1 – 8.
11. Ngô Thị Kim Phụng (2004), Tầm soát đái tháo đường thai kỳ
tại quận 4 TP. Hồ Chí Minh. Luận án tiến sĩ y học, Đại học
Y Dược TP. Hồ Chí Minh, tr. 101-102.
12. Ota E, Haruna M, Yanai H, Suzuki M, DD Anh, et al
(2008), "Reliability and validity of the Vietnamese version
of the Pregnancy Physical Activity Questionnaire
(PPAQ)". Southeast Asian J Trop Med Public Health; 39 (3):
562 – 570.
13. Villamor E, Cnattingius S (2006), “Interpregnancy weight
change and risk of adverse pregnancy outcomes: a
population-based study”. Lancet; 368(9542): 1164 – 1170.
14. World Health Organization (1999), “Definition, Diagnosis
and Classification of Diabetes Mellitus and its
Complications”. Part 1: Diagnosis and Classification of
Diabetes Mellitus. WHO/NCD/NCS/99.2 ed. Geneva:
World Health Organization, pp. 19 – 20.
Ngày nhận bài báo: 02/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_lien_quan_giua_hoat_dong_the_luc_voi_dai_thao_duong_thai.pdf