Tài liệu Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: 36
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Lê Trương Hải Hiếu*
TÓM TẮT
Trong thời gian qua, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam diễn ra chủ yếu theo chiều rộng, tuy
đã đạt được những kết quả nhất định nhưng ngày càng bộc lộ những hạn chế không đảm bảo tăng trưởng
kinh tế cao và bền vững. Ngày nay, dưới tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, đã tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, từ
đó đòi hỏi phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế để sớm đưa Việt Nam vượt ra khỏi tình trạng một
nước có mức thu nhập trung bình thấp (vượt qua bẫy của nước có mức thu nhập trung bình thấp), đảm
bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững. Để thực hiện việc chuyển đổi mô
hình tăng trưởng kinh tế, cần phải hiểu rõ các mô hình tăng trưởng kinh tế, đánh giá thực trạng mô hình
tăng trưởng kinh tế ở Vi...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 474 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Lê Trương Hải Hiếu*
TÓM TẮT
Trong thời gian qua, mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam diễn ra chủ yếu theo chiều rộng, tuy
đã đạt được những kết quả nhất định nhưng ngày càng bộc lộ những hạn chế không đảm bảo tăng trưởng
kinh tế cao và bền vững. Ngày nay, dưới tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, đã tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, từ
đó đòi hỏi phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế để sớm đưa Việt Nam vượt ra khỏi tình trạng một
nước có mức thu nhập trung bình thấp (vượt qua bẫy của nước có mức thu nhập trung bình thấp), đảm
bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững. Để thực hiện việc chuyển đổi mô
hình tăng trưởng kinh tế, cần phải hiểu rõ các mô hình tăng trưởng kinh tế, đánh giá thực trạng mô hình
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thời gian qua, từ đó, xác định giải pháp nhằm chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế trong thời gian tới đảm bảo tính hiệu quả và bền vững.
Từ khóa: mô hình tăng trưởng kinh tế; cách mạng công nghiệp 4.0; khoa học công nghệ; kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
MODEL OF ECONOMIC GROWTH IN VIETNAM UNDER THE IMPACT
OF THE INDUSTRIAL NETWORK 4.0
ABSTRACT
In recent years, Vietnam’s economic growth pattern has been largely broad-based, but has yielded
certain results, but has increasingly exposed the constraints of failing to ensure high and sustainable
economic growth. . Today, under the impact of globalization, international integration and the industrial
revolution 4.0 are occurring vigorously, affecting Vietnam’s economic growth, thus requiring tissue
transformation. Economic growth is expected to bring Vietnam out of the status of a low-middle-income
country (over the trap of middle-income countries), ensuring rapid economic growth, High quality
and durable. In order to carry out the transformation of the economic growth model, it is necessary to
understand the models of economic growth and assess the current state of economic growth in Vietnam.
Transforming the model of economic growth in the coming time to ensure efficiency and sustainability.
Key words: economic growth; Revolutionary Industrial 4.0; science and technology; Socialist-
oriented market economy.
* ThS. UBND Quận 12, NCS. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
37
1. HAI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Mô hình tăng trưởng kinh tế (TTKT) là sự
phản ánh khái quát những đặc tính chủ yếu của
phương thức TTKT thể hiện các yếu tố tăng
trưởng và mối quan hệ tương hỗ giữa chúng với
nhau trong từng giai đoạn nhất định. Các yếu tố
cơ bản đóng góp cho TTKT gồm: lao động, tư
bản (vốn), tài nguyên đất đai và năng suất các
yếu tố tổng hợp (TFP - Total Factor Productiv-
ity). Tùy theo mức đóng góp của các yếu tố
nêu trên vào TTKT mà hình thành nên các mô
hình TT41KT khác nhau, trong đó, được khái
quát thành hai mô hình tiêu biểu là: tăng trưởng
kinh tế theo chiều rộng và tăng trưởng kinh tế
theo chiều sâu. Tăng trưởng kinh tế được tính
là thuộc mô hình này hay mô hình kia phụ
thuộc vào mức độ đóng góp của các yếu tố sản
xuất vào tổng mức tăng trưởng chung của cả
nền kinh tế. Hiểu một cách khái quát nhất thì
TTKT chủ yếu theo chiều rộng là sự gia tăng
đơn thuần khối lượng các yếu tố sản xuất (lao
động, vốn) tạo ra trên 50% tổng số sản phẩm
tăng thêm. Còn TTKT chủ yếu theo chiều sâu
thì trên 50% tổng số sản phẩm tăng thêm là do
TFP mang lại.
- Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều
rộng: là sự tăng trưởng kinh tế dựa trên sự gia
tăng chủ yếu về số lượng các yếu tố sản xuất cụ
thể như gia tăng số lao động, gia tăng việc khai
thác vốn tài nguyên, đất đai, trợ cấp vốn vật chất
một cách rộng rãi bằng nhiều biện pháp như miễn
thuế, cho khất nợ thuế, cấp vốn ưu đãi đầu tư và
trợ cấp tín dụng đầu tư,... Điểm nổi bật của mô
hình này là đầu tư thiên lệch về một số lĩnh vực,
quá chú trọng ưu tiên đầu tư vốn vật chất thông
qua các chính sách ưu đãi vốn và tăng đầu tư
công. Với mô hình này, tăng trưởng có thể đạt
được chừng nào nhà nước vẫn còn có khả năng
duy trì các khoản trợ cấp và ưu đãi vốn vật chất.
Đối với các nước nghèo có quy mô ngân sách nhỏ
và quản lý đầu tư không hiệu quả, tác động của
các ưu đãi này thường là nhỏ, mang tính ngắn hạn
và không đóng góp nhiều vào tăng năng suất lao
Mô hình tăng trưởng kinh tế...
động. Trong nhiều trường hợp, ưu đãi đầu tư vốn
vật chất còn làm giảm năng lực cạnh tranh của
ngành và của cả nền kinh tế. Hậu quả của việc
phát triển mô hình này trong dài hạn là nền kinh
tế sẽ phải đối mặt với những méo mó về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, công nghệ chậm đổi mới, đời
sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư
bị suy giảm, mất cân bằng về môi trường, sinh thái
dẫn đến tăng trưởng kinh tế không bền vững, dẫn
đến trì trệ khủng hoảng.
- Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu:
là tăng trưởng kinh tế dựa trên việc gia tăng chất
lượng các yếu tố sản xuất. Nó có đặc trưng chủ yếu
là nâng cao hiệu quả của tất cả các yếu tố truyền
thống trên cơ sở tiến bộ kỹ thuật, còn được gọi là
năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP). Trong mô
hình tăng trưởng này, nhà nước chú trọng đầu tư
tới các lĩnh vực tạo tác động lan tỏa, tích cực tới
toàn bộ nền kinh tế, như đầu tư cho khoa học, công
nghệ, giáo dục, y tế và bảo vệ vốn tài nguyên, môi
trường. Tăng trưởng kinh tế theo mô hình này, vốn
con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng
cao và khoa học, công nghệ là trọng tâm của chính
sách đầu tư nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình
phát triển. Trong tổng khối lượng sản xuất, tỷ
trọng của các ngành có hàm lượng khoa học cao
tăng lên; tỷ trọng sản phẩm trung gian giảm và tỷ
trọng sản phẩm cuối cùng đi vào tiêu dùng tăng
lên tương ứng, do vậy, mà nâng cao được hiệu quả
kinh tế, nâng cao chất lượng sống của dân cư. Việc
nâng cao mức sống của con người trong điều kiện
TTKT theo chiều sâu không chỉ thể hiện ở tăng
phúc lợi vật chất, mà còn ở tăng chất lượng các
dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế,...) và môi trường
xung quanh (giảm thiểu ô nhiễm môi trường, loại
bỏ những công nghệ rủi ro,...), tăng thời gian tự
do, nâng cao mức thỏa mãn nhu cầu đẳng cấp cao.
Trong mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu,
tốc độ tăng trưởng không nhất thiết quá cao nhưng
có thể duy trì trong dài hạn nhờ sự đầu tư vào công
nghệ xanh, sạch và vốn con người. Đồng thời, mô
hình tăng trưởng này cũng hướng tới xây dựng
một chính phủ liêm chính, kiến tạo và hiệu quả.
38
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Trong thực tế, không thể phân biệt rạch ròi
mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng hay
theo chiều sâu, mà chúng thường được kết hợp
theo một tỷ lệ nào đó, có thể gọi đó là mô hình
kết hợp giữa TTKT theo chiều rộng với TTKT
theo chiều sâu. Mô hình kết hợp giữa TTKT theo
chiều rộng và TTKT theo chiều sâu vừa chú ý tới
số lượng các yếu tố tăng trưởng, nhưng quan trọng
hơn là vừa chú trọng nâng cao chất lượng các yếu
tố tăng trưởng và phối hợp giữa chúng trên cơ sở
ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao
năng suất lao động, làm cho yếu tố TFP đóng góp
ngày càng lớn hơn vào tăng trưởng kinh tế.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KINH TẾ -
XÃ HỘI VIỆT NAM
Cùng với cải cách và hội nhập quốc tế trong
hơn 30 năm qua (1986-2017), Việt Nam đã đạt
được những thành tựu đáng kể trên nhiều lĩnh vực.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình trong giai
đoạn 2001-2010 là 7,26%/năm, giai đoạn 2011-
2015 là 5,91%/năm, cao hơn so với mức trung
bình của thế giới, tương đương với các nước trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương và cao hơn
nhiều so với các nước thuộc khu vực EU.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, thu nhập GDP
bình quân đầu người của Việt Nam cũng có sự gia
tăng đáng kể. Nếu như năm 1995, GDP bình quân
đầu người của Việt Nam mới đạt 289 USD, thì
đến năm 2016 đạt 2.228 USD (Tổng cục Thống
kê, 2017), trở thành quốc gia có mức thu nhập
GDP bình quân đầu người trung bình thấp theo
xếp hạng của Ngân hàng Thế giới.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên GDP
được duy trì trung bình ở mức 30-40% trong giai
đoạn 2007-2016 là nguồn lực quan trọng cho
tăng trưởng kinh tế. Tổng vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội trên GDP đạt tương ứng trong năm
2007 là 46,5%; năm 2008 là 41,5%; năm 2009 là
42,7%; năm 2010 là 41,1%; năm 2011 là 33,3%;
năm 2012 là 31,1%; năm 2013 là 30,5%; năm
2014 là 31,0%; năm 2015 là 30,5%; năm 2016
là 31,4% (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2017). Tổng
vốn đầu tư cũng không ngừng tăng, năm 2007 chỉ
đạt 532,1 nghìn tỷ đồng, thì đến năm 2016 dự đạt
1.588 nghìn tỷ đồng bằng 31,0% GDP. Vốn FDI
trong giai đoạn 2007-2016 thực hiện được khoảng
112,23 tỷ USD (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2017).
Hoạt động xuất, nhập khẩu cũng đạt được
những kết quả vượt trội nhờ mở rộng thị trường.
Năm 2015, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt
162,4 tỷ USD, tăng gấp 3,3 lần so với năm 2007
và tăng 8,1% so với năm 2014, trong đó khu
vực FDI (không kể dầu thô) đạt 111,3 tỷ USD,
tăng 18,5%. Năm 2015 có 25 mặt hàng đạt kim
ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (Bộ Công Thương,
2016). Giai đoạn 2011-2015, mức nhập siêu được
cải thiện hơn và năm 2012 Việt Nam đã có thặng
dư thương mại trên 700 triệu USD, năm 2014 là
2,337 tỷ USD và năm 2015 Việt Nam trở lại nhập
siêu 3,17 tỷ USD, bằng 2% kim ngạch xuất khẩu
(Đặng Thị Thúy Hồng, 2016). Nhập siêu giảm là
một trong những tác nhân quan trọng giúp giảm
áp lực tăng tỷ giá và cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế. Tỷ lệ giữa kim ngạch xuất khẩu so với
GDP của Việt Nam trong những năm qua tuy có
suy giảm trong năm 2009 nhưng vẫn đạt ở mức
khá cao, năm 2016 là 80,5%, thuộc loại cao so với
tỷ lệ chung của thế giới, đứng thứ hạng khá cao
so với các nước trong khu vực ASEAN (Bộ Công
Thương, 2016).
Lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội đã đạt được
những kết quả nhất định. Công tác xóa đói giảm
nghèo cũng đạt được những kết quả tốt, năm 2011
số hộ nghèo giảm xuống còn khoảng gần 12%,
năm 2016 còn khoảng 8,7%. Lĩnh vực giáo dục
đào tạo, dân số, việc làm và giảm nghèo, y tế và
chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường
39
và các hoạt động văn hóa xã hội khác đều đã đạt
được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc
phát triển bền vững, nâng cao từng bước đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo đảm an sinh
xã hội, giảm bớt khó khăn cho người nghèo, đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, các đối
tượng chính sách, góp phần xóa đói, giảm nghèo,
giải quyết việc làm và giữ vững ổn định chính trị,
xã hội.
Ngoài những kết quả đạt được nêu trên, tình
hình kinh tế, xã hội vẫn còn nhiều hạn chế và bất
cập. Những năm gần đây, tăng trưởng GDP tuy
vẫn ở mức tương đối cao nhưng đang có xu hướng
chậm lại. Trong giai đoạn 2007-2016, Việt Nam
duy trì được mức tăng trưởng khá cao, bình quân
6,29%/năm nhưng để đạt được mức tăng trưởng
đó, tổng đầu tư cho phát triển luôn ở mức cao
(30,0-46,5%), cao hơn nhiều so với các nước khác
trong khu vực, điều này chứng tỏ hiệu quả và chất
lượng tăng trưởng của Việt Nam còn thấp so với
các nước trong khu vực. Các cân đối vĩ mô (gồm
cân đối cán cân vãng lại, cân đối ngân sách, cân
đối tiết kiệm nội địa và đầu tư xã hội, dự trữ ngoại
tệ quốc gia, v.v.) chưa vững chắc, nợ nước ngoài
và nợ công có xu hướng gia tăng; nợ xấu ngân
hàng tăng mạnh, nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô luôn
là vấn đề phải quan tâm hàng đầu trong mấy năm
gần đây. Bên cạnh đó, năng suất lao động Việt
Nam còn thấp, đóng góp vào tăng trưởng còn hạn
chế. Năm 2011, năng suất lao động bình quân của
Việt Nam theo giá thực tế mới đạt khoảng 2.400
USD/người, thấp hơn so với mức năng suất lao
động năm 2005 của nhiều nước trong khu vực như
là Indonesia 2.650 USD, Philippines 2.689 USD,
Thái Lan 2.721 USD, Singapore 48.162 USD,
Brunei 51.500 USD, Nhật Bản 70.237 USD,
Trung Quốc 2.869 USD, Malaysia 12.571 USD,
Hàn Quốc 33.237 USD (Viện Nghiên cứu Quản lý
Kinh tế Trung ương, 2012). Đến năm 2012, năng
suất lao động xã hội (GDP/LĐ), giá hiện hành
đạt 63,11 triệu đồng; năm 2013 đạt 68,65 triệu;
năm 2014 đạt 74,66 triệu và năm 2015 đạt khoảng
83,81 triệu đồng, còn thấp hơn nhiều lần so với
các nước trong khu vực (Viện Nghiên cứu Quản
lý Kinh tế Trung ương, năm 2016).
Bộ máy hành chính cồng kềnh, nhiều tầng
nấc, kém hiệu quả chưa có giải pháp để tinh gọn,
mà còn tăng thêm trong thời gian qua, cân đối ngân
sách Nhà nước còn khó khăn, bội chi còn cao; nợ
công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn; chất lượng tín
dụng chưa cao, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân
hàng thương mại cổ phần yếu kém còn khó khăn;
huy động nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước còn
hạn chế; tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng còn chậm Thực tế cho thấy
dư địa tăng trưởng theo chiều rộng đang bị thu
hẹp dần, nhưng nguồn lực và động lực của tăng
trưởng theo chiều sâu (hiệu quả sử dụng nguồn
lực, năng suất lao động, năng suất tổng hợp) lại
tăng chậm, không được cải thiện để bù đắp sự suy
giảm của tăng trưởng theo chiều rộng. Tiềm năng
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang giảm, bản
thân nền kinh tế tự nó không còn khả năng đạt
mức tăng trưởng cao như trước đây, cùng với đó
là hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ và sự tác động
của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đòi hỏi Việt
nam phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.
3. THỰC TRẠNG MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong những
năm qua chủ yếu vẫn dựa vào tăng vốn đầu tư mà
phần lớn là từ ngân sách Nhà nước (NSNN). Theo
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2011, doanh nghiệp
nhà nước chiếm 70% vốn đầu tư của toàn xã hội,
50% vốn đầu tư nhà nước, 60% tín dụng của các
ngân hàng thương mại, 70% nguồn vốn ODA
nhưng chỉ đóng góp vào GDP ở mức khoảng 37-
38%. Hiệu quả đầu tư thấp, hệ số ICOR có xu
hướng tăng lên, năm 2005 là 4,6; năm 2006 là
5,01; năm 2007 là 5,20, năm 2008 là 6,66, năm
2010 là 6,9, cao hơn đáng kể so với các nước khác
như Nhật Bản 3,2, Trung Quốc là 4,1; Hàn Quốc
là 3,2, điều này chứng tỏ hiệu quả đầu tư của Việt
Nam rất thấp so với các nước trong khu vực trong
thời kỳ tăng trưởng cao (Viện Chiến lược Phát
triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2011).
Mô hình tăng trưởng kinh tế...
40
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Lực lượng lao động của Việt Nam tuy đông
về số lượng nhưng chủ yếu là lao động phổ thông,
ít qua đào tạo. Theo báo cáo tại Diễn đàn Doanh
nghiệp Việt Nam tháng 6/2015, khoảng 57% lực
lượng lao động Việt Nam có kỹ năng rất thấp và
khoảng 68% dân số trong độ tuổi 20-24 không
được đào tạo hoặc thiếu các kỹ năng cần thiết.
Chương trình đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu
của thị trường lao động; học sinh học lý thuyết
nhiều, nhưng khả năng vận dụng thực tế rất yếu.
Theo kết quả khảo sát của Hội Liên hiệp Sinh
viên Việt Nam, khoảng 50% sinh viên Việt Nam
ra trường không tìm được việc làm trong lĩnh vực
chuyên môn của mình, tỷ lệ sinh viên phải đào tạo
lại sau khi ra trường rất lớn. Năm 2016, có khoảng
gần 200 ngàn sinh viên tốt nghiệp đại học, cao
đẳng bị thất nghiệp.
Một số nút thắt chính về lao động và vốn con
người của Việt Nam đang cản trở nâng cao chất
lượng tăng trưởng kinh tế đó là:
- Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân
lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu cầu xã hội
để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt
Nam, nhất là để tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong
chuỗi giá trị đó. Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo
ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền,
địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù
hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí
nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
- Hệ thống giáo dục quốc dân - lực lượng nòng
cốt trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đất
nước bộc lộ nhiều hạn chế. Công tác đào tạo, giáo
dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa trên cơ sở nhu
cầu xã hội, chưa thu hút được sự tham phát triển
nguồn nhân lực từ các đơn vị sử dụng lao động.
- Nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho
phát triển nhân lực của phần lớn các gia đình còn
hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo
đảm chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn
hóa, thể dục thể thao. Nguồn lực tài chính từ ngân
sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn
chế; chưa huy động được nhiều các nguồn lực
trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát
triển nhân lực.
- Tuyển dụng lao động ở nhiều cơ quan chưa
hoàn toàn minh bạch, việc sử dụng lao động chưa
hoàn toàn hợp lý, công tác bổ nhiệm cán bộ còn
dựa nhiều vào các tiêu chuẩn và tiêu chí hình thức
dẫn đến việc thu nạp và sử dụng nguồn lực lao
động, nhất là lao động chất lượng cao còn chưa
hợp lý. Đây cũng chính là dư địa, tiềm năng về
vốn con người chưa được khai thác hiện nay.
- Hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
phát triển nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu
của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh
tế, xã hội, văn hóa nước ta với thế giới. Còn nhiều
sự khác biệt trong các quy định về giáo dục nghề
nghiệp, đào tạo nhân lực của hệ thống pháp luật
Việt Nam so với pháp luật của các nước; mô hình
hệ thống giáo dục và đào tạo, nội dung, chương
trình và phương pháp đào tạo nhân lực chưa tương
thích và chưa phù hợp với các tiêu chuẩn phổ biến
của các nước trong khu vực và thế giới.
Bảng 2. So sánh ICOR của Việt Nam với các nước trong thời kỳ tăng trưởng cao
Quốc gia
Thời kỳ tăng
trưởng cao
Tỷ lệ đầu tư
(% GDP)
Tỷ lệ tăng trưởng
(%)
ICOR
Việt Nam
Trung Quốc
Nhật Bản
Hàn Quốc
2001-2010
1991-2003
1961-1970
1981-1990
51,6
39,1
32,6
29,6
7,5
9,5
10,2
9,2
6,19
4,1
3,2
3,2
Nguồn: Chi Hung Kwan: Tại sao hiệu quả đầu tư của Trung Quốc thấp, Trung Quốc trong quá độ
18/6/2004 và tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
41
Tình hình trên cho thấy, mô hình tăng
trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng ở Việt
Nam đã đạt tới giới hạn, thể hiện rõ qua mức
năng suất lao động (NSLĐ) thấp và tính lạc hậu
của cơ cấu nền kinh tế. NSLĐ của Việt Nam
năm 2009 chỉ tương đương 14,9% của Singa-
pore, 9% của Mỹ, 40% của Thái Lan và 52,6%
của Trung Quốc. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
chậm và lạc hậu. Trong giai đoạn từ năm 2000-
2010, tỷ trọng nhóm ngành sản xuất sản phẩm
vật chất trong GDP hầu như không đổi, chiếm
khoảng 61-62%, nhóm ngành dịch vụ dao động
trong khoảng 38-39%, thấp hơn các nước khác;
cụ thể như tỷ trọng của nhóm ngành dịch vụ
trong GDP năm 2001 của Malaysia là 41,9%;
Thái Lan là 49,8% và Hàn Quốc là 54,1% (Viện
Chiến lược Phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, 2011). TTKT của Việt Nam vẫn chủ yếu tập
trung ở một số ngành và sản phẩm truyền thống có
công nghệ không cao như dệt may, thủy sản, nông
sản chưa qua chế biến, ngoài ra tăng trưởng còn
dựa vào một số doanh nghiệp FDI như Samsung,
Formosa.
Tín hiệu của chuyển đổi mô hình tăng
trưởng kinh tế theo chiều sâu
Trong những năm gần đây, đóng góp vào
tăng trưởng của vốn và lao động có xu hướng
giảm, thay vào đó là đóng góp của TFP vào tăng
trưởng kinh tế ngày càng tăng. Nếu như năm 2001
đóng góp của vốn cho tăng trưởng là 71,94%,
của TFP là 14,64%, và của số lượng lao động là
13,42%, thì đến năm 2013 TFP đã đóng góp vào
tăng trưởng kinh tế lên 32,5% và đến năm 2014
đã đóng góp 36,8% vào tăng trưởng kinh tế, năm
2015 là 32,95% (Tổng cục Thống kê, năm 2016).
Nhìn chung, tỷ lệ đóng góp của TFP trong tăng
trưởng GDP chưa cao, nhưng có xu hướng tăng
phản ánh tín hiệu của tăng trưởng kinh tế theo
chiều sâu.
Mô hình tăng trưởng kinh tế...
Biểu đồ 1. Đóng góp của các nhân tố vốn - lao động - TFP vào tăng trưởng GDP của Việt Nam
giai đoạn 2001-2015
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2016)
42
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Cùng với sự gia tăng của TFP trong tăng
trưởng kinh tế, năng lực cạnh tranh của Việt Nam
cũng có sự thay đổi đáng kể, năm 2014-2015, đánh
giá mức độ sẵn sàng về công nghệ của Việt Nam là
3,12 điểm trên điểm tối đa là 7, đứng thứ 99 trong
tổng số 144 nước, năm 2015-2016, sự sẵn sàng
về công nghệ của Việt Nam là 3,32 điểm, đứng
thứ 92 trong 140 nước (WEF, 2017). Về chỉ số đổi
mới, theo đánh giá của WEF, năm 2014-2015, Việt
Nam đạt 3,12 điểm, đứng thứ 87 trong bảng xếp
hạng. Năm 2015-2016, chỉ số đổi mới công nghệ
của Việt Nam là 3,25, đứng thứ 73 trong tổng số
140 nước, mặc dù cũng có sự cải thiện đáng kể,
nhưng đánh giá về công nghệ Việt Nam vẫn đứng
ở mức dưới trung bình so với thế giới.
Năng suất lao động của Việt Nam thời gian
qua đã có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng
đều qua các năm, khoảng cách tương đối về năng
suất lao động với các nước ASEAN được thu hẹp
dần. Tuy nhiên, năng suất lao động của nước ta
hiện vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong
khu vực, khoảng cách tuyệt đối tính bằng chênh
lệch giữa năng suất lao động của Việt Nam với
hầu hết các nước ASEAN có xu hướng tăng.
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2016)
4. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHUYỂN ĐỔI MÔ
HÌNH, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
4.1. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu
phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy
mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả,
tính bền vững (Nghị quyết Đại hội XII). Chuyển
đổi mô hình tăng trưởng kinh tế hiện nay về bản
chất là thay đổi động lực của tăng trưởng kinh tế,
năng suất lao động, hiệu quả sử dụng các nguồn
lực phải được cải thiện để dần thay thế số lượng
vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên. Để chuyển
sang mô hình tăng trưởng mới, đòi hỏi phải tăng
tỷ lệ đóng góp của yếu tố TFP vào tăng trưởng
GDP, kết hợp giữa tăng trưởng theo chiều rộng và
theo chiều sâu một cách hợp lý trong đó trọng tâm
là chuyển mạnh sang tăng trưởng theo chiều sâu.
Mục tiêu đến năm 2020 đóng góp của TFP vào
TTKT là từ 35-40%.
4.2. Tái cơ cấu nền kinh tế
Cùng với chuyển đổi mô hình tăng trưởng
kinh tế cần phải tái cơ cấu nền kinh tế, mà thực
Biểu đồ 2. Năng suất lao động và tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam
giai đoạn 2006-2015
43
chất là quá trình phân bố lại nguồn lực mà trước
hết là vốn đầu tư trên phạm vi quốc gia nhằm cải
thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực
nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Để
làm được điều đó, về chính sách, cần cải thiện và
nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh như
ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển hạ tầng, phát triển
nguồn nhân lực và cải cách thể chế, để cơ chế
thị trường được vận hành tốt và phát huy đầy đủ
hiệu lực trong huy động và phân bố nguồn lực. Tái
cơ cấu kinh tế là đổi mới hệ thống đòn bẩy khuyến
khích, thúc đẩy nguồn lực phân bố đến những nơi
sử dụng có hiệu quả cao hơn, đồng thời, buộc các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư phải đổi mới cách
thức sử dụng nguồn lực, đổi mới cách thức quản
lý, để nâng cao hiệu quả, năng cao năng suất
và nâng cao năng lực cạnh tranh. Như vậy, thay
đổi, tạo lập hệ thống đòn bẩy phù hợp chính là
khởi đầu của quá trình tái cơ cấu kinh tế. Nâng cao
hiệu quả và chất lượng của công tác xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực,
địa bàn; tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp
xây dựng và triển khai quy hoạch, kế hoạch giữa
các địa phương, khắc phục triệt để tình trạng cắt
khúc của quy hoạch. Tăng cường sự liên kết giữa
các địa phương trong vùng kinh tế, có chính sách
khuyến khích hình thành các cụm liên kết ngành.
Tiếp tục củng cố và tái cấu trúc hệ thống tài chính,
các ngân hàng thương mại để thực hiện huy động
và phân bổ các nguồn lực tài chính cho phát triển
kinh tế - xã hội,... Đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống
pháp luật đối với thị trường tài chính, thị trường
bảo hiểm, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các
thị trường tài chính. Đẩy mạnh thực hiện tái cấu
trúc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, qua đó
định vị lại vai trò của các khu vực kinh tế này
trong toàn bộ nền kinh tế. Tăng cường hiệu quả
huy động nguồn lực, tiếp tục cải cách hệ thống
chính sách thu đi đôi với cơ cấu lại ngân sách nhà
nước. Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực
tài chính nhà nước trong đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội gắn với thu hút sự tham gia đầu tư của
khu vực tư nhân.
Tái cơ cấu kinh tế tập trung vào các lĩnh
vực sau:
- Tái cơ cấu đầu tư công, công việc trước hết
phải làm là cắt giảm số lượng vốn và số dự án
đầu tư công; thực hiện phân bổ vốn cho những dự
án quan trọng ưu tiên, chủ yếu trong phát triển hạ
tầng. Điều quan trọng là phải xác định rõ và cụ
thể vai trò, phạm vi và chức năng của đầu tư Nhà
nước, quy trình, tiêu chí, lựa chọn được dự án
có hiệu quả kinh tế xã hội cao và tập trung phân
bổ vốn vào dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao
nhất; phải đổi mới được chế độ phân cấp đầu tư,
nhất là giữa Trung ương với địa phương; phải áp
đặt “hard budget constraints” để buộc các bộ, địa
phương, tập đoàn và tổng công ty nhà nước phải
có đổi mới và sáng tạo trong đầu tư theo hướng
“đầu tư ít hơn, hiệu quả cao hơn”, hạn chế chạy
theo số lượng đầu tư, số lượng dự án, ngăn chặn
được cơn “khát đầu tư” tràn lan, ngoài ngành như
thời gian qua.
- Tái cơ cấu các ngành kinh tế, thì trọng tâm
là tái cơ cấu các chuỗi cung ứng nâng cao giá trị
gia tăng nội địa, nhất là chuỗi cung ứng các sản
phẩm có lợi thế cạnh tranh như điện tử và công
nghệ thông tin, dệt may, giày da, chế biến lương
thực, thực phẩm, công nghiệp xanh và năng lượng
tái tạo, cơ khí chế tạo, đóng mới và sửa chữa tàu
biển, ô tô và phụ tùng ô tô, máy nông nghiêp, lúa
gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, cá da trơn,
tôm và các loại hải sản khác, các loại rau, quả
nhiệt đới, v.v.
- Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
tập trung vào nhóm giải pháp như: áp đặt đầy đủ
nguyên tắc thị trường và chế độ ngân sách cứng
đối với DNNN; bắt buộc các DNNN phải cạnh
tranh bình đẳng như các doanh nghiệp khác. Thiết
lập, hoàn thiện khung quản trị theo thông lệ quốc
tế phổ biến và nâng cao hiệu lực quản trị công ty
đối với các doanh nghiệp nhà nước. Tái cơ cấu
danh mục đầu tư, ngành nghề kinh doanh, cổ phần
hóa; thu hẹp quy mô hoạt động của các DNNN
để DNNN tập trung vào các ngành lĩnh vực kinh
doanh chính, bao gồm: công nghiệp quốc phòng;
Mô hình tăng trưởng kinh tế...
44
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
các ngành công nghiệp độc quyền tự nhiên; các
ngành, lĩnh vực cung cấp hàng hóa và dịch vụ
thiết yếu; một số ngành công nghiệp nền tảng,
công nghệ cao có sức lan tỏa lớn.
- Tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng đã
và đang tập trung xử lý một số nội dung chính, gồm
tái cơ cấu các ngân hàng thương mại yếu kém; xử
lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và tái cơ cấu
tổng thể, toàn diện cả hệ thống nói chung và từng
tổ chức tín dụng nói riêng.
4.3. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng
khoa học - công nghệ (KHCN) vào các ngành,
lĩnh vực của nền kinh tế
Chiến lược Phát triển Khoa học và Công
nghệ giai đoạn 2011-2020 khẳng định Việt Nam
quyết tâm coi khoa học và công nghệ là nền tảng
cho sự phát triển bền vững của đất nước. Chiến
lược này quy định việc tăng đầu tư cho khoa học
và công nghệ ở mức 1,5% GDP vào năm 2015
và trên 2% vào năm 2020. Đồng thời, Nhà nước
cũng đã ban hành các luật để hỗ trợ chuyển giao
công nghệ, cũng tạo nguồn nhân lực KHCN như:
Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 (Quốc
hội, 2006) và Luật Công nghệ cao từ năm 2008
(Quốc hội, 2008) đặt ra khuôn khổ pháp lý cho
sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài và
các hoạt động công nghệ cao, từ lĩnh vực chế tác,
sản xuất đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Quyết
định số 677/QĐ-TTg ngày 10/5/2011, phê duyệt
“Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến
năm 2020”. Theo đó, một trong những mục tiêu
đặt ra bao gồm: nâng cấp công nghệ với tốc độ
15%/năm; làm chủ công nghệ sản xuất tiên tiến và
đào tạo 80.000 kỹ sư, kỹ thuật viên và nhà quản lý
đang làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ trong
quản lý công nghệ và quản trị. Ngoài ra, Nhà nước
còn ban hành các chính sách hỗ trợ cho các hoạt
động khoa học và công nghệ được thể hiện trong
Luật Khoa học và công nghệ ngày 18/6/2013
(Quốc hội, 2013) và Nghị định số 87/2014/NĐ-
CP ngày 22/9/2014 về thu hút các nhà khoa học từ
nước ngoài (Quốc hội, 2014). Luật Khoa học và
công nghệ (2013) quy định việc hỗ trợ tài chính
từ ngân sách nhà nước để thực hiện các hoạt động
khoa học và công nghệ. Doanh nghiệp có thể nhận
được hỗ trợ tài chính lên tới 30% tổng vốn đầu tư
nếu họ thực hiện các dự án ứng dụng các kết quả
khoa học để tạo ra các sản phẩm mới hoặc để tăng
năng suất, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh
tranh sản phẩm. Các hoạt động này cũng có thể
được hỗ trợ đến 50% vốn đầu tư cho các dự án
thực hiện ở vùng kinh tế - xã hội khó khăn hoặc hỗ
trợ 50% vốn đầu tư cho các dự án thực hiện nhiệm
vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia thuộc lĩnh
vực ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước.
Tạo điều kiện để các doanh nghiệp có đủ
năng lực ứng dụng công nghệ mới bằng cách tạo
môi trường đầu tư lành mạnh, làm cho yếu tố công
nghệ trở thành điều kiện quyết định giành thắng
lợi trong cạnh tranh, giảm các ưu tiên, ưu đãi cho
một số loại hình doanh nghiệp; có chính sách
thúc đẩy ứng dụng khoa học - công nghệ, khuyến
khích các doanh nghiệp thực hiện đầu tư đổi mới
công nghệ; có các giải pháp quyết liệt để bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp đi đầu
trong ứng dụng công nghệ mới; thúc đẩy tăng
tốc chuyển giao công nghệ vào các ngành, lĩnh
vực bằng cách thúc đẩy phát triển thị trường khoa
học và công nghệ, phát triển doanh nghiệp khoa
học - công nghệ để tăng nguồn cung sản phẩm
công nghệ mới cho thị trường. Thu hút vốn đầu tư
cho khoa học và công nghệ từ nhiều nguồn, chọn
các nhà khoa học đầu đàn làm chủ các công trình
nghiên cứu khoa học. Quy định mức thù lao, mức
thưởng thỏa đáng đối với những người có năng
lực sáng tạo, có công trình khoa học được áp dụng
vào thực tiễn. Tăng cường chuyển giao công nghệ
tiên tiến, hiện đại trong các dự án FDI.
Những giải pháp cụ thể về phát triển khoa
học, công nghệ trong thời gian tới
- Tăng cường năng lực quốc gia về KHCN
theo hướng: nguồn nhân lực cho KHCN và đổi
mới sáng tạo. Nguồn nhân lực là vấn đề then chốt
đối với đổi mới sáng tạo. Năng lực sáng tạo quốc
gia phụ thuộc phần lớn vào chất lượng giáo dục
và đào tạo cho các nhà khoa học, kỹ nghệ và các
45
nhà chuyên môn khác, và nó cũng phụ thuộc vào
mức độ bao phủ của hệ thống giáo dục. Do vậy,
các chính sách cần đầu tư nâng cao chất lượng
giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học và sau đại
học hướng vào những ngành KHCN tạo nguồn
nhân lực KHCN cho các tổ chức nghiên cứu triển
khai; huy động các nguồn lực ngoài nhà nước đầu
tư cho KHCN. Hoàn chỉnh những văn bản pháp
luật, quy định về khoa học công nghệ theo hướng
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho khoa học
và công nghệ. Đầu tư cho KHCN cần tập trung
nguồn lực vào một số ngành trọng điểm để tăng
sức cạnh tranh toàn cầu và năng lực xuất khẩu.
- Nâng cao khả năng liên kết và đóng góp
của các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu và
doanh nghiệp cho KHCN. Muốn giải quyết hiệu
quả những vấn đề này, cần có tầm nhìn chiến lược
rõ ràng về phân công lao động giữa các trường đại
học và cơ quan nghiên cứu nhà nước, và đảm bảo
cân đối chức năng giữa các cơ quan nghiên cứu
nhà nước. Cải cách một cách căn bản cơ cấu quản
trị các trường đại học và cơ quan nghiên cứu Nhà
nước sẽ là điều kiện cần để tăng tài trợ cho các cơ
sở đó. Cần tiếp tục thực hiện quá trình chuyển sang
hoạt động theo mô hình doanh nghiệp đối với các
cơ quan nghiên cứu Nhà nước theo hướng tăng
quyền tự chủ cho họ, đồng thời đảm bảo rằng các
cơ sở không thuộc diện chuyển đổi có thể giảm
về số lượng, nhưng nâng cao được chất lượng và
hiệu quả hoạt động. Nghiên cứu xây dựng mô
hình Trung tâm công nghệ công lập (theo mô hình
Nhật Bản). Mô hình này có chức năng nghiên
cứu, đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ mới,
đồng thời cũng là “cầu nối” đóng vai trò tư vấn
công nghệ cho doanh nghiệp, vì không phải doanh
nghiệp nào cũng tự mình nghiên cứu, phát triển
công nghệ, đặc biệt đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ, trong khi đó, việc ứng dụng công nghệ hiệu
quả cũng là một giải pháp quan trọng trong nâng
cao năng suất lao động. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt
động đầu tư cho KHCN, thu hút các thành phần xã
hội tham gia hoạt động KHCN, tăng cường sự gắn
kết chặt chẽ giữa KHCN với sản xuất, gắn kết các
viện, đại học với doanh nghiệp nhằm thương mại
hóa sản phẩm nghiên cứu. Khuyến khích đầu tư
nghiên cứu và phát triển của các doanh nghiệp lớn
nhằm tiến tới trở thành trung tâm của hệ thống đổi
mới sáng tạo quốc gia. Gắn các nhiệm vụ, đề tài
KHCN với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
phát triển ngành, lĩnh vực.
- Đẩy mạnh phát triển thị trường KHCN.
Cần nghiên cứu xây dựng hệ thống các tổ chức
hỗ trợ trung gian hiệu quả nhằm gắn kết hai bên
cung - cầu của thị trường KHCN, đẩy mạnh quá
trình thương mại hóa sản phẩm, gia tăng sản phẩm
KHCN trên thị trường và tăng cường đổi mới
KHCN của doanh nghiệp. Tăng cường hiệu quả
của các chợ KHCN, trong đó cần định hướng phát
triển một số loại hình chợ theo hướng công nghệ
ưu tiên, công nghệ mũi nhọn, công nghệ cần phổ
biến đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước theo từng thời kỳ.
- Sửa đổi các quy định trong Luật Chuyển
giao công nghệ, Luật Công nghệ cao theo hướng
quy định rõ ràng hơn và khuyến khích hơn các
doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ cho các
doanh nghiệp trong nước. Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ trong công tác quy hoạch, đồng bộ cơ chế quản
lý, tổ chức, hoạt động KHCN theo hướng xóa bao
cấp, trao quyền tự chủ. Tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng trong việc cung cấp dịch vụ
KHCN giữa các tổ chức thuộc thành phần kinh tế
khác nhau. Cần tăng cường vai trò của các Quỹ
như NAFOSTED, NATIF trong việc hỗ trợ phát
triển KHCN.
4.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Thực hiện các giải pháp quyết liệt nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo, chú trọng đào tạo
công nhân kỹ thuật, trung cấp để thay đổi cơ cấu
lao động hiện nay. Đổi mới nội dung, chương trình
và phương pháp giáo dục - đào tạo theo hướng
tăng cường đào tạo các kỹ năng chuyên sâu, giảm
tải thời gian học lý thuyết, tăng cường thời gian
thực hành cho học sinh, sinh viên. Xây dựng đội
ngũ giáo viên, giảng viên đáp ứng sự đổi mới của
chương trình giáo dục - đào tạo. Tăng cường nâng
Mô hình tăng trưởng kinh tế...
46
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
cấp chất lượng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các
cơ sở đào tạo, chú trọng xây dựng mới và củng cố
các phòng thí nghiệm, xưởng thực nghiệm của các
cơ sở đào tạo, đặc biệt là đối với cơ sở đào tạo các
chuyên ngành mũi nhọn, các ngành nghề mới. Mở
rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào
tạo, khuyến khích và mở rộng cơ chế để các cơ sở
đào tạo trong nước hợp tác với các cơ sở đào tạo
của các nước phát triển. Đổi mới chính sách sử
dụng, đánh giá và đãi ngộ nhân lực theo hướng
dựa trên năng lực chuyên môn và hiệu quả thực
hiện công việc.
Khuyến khích các cơ sở đào tạo chuyển sang
chế độ tự chủ hoàn toàn cả về tài chính và nhân sự
để đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động.
Đẩy mạnh xã hội hóa để tăng cường huy động các
nguồn vốn cho phát triển nhân lực. Nhà nước có
cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn
của người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển
nhân lực bằng các hình thức như trực tiếp đầu tư
xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn
hóa, thể dục thể thao; góp vốn, mua công trái, hình
thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Thực hiện
cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo theo hướng
mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng,
khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã
hội học tập. Chú trọng cải cách giáo dục đại học.
Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về giáo dục
theo hướng hiệu quả và phù hợp với phương thức
quản lý giáo dục tiên tiến trên thế giới. Cần có một
chuyển biến mạnh mẽ trong việc tuyển dụng và
sử dụng lao động trong khu vực công bằng việc
thực hiện thật nghiêm túc các chính sách hiện có,
đồng thời có cơ chế giám sát độc lập quá trình
tuyển dụng cán bộ trong khu vực công. Trong sử
dụng và bổ nhiệm cán bộ, cần minh bạch và công
khai hóa đến mức tối đa để thực sự sử dụng đúng
chỗ, đúng khả năng những cán bộ, chuyên gia có
trình độ cao ngay trong khu vực nhà nước. Thực
hiện liên thông lao động giữa khu vực công và khu
vực tư để đảm bảo sử dụng hiệu quả lực lượng lao
động xã hội. Cần tận dụng triệt để các cơ hội từ
quá trình hội nhập thông qua việc thực hiện đầy
đủ các cam kết về việc sử dụng lao động, lao động
di chuyển ra nước ngoài và ngược lại, đảm bảo
các chính sách an sinh xã hội cho người lao động.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương.
2. Báo cáo của Viện Chiến lược Phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3. Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
4. Báo cáo của Bộ Công Thương.
5. Hội đồng Lý luận Trung ương (2015), Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin, NXB Chính trị
Quốc gia.
6. Nguyễn Trọng Hoài (2013), Các chủ đề phát triển chọn lọc - khung phân tích và bằng chứng thực
nghiệm cho Việt Nam - sách chuyên khảo, NXB Kinh tế TP HCM.
7. Trần Thọ Đạt (2010), Các mô hình tăng trưởng kinh tế - sách chuyên khảo, NXB Thống kê.
8. Tổng cục Thống kê Việt Nam.
9. Văn kiện Đại hội XI, XII.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4_8847_2199441.pdf