Tài liệu Mô hình đồng giảng dạy tại khoa ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên: Nguyễn Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 117 - 122
117
MÔ HÌNH ĐỒNG GIẢNG DẠY TẠI KHOA NGOẠI NGỮ
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Bích Ngọc*, Nguyễn Thị Minh Loan, Phí Thị Mùi
Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Bài viết này trình bày mô hình dạy học đồng giảng dạy (co-teaching) đang ngày càng trở nên phổ
biến trên thế giới. Thông qua tổng hợp những nghiên cứu, bài viết sẽ trình bày cơ sở lí luận về mô
hình dạy học đồng giảng dạy, phân tích những lợi ích cũng như những điểm cần lưu ý khi sử dụng
phương thức này, từ đó đề xuất cân nhắc ứng dụng trong bối cảnh dạy học của Việt Nam, đặc biệt
là tại các cơ sở đào tạo đại học. Bài viết cũng trình bày thử nghiệm thực tế mô hình trên tại Khoa
Ngoại ngữ- Đại học Thái Nguyên bao gồm các bước tiến hành và bước đầu đánh giá về tính hiệu
quả của mô hình này.
Từ khóa: đồng giảng dạy, mô hình giảng dạy, lên kế hoạch, đánh giá, hợp tác
GIỚI THIỆU *
Mô hình đồng giảng dạy từ lâu đã được quan...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 492 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình đồng giảng dạy tại khoa ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 117 - 122
117
MÔ HÌNH ĐỒNG GIẢNG DẠY TẠI KHOA NGOẠI NGỮ
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Bích Ngọc*, Nguyễn Thị Minh Loan, Phí Thị Mùi
Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Bài viết này trình bày mô hình dạy học đồng giảng dạy (co-teaching) đang ngày càng trở nên phổ
biến trên thế giới. Thông qua tổng hợp những nghiên cứu, bài viết sẽ trình bày cơ sở lí luận về mô
hình dạy học đồng giảng dạy, phân tích những lợi ích cũng như những điểm cần lưu ý khi sử dụng
phương thức này, từ đó đề xuất cân nhắc ứng dụng trong bối cảnh dạy học của Việt Nam, đặc biệt
là tại các cơ sở đào tạo đại học. Bài viết cũng trình bày thử nghiệm thực tế mô hình trên tại Khoa
Ngoại ngữ- Đại học Thái Nguyên bao gồm các bước tiến hành và bước đầu đánh giá về tính hiệu
quả của mô hình này.
Từ khóa: đồng giảng dạy, mô hình giảng dạy, lên kế hoạch, đánh giá, hợp tác
GIỚI THIỆU *
Mô hình đồng giảng dạy từ lâu đã được quan
tâm và đưa vào thực tiễn giảng dạy trên thế
giới, đặc biệt trong bối cảnh giáo dục đặc biệt
(giáo dục chuyên biệt cho các đối tượng có
nhu cầu đặc biệt như người khuyết tật). Đồng
giảng dạy không phải là một khái niệm mới.
Tuy nhiên, nó sẽ luôn là mới trong một bối
cảnh mới, với những nhu cầu học tập cụ thể.
Bài nghiên cứu này tập trung giới thiệu mô
hình đồng giảng dạy kiểu tương tác giữa giáo
viên Việt Nam và giáo viên Mỹ, trong một
khóa học cụ thể về giao tiếp liên văn hóa tại
một trường đại học Việt Nam. Mô hình được
coi là có hiệu quả, do sự bổ trợ lẫn nhau về
mặt kiến thức văn hóa, phong cách giảng dạy
và làm việc giữa các giáo viên. Mô hình có
tính mới do chưa có tiền lệ nghiên cứu trong
bối cảnh nhấn mạnh vào các yếu tố văn hóa
với đối tác đồng giảng đến từ các nền văn hóa
khác nhau.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Đồng giảng dạy là gì?
Có nhiều định nghĩa về đồng giảng dạy đã
được đưa ra. Beuwens và Hourcade (1995)
[1] đã định nghĩa đồng giảng dạy là “tái cấu
trúc các quy trình giảng dạy trong đó hai hay
nhiều nhà giáo dục có các kỹ năng riêng biệt
làm việc theo cách phối hợp để cùng nhau dạy
các nhóm học sinh về mặt kiến thức và hành
*
Tel: 0949 371386, Email: nguyenbichngoc.sfl@tnu.edu.vn
vi (tr.46). Villa, và cộng sự, (2004) [2] đã
định nghĩa việc đồng giảng là “hai hoặc nhiều
người chia sẻ trách nhiệm giảng dạy một số
hoặc tất cả học sinh được phân vào một lớp
học” (tr. 3). Cook và Friend (1995) [3] đã
định nghĩa việc đồng giảng dạy là “hai hay
nhiều chuyên gia giảng dạy cho một nhóm đa
dạng, hoặc pha trộn, trong một không gian vật
lý” (tr. 2). Salend (2008) [4] định nghĩa đồng
giảng dạy như là một “sự sắp xếp giảng dạy,
nhờ đó các giáo viên hỗ trợ lẫn nhau, cùng
nhau giáo dục học sinh trong một lớp học
giáo dục chung” (tr. G-3). Giáo viên làm việc
trong các thỏa thuận đồng giảng dạy phải chia
sẻ trách nhiệm và chịu trách nhiệm lập kế
hoạch, cung cấp hướng dẫn, đánh giá, và quản
lý lớp học và kỷ luật của tất cả học sinh.
Đồng giảng dạy cũng đồng nghĩa với việc dạy
học hợp tác.
Các định nghĩa đều có điểm chung ở việc
đồng giảng dạy cần nhiều hơn một giáo viên,
giảng dạy cùng nhau và cùng chia sẻ trách
nhiệm soạn giảng, giảng và đánh giá học sinh.
Lợi ích và thách thức của đồng giảng dạy
Trong nghiên cứu 3 năm của họ, Christine và
Walther-Thomas (1997) [5] đã chỉ ra những
lợi ích nổi bật và các vấn đề thường gặp phải
khi họ thực hiện mô hình đồng giảng dạy
trong bối cảnh giáo dục đặc biệt. Mô hình này
được cho là mang lại lợi ích to lớn cho sinh
viên (liên quan đến khía cạnh học tập, tự tin
và lòng tự trọng, hiệu quả kỹ năng xã hội,
quan hệ ngang hàng, thời gian và sự chú ý của
Nguyễn Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 117 - 122
118
giáo viên) và giáo viên (sự hài lòng chuyên
môn, phát triển chuyên môn, hỗ trợ cá nhân) .
Bên cạnh đó, các vấn đề được nêu ra bao gồm
khó khăn trong lên lịch trình cho việc cùng
chuẩn bị giáo án, lập kế hoạch cho học sinh,
mối quan tâm riêng của mỗi giáo viên và sự
hỗ trợ từ khâu quản lý hành chính.
Các mô hình đồng giảng dạy
Về các mô hình đồng giảng dạy, Cook và
Friend (1995) [3] đã cung cấp 5 mô hình : (1)
kiểu hỗ trợ giảng dạy trong đó một giáo viên
giảng còn giáo viên kia hướng dẫn và hỗ trợ
người học. (2) kiểu phân chia nội dung và
không gian giảng dạy trong đó người học sẽ
luân chuyển giữa các khu vực giảng dạy (3)
kiểu dạy song hành yêu cầu hai giáo viên
cùng lên kế hoạch cho bài học và sau đó phân
phối nó đồng thời cho một nửa số học sinh,
(4) kiểu dạy thay thế chia học sinh thành một
nhóm lớn và một nhóm nhỏ, giảng dạy
chuyên sâu được thực hiện cho các học sinh
có nhu cầu học tập đặc biệt, và (5) kiểu dạy
đồng đội trong đó cả hai giáo viên đều soạn
bài giảng. Giáo viên liên tục thay thế vai trò
giảng chính trong các bài học cụ thể. Dựa trên
các mô hình đã có, Vaughn và cộng sự (1997)
[6] cải thiện khâu hướng dẫn của mô hình hỗ
trợ giảng dạy - trong khi một giáo viên giảng
cho lớp, giáo viên kia cung cấp hướng dẫn
ngắn gọn cho từng học sinh, các cặp học sinh
hoặc các nhóm nhỏ. Walther-Thomas và cộng
sự (2000) [7] đã đề xuất mô hình dạy học
tương tác. Ở mô hình này, hai giáo viên trình
bày bài giảng cho cả lớp, luân phiên thay thế
vai trò của người giảng chính trong một
khoảng thời gian. Do vai trò dạy chính thay
đổi thường xuyên, cả hai giáo viên đều có cơ
hội để giữ vị trí giáo viên chính .
Trong các mô hình trên, các tác giả đều nhấn
mạnh vào các bước lập kế hoạch giảng dạy, hợp
tác giảng dạy và đánh giá hiệu quả giảng dạy.
Các yếu tố đảm bảo hiệu quả của mô hình
đồng giảng dạy
Để mô hình đồng giảng dạy đạt hiệu quả cao,
Takacs, S.E. (2015) [8] nhấn mạnh tầm quan
trọng của mối quan hệ giữa các giáo viên
đồng giảng, sự thống nhất trong nguyên lý
giảng dạy, sự hòa hợp trong khi giảng và hỗ
trợ hành chính từ nhà quản lý. Trong khi đó,
Bafaro. E (2016) [9] đã điều tra quá trình phát
triển quan hệ lâu dài giữa các giáo viên đồng
giảng và tiết lộ 4 yếu tố dẫn đến thành công,
đó là: tin tưởng lẫn nhau, nhận ra điểm mạnh
và điểm yếu của mình và đối tác, xử lý sự bất
đồng và phát triển hợp tác đồng giảng dạy.
Từ việc khảo cứu các tài liệu và nghiên cứu
trước đây về đồng giảng dạy, có thể thấy rằng
hầu hết các nghiên cứu trước đây tập trung
vào đồng giảng dạy trong giáo dục đặc biệt,
không có tiền lệ nào được thực hiện trong bối
cảnh dạy tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai
hoặc ngoại ngữ và cũng như không đề cập
đến sự bổ trợ lẫn nhau giữa các giáo viên có
nền tảng văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, các
nghiên cứu trước đây cung cấp cho nghiên
cứu này nền tảng lý luận hữu ích như các mô
hình đồng giảng dạy (nghiên cứu này sử dụng
mô hình tương tác), lợi ích và khó khăn của
mô hình đồng giảng dạy hoặc các yếu tố đảm
bảo thực hiện thành công đồng giảng bài.
Những điều này rất hữu ích cho khâu áp dụng
đồng giảng dạy vào thực tế trong bối cảnh cụ
thể của nghiên cứu này.
THỬ NGHIỆM MÔ HÌNH ĐỒNG GIẢNG
DẠY TẠI KHOA NGOẠI NGỮ
Ngữ cảnh
Những người tham gia trong thử nghiệm này
là 5 giáo viên tại Khoa Ngoại ngữ- Đại học
Thái Nguyên. 4 trong 5 giáo viên này là
người Việt Nam và đều có hơn 5 năm kinh
nghiệm giảng dạy. Một giáo viên là chuyên
gia người Mỹ. Ông là tiến sĩ tại Đại học
Florida, Mỹ. Ông nhận được chương trình
Học bổng Fulbright của Hoa Kỳ và làm việc
tại Khoa Ngoại ngữ trong năm học 2017-
2018. Ông đã có 17 năm kinh nghiệm giảng
dạy tiếng Anh cho người nói các ngôn ngữ
khác (TESOL) và tiến hành các nghiên cứu
liên quan đến phát triển văn hóa trong đào tạo
giáo viên EFL / ESL. Năm giáo viên đều tự
nguyện tham gia vào dự án. Tất cả các giáo
viên đã và đang giảng dạy môn Giao tiếp liên
văn hóa cho sinh viên năm thứ ba tại Khoa
Ngoại ngữ.
Sinh viên tham gia dự án là sinh viên chuyên
ngành tiếng Anh năm thứ ba, đang theo học kỳ
Nguyễn Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 117 - 122
119
thứ hai của năm học 2017-2018. Các sinh viên
này đều đang học môn Giao tiếp liên văn hóa.
Khóa học giao tiếp liên văn hóa kéo dài 15
tuần. Giáo viên Việt Nam và chuyên gia cùng
tham gia giảng dạy dựa trên mô hình hợp tác
hoặc giảng dạy tương tác. Các giáo viên thay
đổi vai trò trong lớp học một cách linh hoạt.
Ví dụ, giáo viên Việt Nam giới thiệu khái
niệm trong khi chuyên gia nước ngoài hướng
dẫn thực hành. Cả hai giáo viên cùng tham
gia vào quá trình đánh giá sinh viên. Trong
các bài học khác, các đối tác có thể đảo ngược
vai trò.
Quy trình thử nghiệm
Để đạt được hiệu quả cao nhất cho các tiết
dạy, các giảng viên tham gia chương trình
đồng giảng dạy thường thực hiện theo 03
bước, bao gồm: lên kế hoạch hay soạn giáo
án, đồng giảng dạy và đánh giá.
Trong bước lên kế hoạch, các giảng viên
thường dành ít nhất 1-6 tiếng một tuần để
chuẩn bị và thảo luận về nội dung cho bài học
mới thông qua gặp mặt trực tiếp và trao đổi
tài liệu, thông tin cập nhật qua e-mail. Khi
làm việc, các đối tác căn cứ vào nội dung giảng
dạy theo yêu cầu của chương trình để phân chia
nội dung giảng dạy và nêu ý tưởng, quan điểm
về các hoạt động sẽ thực hiện trong bài học. Từ
đó, một giáo án hoàn chỉnh được cả hai giảng
viên thống nhất và tiến hành.
Trong quá trình giảng dạy, hai giảng viên
thực hiện nhiệm vụ của mình theo kế hoạch
đồng thời hỗ trợ cho đối tác khi cần thiết.
Thông thường, nhiều phương pháp đồng
giảng dạy như: một người giảng - một người
hỗ trợ; cả hai cùng giảng dạy và hướng dẫn
lớp học; một người giảng - một người quan
sát; chia lớp học thành 02 nhóm nhỏ, mỗi
giảng viên phụ trách một nhóm... được vận
dụng một cách linh hoạt trong các tiết học
nhằm tăng cường khả năng lĩnh hội kiến thức
của sinh viên cũng như tạo ra một tiết học
sinh động, vui tươi. Hai giảng viên đều có
nhiệm vụ đưa ra đánh giá và chấm điểm cho
sinh viên sau mỗi phần thuyết trình theo thang
điểm đã định sẵn.
Sau mỗi buổi học, các đối tác tiếp tục trao đổi
và đưa ra đánh giá một cách khách quan và
cởi mở về tiết học cũng như ưu, nhược điểm
của giảng viên để khắc phục và phát huy
trong các tiết học sau.
Công cụ thu thập số liệu
Những ảnh hưởng của đồng giảng dạy được
đo lường thông qua các phương pháp thu thập
dữ liệu trên cả sinh viên và giáo viên. Dữ liệu
được thu thập thông qua hai khảo sát trực
tuyến cho giáo viên và sinh viên.
Phiếu điều tra cho giáo viên
Các giáo viên được hỏi về suy nghĩ tổng thể
của họ về kinh nghiệm đồng giảng dạy thông
qua khảo sát.
Phiếu khảo sát bao gồm 4 phần với tổng số 22
câu hỏi. Những phần này được thiết kế dựa
trên quá trình đồng giảng dạy: từ nhận thức về
đồng giảng dạy đến lập kế hoạch, giảng dạy,
phản hồi và kế hoạch trong tương lai. Phần 1
(6 câu hỏi) dành cho các giáo viên chia sẻ hy
vọng, thái độ, trách nhiệm và kỳ vọng của họ
về việc đồng giảng dạy. Phần này được áp
dụng từ danh sách kiểm tra của Murawski
[10] vì đây là một hướng dẫn hữu ích cho các
giáo viên khi tự đánh giá về nhận thức của
bản thân trước khi tham gia vào mô hình đồng
giảng dạy ở trường. Trong Phần 2 (3 câu hỏi),
các giáo viên được yêu cầu trả lời các câu hỏi
liên quan đến cách họ lên kế hoạch đồng
giảng dạy với chuyên gia. Phần 3 (5 câu hỏi)
liên quan đến cách giáo viên hướng dẫn trong
quá trình thực hành đồng giảng dạy. Cuối
cùng, các giáo viên được yêu cầu phản hồi về
kinh nghiệm và đưa ra các đề xuất để thực
hiện mô hình đồng giảng dạy trong Phần 4 (3
câu hỏi).
Phiếu điều tra cho sinh viên
Ngoài điều tra trên đối tượng giáo viên, các
nhà nghiên cứu đã thu thập thông tin về nhận
thức của sinh viên sau khi trải nghiệm mô
hình đồng giảng dạy. Công cụ được sử dụng
cho các sinh viên là một cuộc khảo sát gồm
mười câu hỏi, được chia thành ba phần. Phần
thứ nhất hỏi về nhận thức của sinh viên về
kinh nghiệm đồng giảng dạy (câu hỏi 1 bao
gồm các mục Likert khác nhau từ "Rất không
đồng ý" đến "Rất đồng ý"), phần hai bao gồm
các câu hỏi liên quan đến các lớp học đồng
giảng dạy (câu hỏi 2 -7), và phần thứ ba hỏi
Nguyễn Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 117 - 122
120
về về kỳ vọng của họ về kế hoạch cho mô
hình đồng giảng dạy trong tương lai (câu hỏi
8-10). Câu hỏi 2-10 là các câu hỏi mở, yêu
cầu các câu trả lời dài hơn của sinh viên.
Các cuộc khảo sát cho cả giáo viên và sinh viên
được tiến hành trong hai tuần cuối của học kỳ
trải nghiệm với mô hình đồng giảng dạy.
Hai cuộc khảo sát được tiến hành trực tuyến
(Google Surveys) để giảm chi phí và cho
phép người tham gia nhanh chóng điền vào
bảng câu hỏi trực tuyến bằng lời mời chứa
liên kết tới nó.
Các số liệu thu được từ phiếu điều tra dành
cho giáo viên và sinh viên sẽ được tính toán
theo tỷ lệ phần trăm sau đó được tổng hợp và
trình bày dưới dạng biểu đồ và bảng để minh
họa rõ hơn nhận thức của giáo viên và sinh
viên về mô hình đồng giảng dạy.
Kết quả thử nghiệm
Do khuôn khổ của bài báo, chúng tôi không
trình bày tường minh các đánh giá định lượng
mà chỉ trình bày tóm tắt các kết quả khảo sát
ở Khoa Ngoại ngữ để minh chứng tính hiệu
quả của mô hình đồng giảng dạy.
Những ảnh hưởng của đồng giảng dạy được
đo lường thông qua hai khảo sát trực tuyến
dành cho giáo viên và học sinh vào cuối kì.
Kết quả kiểm tra được thống kê như sau:
Đánh giá của sinh viên
Hầu hết sinh viên (>80%) đánh giá đồng
giảng dạy là một mô hình dạy học hiệu quả và
thú vị. Qua phần trả lời câu hỏi mở, họ cho
thấy cảm nhận là hiểu bài, đam mê và thích
thú học tập hơn khi tham gia lớp học kiểu này
bởi khi có vấn đề khó giải quyết, họ có thể
tham khảo không chỉ giáo viên nước ngoài
mà còn giảng viên Việt Nam; họ có cơ hội
được tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau
trong lớp học và nhận được phản hồi cũng
như nhận xét tỉ mỉ từ các góc nhìn khác nhau
về bài giảng, câu trả lời từ đó rút ra bài học
cho bản thân. Ngoài ra, họ nhận được sự quan
tâm sát sao hơn sinh viên ở các lớp học thông
thường. Với môn học Giao tiếp liên văn hóa,
sinh viên có cơ hội được trao đổi văn hóa,
giải quyết những vấn đề phức tạp liên quan
đến văn hóa ngay tại lớp học với giáo viên
người bản xứ, đây được coi là một cơ hội
đáng quý.
0
10
20
30
40
50
60
Tôi thích có
hai giáo viên
dạy trong lớp
học
Tôi nhận được
nhiều hỗ trợ
hơn so với lớp
học chỉ có 1
giáo viên
Tất cả sinh
viên được đối
xử công bằng
Tôi thích sự
phong phú về
các hoạt động
trong lớp học
Tôi học được
nhiều hơn khi
có 2 giáo viên
Sinh viên trong
lớp học hành
xử đúng mực
hơn khi có 2
giáo viên
Tôi thích có
hai giáo viên
dạy trong lớp
học khác
Rất đồng ý
Đồng ý
Trung lập
Không đồng ý
Rất không đồng ý
Bảng 1. Đánh giá của sinh viên
Nguyễn Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 117 - 122
121
Tuy nhiên, theo sinh viên, mô hình lớp học đồng giảng dạy vẫn còn tồn tại một số vấn đề. Sự
khác nhau về phương pháp giảng dạy đôi khi gây khó hiểu cho sinh viên và khiến sinh viên khó
thích nghi dễ dàng. Ngoài ra, sinh viên bày tỏ sự bối rối trong việc tiếp thu ý kiến nhận xét khi có
sự khác nhau trong quan điểm của giảng viên. Việc phải làm nhiều bài tập, tham gia nhiều hoạt
động nhóm, ngoại khóa đôi khi khiến sinh viên cảm thấy áp lực. Mặc dù vậy, hầu hết sinh viên
đều bày tỏ nguyện vọng được tiếp tục học tập với mô hình này ở các khóa học sau hoặc các môn
học khác như Đất nước học Anh-Mỹ, Văn học, Khẩu ngữ
Đánh giá của giáo viên
Các giảng viên tham gia dự án đều đánh giá cao hoạt động giáo dục này (60%: hiệu quả cao;
40%: hiệu quả).
Bảng 2. Đánh giá của giảng viên về tính hiệu quả của mô hình đồng giảng dạy
Theo họ, đây được coi là cơ hội tốt cho các
giáo viên trao đổi kinh nghiệm, kiến thức
cũng như hỗ trợ lẫn nhau. Trong quá trình
làm việc, họ luôn sẵn sàng giúp đỡ nhau, trao
đổi tài liệu, thông tin một cách cởi mở. Quy
trình làm việc (03 bước) luôn được thực hiện
đều đặn và quy củ tạo ra một không khí làm
việc nghiêm túc nhưng cũng hết sức thân thiết
giữa các giáo viên. Trong lớp học cũng như
ngoài lớp học, họ luôn hỗ trợ nhau khi cần
thiết. Ngoài kiến thức, trình độ chuyên môn
thì thái độ làm việc cũng đóng một vai trò
quan trọng. Theo họ, tính hiệu quả của dự án
không chỉ ở kết quả học tập của sinh viên mà
còn là mối quan hệ, thái độ làm việc tích cực
giữa các giảng viên được cải thiện rõ rệt.
Trong quá trình tiến hành mô hình đồng giảng
dạy, các giảng viên gặp không ít khó khăn,
trong đó việc bố trí thời gian để thảo luận,
đánh giá chung là một trong những rào cản
lớn nhất, tiếp đó là xung đột về tính cách cũng
như quan điểm và thiếu sự đào tạo chuyên sâu
về mô hình đồng giảng dạy. Họ hi vọng được
các cấp lãnh đạo đầu tư hơn nữa về cơ sở vật
chất và phương tiện kỹ thuật và nên được đào
tạo quy củ về chương trình đồng giảng dạy
nhằm tạo hiệu quả cao nhất.
Đánh giá chung: Kết quả trên đây đã chứng
minh việc vận dụng mô hình lớp học đồng
giảng dạy tại Khoa Ngoại ngữ đã có hiệu quả
bước đầu nhằm góp phần phát huy tính tích
cực của người học; nâng cao chất lượng giảng
dạy của giáo viên.
KẾT LUẬN
Bài viết đã trình bày một số vấn đề lí luận và
thực tiễn ứng dụng của mô hình dạy học đồng
giảng dạy. Qua tổng hợp nghiên cứu, phân
tích điểm mạnh và hạn chế của mô hình này,
người viết nghĩ rằng có thể ứng dụng mô hình
dạy học này tại các trường đại học ở Việt
Nam khi ý thức phát triển chuyên môn của
giảng viên càng ngày càng cao. Mặc dù, đây
chỉ là một trong nhiều mô hình thiết kế dạy
học, nhưng lựa chọn ứng dụng giảng dạy này
Nguyễn Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 117 - 122
122
sẽ giúp cho hoạt động dạy học trở nên đa
dạng và thú vị hơn đối với người học. Xét về
kết quả học tập, mô hình này chưa mang lại
tác động vượt trội so với mô hình dạy học
truyền thống, nhưng từ những hiểu biết về mô
hình lớp học đồng giảng dạy, có thể khẳng
định rằng nó sẽ giúp nâng cao ý thức, thái độ
đối với việc phát triển chuyên môn của giáo
viên đồng thời tạo ra thói quen học hợp tác ở
người học, những thái độ và kỹ năng không
thể thiếu đối với mỗi công dân toàn cầu, cho
dù ở trong hoàn cảnh văn hoá xã hội nào. Để
ứng dụng tốt mô hình này, điều quan trọng là
giáo viên phải làm việc cùng nhau trong việc
lập kế hoạch, tổ chức, giảng dạy và đánh giá
người học và quá trình đồng giảng dạy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bauwens, J., & Hourcade, J. J. (1995).
Cooperative teaching: Rebuilding the schoolhouse
for all students. Austin, TX: Pro-Ed.
2. Villa, R. A., Thousand, J. S., & Nevin, A. I.
(2004). A guide to co-teaching: Practical tips for
facilitating student learning. Thousand Oaks, CA:
Corwin Press.
3. Cook, L., & Friend, M. (1995). Co-teaching:
Guidelines for creating effective practices. Focus
on Exceptional Children, 28, 1–16.
4. Salend, S. J. (2008). Creating inclusive
classrooms: Effective and reflective practices.
Upper Saddle River, NJ: Pearson.
5. Walther-Thomas, & Christine, S. (1997). Co-
teaching experiences: The benefits and problems
that teachers and principals report over time.
Journal of Learning Disabilities, 30(4)
6. Vaughn, S., Schumm, J. S., & Arguelles, M. E.
(1997). The ABCDEs of co-teaching. Teaching
Exceptional Children, 30, 4–10.
7. Walther-Thomas, C., Korinek, L.,
McLaughlin, V., & Williams, B. (2000).
Collaboration for inclusive education: Developing
successful programs. Needham Heights, MA:
Allyn & Bacon.
8. Takacs, S.E. (2015). A Critical Look at Co-
Teaching Practices at the Secondary Level.
(Doctoral dissertation). Available from ProQuest
Dissertations and Theses database. (UMI No.
3706949)
9. Bafaro, E. (2016). An Investigation into the
Processes of Developing Positive Long-Term Co-
Teaching Partnerships (Doctoral dissertation).
Available from ProQuest Dissertations and Theses
database. (UMI No. 10191448)
10. Murawski, W.W. (2003). Co-Teaching in the
Inclusive Classroom: Working Together to Help
All Your Students Find Success Grades 6-12; p.36-
37. WA: Institute for Educational Development.
ABSTRACT
CO-TEACHING MODEL AT THE SCHOOL OF FOREIGN LANGUAGES
- THAI NGUYEN UNIVERSITY
Nguyen Thi Bich Ngoc
*
, Nguyen Thi Minh Loan, Phi Thi Mui
School of Foreign Languages - TNU
This article concerns the co-teaching model that is becoming more and more popular in the world.
Through the synthesis of the research, the paper presents the theoretical background of the co-
teaching model, the benefits as well as the considerations for application in the context of teaching
in Vietnam, especially at institutions of higher education. This article also presents a practical
model at the School of Foreign Languages - Thai Nguyen University and initial evaluation of its
effectiveness.
Key words: co-teaching, teaching model, planning, evaluation, cooperation
Ngày nhận bài: 05/11/2018; Ngày hoàn thiện: 16/11/2018; Ngày duyệt đăng: 28/12/2018
*
Tel: 0949 371386, Email: nguyenbichngoc.sfl@tnu.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 56_86_1_pb_564_2124480.pdf