Tài liệu Mở cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi lồng ngực với phương pháp vô cảm tê tại chỗ: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 93
MỞ CỬA SỔ MÀNG NGOÀI TIM QUA NỘI SOI LỒNG NGỰC
VỚI PHƯƠNG PHÁP VÔ CẢM TÊ TẠI CHỖ
Nguyễn Thị Ngọc Thủy*, Vũ Quang Việt**, Trịnh Minh Tranh***
TÓM TẮT
Mở đầu: Tràn dịch màng tim ác tính cần được can thiệp để giúp cải thiện chất lượng cuộc sống và tiếp tục
phác đồ điều trị đa mô thức ở những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Phẫu thuật mở cửa sổ màng ngoài tim
qua nội soi đã chứng minh được hiệu quả thoát dịch lâu dài nhưng còn hạn chế về việc phải gây mê toàn thân và
phân lập phổi. Dựa vào kĩ thuật tạo tràn khí màng phổi nhân tạo, BVND Gia Định đã thực hiện được phẫu thuật
này chỉ với tê tại chỗ, bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo và tự thở trong suốt cuộc mổ.
Mục tiêu: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả mở cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi lồng ngực với tê tại chỗ.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: báo cáo loạt ca, 14 bệnh nhân tràn dịch màng tim ác tính được phẫu
thuật mở cử...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 365 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mở cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi lồng ngực với phương pháp vô cảm tê tại chỗ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 93
MỞ CỬA SỔ MÀNG NGOÀI TIM QUA NỘI SOI LỒNG NGỰC
VỚI PHƯƠNG PHÁP VÔ CẢM TÊ TẠI CHỖ
Nguyễn Thị Ngọc Thủy*, Vũ Quang Việt**, Trịnh Minh Tranh***
TÓM TẮT
Mở đầu: Tràn dịch màng tim ác tính cần được can thiệp để giúp cải thiện chất lượng cuộc sống và tiếp tục
phác đồ điều trị đa mô thức ở những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Phẫu thuật mở cửa sổ màng ngoài tim
qua nội soi đã chứng minh được hiệu quả thoát dịch lâu dài nhưng còn hạn chế về việc phải gây mê toàn thân và
phân lập phổi. Dựa vào kĩ thuật tạo tràn khí màng phổi nhân tạo, BVND Gia Định đã thực hiện được phẫu thuật
này chỉ với tê tại chỗ, bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo và tự thở trong suốt cuộc mổ.
Mục tiêu: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả mở cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi lồng ngực với tê tại chỗ.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: báo cáo loạt ca, 14 bệnh nhân tràn dịch màng tim ác tính được phẫu
thuật mở cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi lồng ngực với tê tại chỗ, từ 01/2016 đến 11/2017.
Kết quả: 14 bệnh nhân đều có bệnh ác tính nguyên phát đã xác định, khó thở tư thế, tràn dịch màng tim tự
do, lượng nhiều trên X-quang/CT ngực và siêu âm, được gây tê tại chỗ để mở cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi
lồng ngực. Thời gian mổ trung bình 57,5 phút, nằm hồi sức 5,3 giờ, nằm viện trung bình 9,5 ngày. Không có
bệnh nhân nào cần chuyển mổ hở, chuyển mê toàn thân, bị biến chứng hoặc tử vong chu phẫu, theo dõi từ 2 tuần
đến 10 tháng không bệnh nhân nào có tái phát cần can thiệp.
Kết luận: Mở cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi lồng ngực với phương pháp vô cảm tê tại chỗ là phẫu thuật
khả thi, an toàn, hiệu quả đối với bệnh nhân tràn dịch màng ngoài tim ác tính.
Từ khóa: Tràn dịch màng ngoài tim ác tính, mở cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi, tê tại chỗ, nội soi lồng
ngực nội khoa, tràn khí màng phổi nhân tạo.
ABSTRACT
THORACOSCOPIC PERICARDIOSTOMY WITH LOCAL ANESTHESIA IN TREATMENT OF
MALIGNANT PERICARDIAL EFFUSION
Nguyen Thi Ngoc Thuy, Vu Quang Viet, Trinh Minh Tranh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 93 – 99
Background: malignant pericardial effusion needs surgical drainagefor symptoms relief, improvement in
quality of life and continuation of multimodular treatment in patient with advanced stage cancer. Thoracoscopic
or VATS pericardial windowhas been reported as a safe and effective procedure, but it requires general anesthesia
with single-lung ventilation. Base on artificial pneumothorax, thoracoscopic pericardiostomy can be done with
local anesthesia.
Objectives: To assess the effectiveness of thoracoscopic pericardiostomy with local anesthesia in the
treatment of malignant pericardial effusions in terms of safeness and survival.
Methods: Retrospective observational study, 14 patients with malignant pericardial effusion
underwentthoracoscopic pericardiostomy with local anesthesia, from 01/2016 to 11/2017.
* Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
*** Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Ngọc Thủy ĐT: 0909166181 Email: nguyenthucthuy@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 94
Results: 14patients had the definitive primary cancer, orthostatic dyspnea, large pericardial effusion on X-
ray/CTscan and echocardiography, underwent thoracoscopic pericardiostomy with local anesthesia. The mean
operating time was 57.5 miniutes with no complications, duration in SICU 5.3 hours, mean time hospitalization
9.5 days. No one had recurrent pericardial effusion reportedly and no one needed further pericardiocentesis or
surgical intervention.
Conclusions: thoracoscopic pericardiostomy with local anesthesia is a feasible procedure, safe and effective
for patients with malignant pericardial effusion.
Keywords: malignant pericardial effusion, thoracoscopic pericardiostomy, local anesthesia, medical
thoracoscopy, artificial pneumothorax.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tràn dịch màng ngoài tim là một vấn đề
thường gặp trên lâm sàng. Ở những bệnh nhân
ung thư, tràn dịch màng ngoài tim có đặc điểm
lượng nhiều và tái lập nhanh, dễ gây chèn ép tim
nguy hiểm đến tính mạng, đòi hỏi phải can thiệp
mở cửa sổ màng ngoài tim để thoát dịch lâu dài,
giúp bệnh nhân ổn định để tiếp tục hoá/xạ
trị/điều trị trúng đích, hoặc giảm nhẹ triệu chứng
giúp bệnh nhân dễ chịu hơn, góp phần nâng cao
chất lượng cuộc sống. Nauman Khalid và cộng
sự khuyên các bác sỹ lâm sàng nên nhận biết và
lựa chọn các phương pháp điều trị chăm sóc
giảm nhẹ thích hợp vì đó là vấn đề rất quan
trọng trong chiến lược điều trị ung thư, đặc biệt
là các mục tiêu giảm triệu chứng tái phát và cải
thiện chất lượng cuộc sống(8). Đối với nhóm bệnh
nhân này, kết hợp hóa trị và phẫu thuật mở cửa
sổ màng ngoài tim cho tỷ lệ sống sót và cải thiện
tốt hơn so với kết hợp hóa trị và thoát dịch màng
tim nội khoa hoặc hóa trị đơn thuần(2). Dữ liệu từ
các tài liệu cho thấy thoát dịch màng ngoài tim
bằng phẫu thuật so với phương pháp không
phẫu thuật cho kết quả tốt hơn, giảm triệu
chứng, tái phát tràn dịch và biến chứng(6).
Phẫu thuật mở cửa sổ màng ngoài tim là cắt
một mảnh màng tim vài cm tạo lỗ thoát dịch
vào khoang kế cận, thường là khoang màng
phổi(5,6). Có 3 phẫu thuật chính gồm phẫu thuật
qua đường mở ngực nhỏ, nội soi lồng ngực, và
mở cửa sổ tim dưới mũi kiếm xương ức. Tê tại
chỗ thường áp dụng trong mổ mở với ưu điểm
nhanh, hiệu quả, tuy nhiên còn nhiều hạn chế
như đau, vị trí, đường mổ dài, cắt xương
sườn..., còn can thiệp nội soi lồng ngực đòi hỏi
gây mê toàn thân, thậm chí phải phân lập phổi,
ít được chỉ định cho các bệnh nhân tràn dịch
màng ngoài tim, nhất là những trường hợp
nặng khó thở phải ngồi(5,7,10). Bệnh viện Gia
Định đã áp dụng thành công 2 phương pháp là
phẫu thuật nội soi lồng ngực mở cửa sổ màng
ngoài tim với phương pháp vô cảm mê nội khí
quản và mở cửa sổ màng ngoài tim dưới mũi
ức với tê tại chỗ(7,11).
Năm 2014, giáo sư Yossef Aelony, chuyên
gia về phổi - màng phổi người Mỹ, đã đến bệnh
viện Gia Định hướng dẫn về nội soi lồng ngực
nội khoa. Kĩ thuật này được thực hiện vào năm
1910 bởi Hans-Christian Jacobaeus dựa trên 3
nguyên tắc căn bản là tràn khí màng phổi nhân
tạo, nội soi, và dẫn lưu màng phổi(1). Đặc biệt kĩ
thuật tràn khí màng phổi nhân tạo, tạo khoảng
trống thao tác trong khoang màng phổi trong khi
bệnh nhân hoàn toàn tỉnh táo và tự thở, giúp
phẫu thuật viên có thể thực hiện mở cửa sổ
màng ngoài tim qua nội soi lồng ngực mà không
cần phải gây mê hay phân lập phổi.
Chúng tôi hồi cứu các trường hợp mở cửa sổ
màng ngoài tim qua nội soi lồng ngực với
phương pháp vô cảm tê tại chỗ tại bệnh viện
Nhân Dân Gia Định từ tháng 01/2016 đến
11/2017 để đánh giá tính an toàn và hiệu quả của
phương pháp này.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Báo cáo hàng loạt ca, từ tháng 01/2016 đến
11/2017
Bệnh nhân được chẩn đoán tràn dịch màng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 95
ngoài tim ác tính từ các bệnh viện bạn hoặc tại
các khoa nội. Bệnh ung thư nguyên phát ở tất cả
các bệnh nhân được điều trị trước đó bằng các
liệu pháp phẫu thuật, hóa trị, xạ trị hoặc điều trị
trúng đích theo phác đồ.
Các xét nghiệm chẩn đoán tràn dịch màng
ngoài tim gồm X quang phổi cho thấy bóng tim
to, có hay không tràn dịch màng phổi đi kèm, và
tổn thương phổi; siêu âm tim xác định dịch
màng ngoài tim với số lượng và dấu chèn ép nhĩ
phải hay thất phải trong kỳ tâm trương; CT scan
ngực trong các trường hợp mà chỉ tràn dịch
màng ngoài tim không giải thích được hết tình
trạng khó thở của bệnh nhân hoặc ung thư
nguyên phát từ cơ quan trong lồng ngực như
phổi, tuyến ức.
Bệnh nhân có thể được chọc hút giải áp để
bớt khó thở trước mổ và lấy dịch màng ngoài tim
phân tích tế bào học để xác định bệnh lý ác tính
di căn.
Hình 1: bóng tim to trên X-quang và hình ảnh cắt lớp điện toán tương ứng
Quá trình phẫu thuật
Bệnh nhân nằm ngửa tư thế Fowler cao hay
thấp tùy theo tình trạng khó thở của bệnh nhân.
Vô cảm: truyền 1g Paracetamol trước mổ 15
phút, tiêm 100mcg fentanyl hoặc 5-15mcg
sufentanyl ngay trước mổ, có thể tiêm
1mgmidazolam ở 1 số bệnh nhân lo lắng, gây tê
tại chỗ bằng 10-20ml lidocain 1% rộng rãi quanh
vùng đặt trocar.
Đặt trocar: dùng trocar tổng quát, có van cao
su kín ngăn thông thương khoang màng phổi
với môi trường ngoài, 1 trocar 10 tại khoang liên
sườn 5 hoặc 6 đường nách giữa đưa ống soi
quan sát, sau đó xác định vị trí tim và thành
ngực để đặt thêm 1-2 trocar 5 để thao tác, thường
ở khoang liên sườn 6/7 đường nách trước và
dưới quầng vú (nếu tim to sát thành ngực thì
không cần trocar này).
Thao tác: Hút sạch dịch màng phổi, dùng
bơm tiêm 50ml bơm khí vào khoang màng phổi
tương đương với lượng dịch đã hút ra nhưng
không quá 1000ml, thông thường bơm khoảng
500ml khí. Quan sát màng ngoài tim và vị trí
thần kinh hoành. Có thể dùng ống chích với kim
14G chọc hút dịch để xác định chắc chắn trước
khi mở trực tiếp vào khoang màng ngoài tim.
Dùng móc đốt tại vị trí đã xác định 1 lỗ nhỏ để
thoát bớt dịch, dùng ống hút để hút trực tiếp
hoặc hút sau khi dịch thoát vào khoang màng
phổi. Khi thoát dịch màng ngoài tim thì bệnh
nhân được chích tĩnh mạch 1 ống furosemide
20mg. Khi dịch thoát bớt, màng tim bớt căng và
chùng xuống, dùng kẹp gắp màng tim nâng lên
và đưa móc hoặc kéo vào cắt một mẫu màng tim
khoảng 1 - 2 cm2. Dịch màng ngoài tim được lấy
làm tế bào học và mảnh màng ngoài tim được
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 96
cắt gửi phân tích giải phẫu bệnh. Hút sạch dịch
và dẫn lưu màng phổi qua lỗ trocar 10, đóng các
lỗ trocar còn lại.
Hình 2: BN tỉnh táo trong và sau mổ mở cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi
Tất cả các bệnh nhân đều được mổ cấp cứu
hoặc bán cấp, ghi nhận thời gian mổ, các biến
chứng, thời gian dẫn lưu màng màng phổi, cải
thiện lâm sàng, x-quang phổi và siêu âm tim
sau mổ.
Theo dõi bệnh nhân sau xuất viện, phỏng
vấn qua điện thoại, đánh giá thời gian sống sau
mổ của bệnh nhân, tái phát dịch và cách xử trí.
Các dữ liệu về bệnh được ghi lại để phân
tích, bàn luận.
KẾT QUẢ
Từ tháng 01/2016 đến 11/2017 ghi nhận 14
bệnh nhân được thực hiện phẫu thuật mở cửa sổ
màng ngoài tim qua nội soi với phương pháp vô
cảm tê tại chỗ, gồm 7 bệnh nhân nam và 7 bệnh
nhân nữ tuổi từ 16 đến 61, tuổi trung bình 38,5.
Trong 7 bệnh nhân nam có 6 bệnh nhân ung thư
phổi, 1 bệnh nhân ung thư dạ dày, 7 bệnh nhân
nữ có 3 bệnh nhân ung thư phổi, 3 bệnh nhân
ung thư vú, 1 bệnh nhân ung thư hạch không
Hodgkin. Tỉ lệ di căn từ phổi là 57,1% chung cho
cả 2 giới và 85,7% đối với riêng giới nam.
Bảng 1: dữ liệu bệnh nhân trước, trong và sau mổ
BN Tuổi Giới Ung thư Chọc hút
trước mổ
DLMP trước
mổ
TG mổ
(phút)
Dịch màng
tim/phổi(ml)
Dẫn lưu
(ngày)
Nằm viện
(ngày)
1 58 Nữ Vú Có 35 200/500 8 9
2 60 Nữ Phổi Có 60 1000/300 3 3
3 34 Nữ Vú Có 65 300/600 17 18
4 40 Nữ Vú Có 30 500/600 9 10
5 41 Nam Phổi 70 600/700 5 7
6 57 Nam Dạ dày 70 200/500 4 5
7 44 Nam Phổi Có Có 45 500/200 10 11
8 38 Nam Phổi Có 60 600/300 11 12
9 47 Nữ Vú Có 50 600/400 3 4
10 58 Nam Phổi Có 65 200/300 18 19
11 16 Nữ Hạch Có 70 500/800 12 13
12 53 Nam Phổi Có Có 70 100/300 5 6
13 59 Nam Phổi 60 200/300 7 9
14 61 Nữ Phổi 55 200/500 5 6
TB 38.5 57,5 450/407,14 8,4 9,5
Bệnh nhân lúc nhập viện đều mệt, nặng
ngực và khó thở phải nằm đầu cao, mạch nhanh
>90 lần/ phút. Có 5 bệnh nhân (35.7%) cần thở
oxy qua canule mũi, 4 bệnh nhân (28,6%) được
ghi nhận có gan to và phù hạ chi.
Tất cả bệnh nhân đều được xác định tràn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 97
dịch màng ngoài tim bằng siêu âm tim, tràn dịch
lượng nhiều, khoảng cách lớp dịch > 20mm.
Trong đó có 2 bệnh nhân (BN 10, 11) có dấu đè
sụp thất phải. Bệnh nhân được chọc hút cấp cứu,
2 ngày sau mổ mở cửa sổ màng tim.
X-quang phổi tất cả đều có bóng tim to, chỉ
số tim – lồng ngực trước mổ từ 0,44 –0,78,
trung bình 0,64. Tất cả đều có tràn dịch màng
phổi đi kèm, đa số là ưu thế bên trái, có 3 bệnh
nhân tràn dịch màng phổi chiếm ưu thế phải
và được thực hiện phẫu thuật qua nội soi lồng
ngực bên phải.
Chụp cắt lớp điện toán được thực hiện ở 7
bệnh nhân, trong đó 5 bệnh nhân ung thư phổi
di căn hạch trung thất, 1 bệnh nhân ung thư vú,
1 bệnh nhân ung thư hạch ở trung thất trước,
giúp xác định các tổn thương đi kèm ở phổi và
chọn vị trí đặt trocar khi phẫu thuật. Đặc biệt,
hình ảnh cắt lớp điện toán giúp phẫu thuật viên
xác định đường mổ dưới mũi kiếm xương ức
không thuận lợi vì có khối hạch ác tính ở trung
thất trước
Chọc dò màng ngoài tim trước mổ được thực
hiện ở 10 bệnh nhân, dịch chọc hút 78,6% là dịch
máu đỏ sậm không đông, 40% tái phát trong
vòng 1 tháng, 1 bệnh nhân (BN11) tái phát
nhanh sau chọc chỉ 2 tuần, với tràn dịch lượng
nhiều có triệu chứng chèn ép tim cấp trên lâm
sàng và dấu đè sụp thất trên siêu âm.
Kết quả tế bào học dịch màng ngoài tim cho
kết quả ác tính 40% trường hợp, lấy mẫu màng
tim xét nghiệm giải phẫu bệnh ở tất cả 14 bệnh
nhân, 10 bệnh nhân có kết quả dương tính, tỉ lệ
71,4%. Trong đó có 3 bệnh nhân kết quả tế bào
học khi chọc dịch âm tính nhưng giải phẫu bệnh
màng ngoài tim có tế bào ác tính di căn.
Có 11 bệnh nhân được phẫu thuật qua nội
soi lồng ngực trái, 3 bệnh nhân thực hiện bên
phải, trong đó có 2 bệnh nhân nam. Số lượng
cổng vào (trocar) thay đổi theo từng bệnh nhân,
có 10 bệnh nhân đặt 3 cổng vào khoang ngực, 4
bệnh nhân chỉ đặt 2 cổng. Vị trí ống soi (camera)
ở khoang liên 5 đường nách giữa được đặt ở 9
bệnh nhân, ở khoang liên sườn 6 đường nách
giữa là 5 bệnh nhân.
Thời gian mổ tính từ lúc gây tê cho đến khi
băng vết mổ thay đổi từ 35 phút đến 70 phút,
trung bình là 57,5 phút. Không có bệnh nhân nào
cần chuyển sang mổ mở hay phải gây mê toàn
thân, không có biến chứng nặng trong mổ. Một
bệnh nhân (BN 8) bị sốc lúc gây tê, mệt vã mồ
hôi, mạch dao động giảm nhanh xuống 58 l/p,
huyết áp không đo được, bệnh nhân được tiêm
tĩnh mạch Atropin 0.1mg, sau 5 phút bệnh nhân
ổn định mạch 80 lần/ phút, huyết áp 120/80
mmHg, tiếp tục cuộc mổ an toàn.
Tất cả bệnh nhân đều tỉnh táo trong và sau
mổ, nằm theo dõi tại hồi sức từ 3 – 14 giờ, trung
bình 5,3 giờ.Tại hồi sức, bệnh nhân được cung
cấp oxy qua sond mũi khoảng 3-5l/p, thuốc tại
hồi sức là kháng sinh dự phòng và giảm đau
Paracetamol 1g truyền tĩnh mạch.
Thời gian dẫn lưu màng phổi trung bình
8,4 ngày. Cả 14 bệnh nhân bớt khó thở sau mổ,
xquang phổi sau mổ cho thấy bóng tim nhỏ đi.
Siêu âm tim sau mổ không có dịch màng tim
hoặc dịch màng ngoài tim lượng ít 1 – 2mm.
Không có biến chứng tràn máu màng phổi
hoặc biến chứng chảy máu cần can thiệp,
không có trường hợp nào nhiễm trùng hậu
phẫu. Thời gian nằm viện từ 3 – 19 ngày,
trung bình 9,5 ngày.
Chỉ có 8/14 bệnh nhân (57,1%) theo dõi được
qua tái khám và điện thoại. Thời gian sống còn
từ 2 tháng đến 10 tháng. Có 1 bệnh nhân (14,3%)
tử vong sau 2 tháng được cho là do bệnh ác tính
diễn tiến nặng mà không do cuộc mổ, siêu âm
tim kiểm tra lần nhập viện sau không có dịch
màng tim. Hiện còn 2 bệnh nhân vẫn còn sống
sau 4 tháng và sau 2 tuần. Không có trường hợp
nào cần can thiệp thêm về màng ngoài tim.
BÀN LUẬN
Tràn dịch màng ngoài tim ác tính là bệnh lý
di căn xa thường xuất phát từ ung thư phổi và
vú,85,7% bệnh nhân nam di căn từ phổi, nhóm
bệnh nhân nữ có thể từ những ung thư khác có
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Khoa 98
thể là ung thư vú, ung thư buồng trứng, hoặc
lymphoma. Điều này cũng phù hợp với tỉ lệ ung
thư mắc phải nói chung ở nam và nữ.
Các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
phù hợp y văn, chủ yếu là khó thở phải ngồi và
mạch nhanh, Xquang và siêu âm tim thể hiện
tràn dịch màng phổi lượng nhiều.
Một phẫu thuật lý tưởng nên có tỉ lệ biến
chứng thấp, tử vong thấp, dẫn lưu thoát dịch
hiệu quả và tỉ lệ tái phát dịch không đáng kể;
ngoài ra còn có thể lấy được bệnh phẩm làm tế
bào học, vi trùng, và giải phẫu bệnh. Ba
phương pháp phẫu thuật chính đã được mô tả
trong tổng số 19 nghiên cứu, với tỷ lệ thành
công tổng thể dao động từ 93,3 đến 100% và tỷ
lệ biến chứng liên quan dao động từ 4,5 đến
10,3%(6). Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện
14 bệnh nhân, tỉ lệ thành công 100%, không
ghi nhận biến chứng nặng.
Mặc dù tê tại chỗ, bệnh nhân hoàn toàn tỉnh
táo nên việc tháo dịch và bơm khí vào khoang
màng phổi phải được thực hiện từ từ để bệnh
nhân có thể thích nghi được, nhưng thời gian mổ
trung bìnhcủa chúng tôi cũng tương đương với
các tác giả khác. Mặt khác, thời gian tác dụng của
thuốc tê cũng là áp lực cho phẫu thuật viên,
không thể kéo dài cuộc mổ quá 2 giờ, do đó việc
đánh giá hình ảnh học trước mổ là rất cần thiết.
Chúng tôi chụp cắt lớp điện toán ở những bệnh
nhân nghi ngờ có tổn thương choáng chỗ trong
lồng ngực trên Xquang, nhất là những trường
hợp u phổi, trung thất, tràn dịch màng phổi
lượng nhiều. Thậm chí dẫn lưu màng phổi trước
khi chụp để khảo sát rõ các tổn thương, vị trí của
tim, vị trí tập trung của dịch để có thể chọn vị trí
cổng vào tốt nhất.
Các tác giả thực hiện mở cửa sổ màng ngoài
tim qua nội soi đều áp dụng gây mê toàn thân và
sử dụng thông khí một phổi, bệnh nhân có thể
nằm nghiêng, thường nghiêng phải và mổ bên
trái, có 3 cổng vào, 1 cho ống soi và 2 cổng tiếp
theo được sử dụng để nắm bắt và cắt giảm một
phần màng ngoài tim(3,4,7,9,11). Cách tiếp cận này có
tỉ lệ thành công > 90%. Vì gây tê nên việc giảm số
lượng cổng vào cũng sẽ giảm đau đớn cho bệnh
nhân, do đó rất đáng cân nhắc, trong trường hợp
thuận tiện chúng tôi thực hiện chỉ với 2 cổng
vào, và cả 4 bệnh nhân này đều được mổ an
toàn, lấy được mẫu bệnh phẩm màng ngoài tim.
Có 3 bệnh nhân được thực hiện nội soi
lồng ngực bên phải, bởi vì các bệnh nhân này
có tràn dịch màng phổi ưu thế bên phải, trong
đó có 1 bệnh nhân bị ung thư phổi phải, khác
với các tác giả khác là dựa vào khảo sát của
chụp cắt lớp điện toán, vị trí tràn dịch màng
tim khu trú hoặc tập trung ở thất phải. Theo
đánh giá của chúng tôi, nhờ kĩ thuật tạo tràn
khí màng phổi, việc thực hiện bên phải thuận
lợi hơn bên trái do phẫu trường rộng hơn,
không bị choáng chỗ bởi tim.
Bảng 2: so sánh với các phương pháp khác(3,4,5,9,10,11)
Nghiên cứu Thời gian mổ
(phút)
Thời gian mổ
trung bình
Hậu phẫu
(ngày)
Thời gian dẫn lưu
(ngày)
Tỉ lệ thành công (%)
Ichiro Sakanoue 37- 141 72 100
Geissbuhler 30-60 45 100
Georghiou GP 30-60 46 6,4 (3-16) 1-5, 2,5 100
Neragi-Miandoab 8,7 1-2 100
Văn T. 88,9
Vũ Q.V 30-90 66 3-5, 3,5 85,7
Nguyễn T.N.T 25-77 57,5 7,5 (3-19) 3-18, 8,4 100
Vấn đề gây mê và phân lập phổi thật bất lợi
khi bệnh nhân trong tình trạng nặng vì có thể
làm tuột huyết áp không hồi phục.Trong nghiên
cứu Neragi-Miandoab có 1 bệnh nhân phải
thông khí hỗ trợ qua nội khí quản 2 ngày sau
mổ(10). Việc áp dụng gây tê tại chỗ và tiền mê
trong mở cửa sổ màng tim qua nội soi lồng ngực
còn khá mới mẻ, nhưng hoàn toàn khả thi. Trong
quá trình thực hiện nội soi chúng tôi sử dụng
trocar mổ bụng, có van cao su bọc kín nên không
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 99
có sự thông thường giữa khoang màng phổi và
môi trường bên ngoài, do đó trong quá trình
thao tác bệnh nhân không quá khó chịu hay thở
phì phò. Tất cả bệnh nhân của chúng tôi được
làm với gây tê tại chỗ và tiền mê. Thuốc tê là
lidocaine 1-2%. Thời gian mổ trung bình là 57,5
phút, trong đó dịch màng ngoài tim khoảng 200-
1000ml được cho thoát từ từ qua chỗ xẻ màng
ngoài tim trước khi mở rộng và cắt một mảnh
gửi giải phẫu bệnh. Không có biến chứng tràn
khí hoặc tràn máu màng phổi, hoặc chảy máu
sau mổ. Tất cả bệnh nhân đều tỉnh táo trong và
sau mổ.
Chúng tôi đã ghi nhận thời gian sống sau mổ
mở cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi lồng ngực
với tê tại chỗ và mức độ tái phát dịch màng
ngoài tim để xem xét tính hiệu quả của phương
pháp. Điều đáng tiếc là, với số liệu hồi cứu khá
ít, chúng tôi chỉ theo dõi được có 8 bệnh nhân
(57,1%) và dữ liệu thu được qua điện thoại với
thân nhân cho thấy: trong 8 bệnh nhân này thì
hai bệnh nhân đang còn sống được 4 tháng và 1
tháng. Chỉ một bệnh nhân K phổi giai đoạn cuối
khó thở nhập viện lại sau 1 tháng nhưng siêu âm
tim kiểm tra không có tràn dịch màng ngoài tim
tái phát. Bệnh nhân này được điều trị giảm nhẹ
cho tới lúc mất tại bệnh viện. Nghiên cứu của
Geissbuhler cho thấy tỉ lệ sống còn có liên quan
đến việc di căn màng ngoài tim thực sự, được
xác định bằng giải phẫu bệnh mẫu cắt màng
ngoài tim, thời gian trung bình 4,8 tháng.
KẾT LUẬN
Phương pháp mở cửa sổ màng ngoài tim
qua nội soi lồng ngực với phương pháp vô
cảm tê tại chỗ khả thi, hiệu quả trong giải áp
màng ngoài tim, có thể thu thập được dịch và
mẫu bệnh phẩm để xác định di căn. Tuy nhiên
số liệu khá ít và thời gian theo dõi không hoàn
chỉnh nên không có bằng chứng đánh giá tỉ lệ
tái phát dịch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aelony Y (1991). Thoracoscopy Technique. In: C. Boutin, J. R.
Viallat, Y. Aelony. Practical Thoracoscopy, 1st edition, 13-41.
Springer-Verlag, Berlin Heidelbeig.
2. Çelik S, Lestuzzi C, Cervesato E, et al (2014). Systemic
chemotherapy in combination with pericardial window has
better outcomes in malignant pericardial effusions. J Thorac
Cardiovasc Surg; 148:2288-93.
3. Geissbuhler K, Leiser A, Fuhrer J, Ris HB (1998). Video-
assisted thoracoscopic pericardial fenestration for loculated or
recurrent effusions. Eur J Cardiothorac Surg; 14:403–08.
4. Georghiou GP, Stamler A, Sharoni E, Fichman-Horn S,
Berman M, Vidne BA et al, 2005. Video-assisted thoracoscopic
pericardial window for diagnosis and management of
pericardial effusions. Ann Thorac Surg; 80:607–10.
5. Ichiro S, Hiroshi H, Yu O, Kazuhiro M, Ei M, Yu S and Yutaka
T (2016). Efficacy and safety of thoracoscopic pericardial
window in patients with pericardial effusions: a single-center
case series. Journal of Cardiothoracic Surgery, 11:92-6.
6. Jama GM, Scarci M, Bowden J, Marciniak SJ (2014). Palliative
treatment for symptomatic malignant pericardial effusion.
Interact Cardiovasc Thorac Surg, Dec;19(6):1019-26.
7. Lê Nữ Thị Hòa Hiệp, Nguyễn Thị Ngọc Thủy (2008). Đánh
giá kết quả điều trị mở cửa sổ màng ngoài tim qua nội soi lồng
ngực. Tạp chí y học Việt Nam, số 2:401-6.
8. Nauman K, Lovely C, Sarah A A, David H S (2015).
Symptomatic malignant pericardial effusion due to advanced
pericardial malignancies: a palliative approach. Journal of
Thoracic Disease, Vol 7, No 4, April:102-3.
9. Neragi-Miandoab S, Linden PA, Ducko CT, Bueno R,
Richards WG, Sugarbaker DJ et al. VATS pericardiotomy for
patients with known malignancy and pericardial effusion:
survival and prognosis of positive cytology and metastatic
involvement of the pericardium: a case control study. Int J
Surg, 6:110–14.
10. Văn Tần, Hoàng Danh Tấn và cs (2004). Chỉ định, kĩ thuật và
kết quả cắt mở màng tim qua nội soi lồng ngực. Tạp chí y học
Thành phố Hồ Chí Minh, tập 8, số 1:389-91.
11. Vũ Quang Việt, Trịnh Minh Tranh, Nguyễn Thị Ngọc Thủy,
Phạm Trần Việt Chương (2009). Mở cửa sổ màng ngoài tim
dưới mũi kiếm xương ức trong tràn dịch màng ngoài tim ác
tính. Tạp chí y học thành phố Hồ Chí Minh, tập 13, số 6:140-5.
Ngày nhận toàn văn: 23/11/2017
Ngày nhận bài nhận xét: 24/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mo_cua_so_mang_ngoai_tim_qua_noi_soi_long_nguc_voi_phuong_ph.pdf