Mĩ thuật - Quy trình làm sơn mài truyền thống

Tài liệu Mĩ thuật - Quy trình làm sơn mài truyền thống: QUY TRÌNH LÀM SƠN MÀI TRUYỀN THỐNG Ngày nay, việc kết hợp sơn mài cùng những nguyên liệu khác đã tạo nên sự đa dạng về chủng loại sản phẩm. Bên cạnh các sản phẩm sơn mài có phôi gỗ, hình thức sử dụng phôi gốm, phôi MDF (Cót ván ép)... đã tạo ra nhiều sản phẩm sơn mài độc đáo, dần khẳng định vị thế thương hiệu Sơn mài Việt Nam trên thị trường thủ công mỹ nghệ quốc tế. 1. Nguyên liệu thô: Một sản phẩm sơn mài được kết tạo từ những nguyên liệu chính sau: + Sơn: được tạo từ cây sơn, dầu trẩu, dầu trám, nhựa thông và nhựa dó... + Màu: sơn mài cổ truyền dùng 2 màu cơ bản là cánh gián đen và đỏ, loại màu chế từ khoáng chất vô cơ (son) nên không bị phân huỷ trước ánh sáng và thời gian. + Các sản phẩm từ vàng như vàng thếp...  và các sản phẩm từ bạc như bạc thếp, bạc dán, bạc xay, bạc dầm... + Các vật liệu khác: vỏ trứng, vỏ trai, vỏ ốc, bột điệp... + Ngày nay, người ta đã chế tạo thành công các loại sơn công nghiệp có thể thay thế các loại sơn mài cổ truyền do có nhiều ưu điểm, nhất là ...

doc12 trang | Chia sẻ: khanh88 | Lượt xem: 539 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mĩ thuật - Quy trình làm sơn mài truyền thống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUY TRÌNH LÀM SƠN MÀI TRUYỀN THỐNG Ngày nay, việc kết hợp sơn mài cùng những nguyên liệu khác đã tạo nên sự đa dạng về chủng loại sản phẩm. Bên cạnh các sản phẩm sơn mài có phôi gỗ, hình thức sử dụng phôi gốm, phôi MDF (Cót ván ép)... đã tạo ra nhiều sản phẩm sơn mài độc đáo, dần khẳng định vị thế thương hiệu Sơn mài Việt Nam trên thị trường thủ công mỹ nghệ quốc tế. 1. Nguyên liệu thô: Một sản phẩm sơn mài được kết tạo từ những nguyên liệu chính sau: + Sơn: được tạo từ cây sơn, dầu trẩu, dầu trám, nhựa thông và nhựa dó... + Màu: sơn mài cổ truyền dùng 2 màu cơ bản là cánh gián đen và đỏ, loại màu chế từ khoáng chất vô cơ (son) nên không bị phân huỷ trước ánh sáng và thời gian. + Các sản phẩm từ vàng như vàng thếp...  và các sản phẩm từ bạc như bạc thếp, bạc dán, bạc xay, bạc dầm... + Các vật liệu khác: vỏ trứng, vỏ trai, vỏ ốc, bột điệp... + Ngày nay, người ta đã chế tạo thành công các loại sơn công nghiệp có thể thay thế các loại sơn mài cổ truyền do có nhiều ưu điểm, nhất là dễ dàng trong sản xuất tranh và màu sắc thì vô cùng phong phú. 2. Sản xuất: Có thể nói công nghệ sơn mài chỉ có nguyên lý chung nhưng khác biệt trong kinh nghiệm, kỹ thuật của từng cá nhân. Kỹ thuật làm tranh khác với làm tượng, lại khác với trang trí đồ vật, sơn phủ hoàng kim... Có thể chia làm một số công đoạn chính sau: bó hom vóc, trang trí, mài và đánh bóng. 2.1. Bó hom vóc:  Đây là công đoạn bó cốt gỗ (đồ vật cần sơn). - Dùng đất phù sa (có thể dùng bột đá) trộn sơn ta giã nhuyễn cùng giấy bản rồi hom, chít các vết rạn nứt của tấm gỗ. Mỗi lớp sơn lại lót một lớp giấy (hoặc vải màn) sau đó còn phải đục mộng mang cá để cài và gắn sơn cho các nẹp gỗ ngang ở sau tấm vóc (ván gỗ) để chống vết rạn xé dọc tấm vải. Sau đó để gỗ khô kiệt mới hom sơn kín cả mặt trước, mặt sau. Công đoạn này nhằm bảo vệ tấm vóc không thể thấm nước, không bị mối mọt, không phụ thuộc môi trường làm gỗ co ngót. 2.2 Trang trí: - Khi có được tấm vóc nói trên (hoặc các mô hình chạm khác bình hoa, các bộ đồ khác), người chế các món đồ phải làm các công đoạn gắn, dán các chất liệu tạo màu cho tác phẩm trước tiên như: vỏ trứng, mảnh xà cừ, vàng, bạc...sau đó phủ sơn rồi lại mài phẳng, tiếp đến dùng màu. Với kỹ thuật sơn phủ tượng và đồ nội thất như: hương án, hoành phi, câu đối... người thợ phải làm trong phòng kín và quây màn xung quanh để tránh gió thổi các nguyên liệu: quỳ vàng, quỳ bạc, tránh bụi bám vào nước sơn còn ướt. 2.3 Mài và đánh bóng: - Vì dầu bóng đã pha màu để vẽ nên độ bóng chìm trong cốt màu tạo thành độ sâu thẳm của sản phẩm do đó sau mỗi lần vẽ phải mài. Người xưa sử dụng lá chuối khô làm giấy nháp. Đến nay, nguyên tắc đánh bóng sản phẩm lần cuối chưa có gì thay thế phương pháp thủ công vì loại tranh này không được phép phủ dầu bóng. Đó chính là điểm độc đáo của sơn mài. Sự thành công của một tranh sơn mài nói riêng và sản phẩm sơn mài nói chung phụ thuộc rất lớn vào công đoạn sau cùng. Có một số thứ để mài và đánh bóng như: than củi xoan nghiền nhỏ, tóc rối, đá gan gà v.v.. Hiện nay, tranh sơn mài sử dụng nguyên liệu là sơn Nhật được dùng khá phổ biến. Sơn Nhật lại nhanh khô và làm cho việc ai đó muốn vẽ tranh ở nước ôn đới cũng có thể thực hiện được. Nhưng khi sử dụng sơn Nhật, để tranh được bóng, người ta thường dùng một lớp sơn trong (sơn cánh gián) phủ ra bên ngoài tranh, còn nếu tranh sơn mài dùng sơn ta, chỉ cần lấy nắm tóc rối xoa lên tranh, hoặc dùng bàn tay có độ ẩm (có ít mồ hôi) xoa lên tranh, tranh sẽ rất bóng. Tuy nhiên, tranh sơn màu dùng sơn ta vẫn được ưa chuộng hơn vì sự công phu trong quá trình làm tranh và khi nhìn, nó tạo độ sâu cho bức tranh hơn.  Sơn mài xuất hiện trên thế giới đã lâu, nhất là tại các nước vùng Đông Nam Châu Á: Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Miến Điện... Hiện nay, những nhà khảo cổ học còn đang tranh cãi về nguồn gốc, xuất xứ của ngành sơn mài cổ truyền. Quá trình hình thành và phát triển của sơn mài truyền thống Huế Tại Việt Nam, những vết tích đầu tiên về sơn mài đã được khai quật cách đây hàng trăm năm TCN. Vào thời Đinh (930-950), dân ta đã dùng mủ cây sơn để trét thuyền; rồi lần lượt qua các triều đại Lê, Lý, Trần còn giữ được nhiều cổ vật, nhiều pho tượng gỗ hay đất đều được sơn son thếp vàng... Mãi đến thời vua Lê Nhân Tông (1443-1460), cụ Trần Lư (hiệu Trần Thượng Công) mới được tôn là bậc thầy đầu tiên của ngành nghề này. Các học trò của cụ đã lập phường thợ tỏa đi khắp nơi, những người thợ giỏi được triều đình thu nạp vào nội phủ để trang trí, vẽ vời nội thất cung điện. Hiện nay, Huế là nơi mà những vết tích và tác phẩm sơn mài cổ còn được bảo lưu một cách quy mô và đầy đủ nhất. Có được điều này bởi Huế đã một thời là thủ phủ của xứ Đàng trong (1802-1945). Thời bấy giờ, Huế là nơi hội tụ của nhiều tài năng, trí tuệ của cả nước. Cùng với kiến trúc, điêu khắc, sơn mài có mặt khắp nơi: từ các đình chùa làng xã, đến đền đài lăng tẩm, cung điện của vua chúa đều được sơn thiếp vàng son lộng lẫy. Các vật dụng từ trong dân dã cho đến các gia đình quyền quý, các nhà thờ họ như: Hoàng Phi, câu đối, đáp, hộp, kiệu võng, án thư, sạp tử đều được sơn mài tô điểm trang trọng. Nguồn gốc của sơn mài Huế là ở các làng Triều Sơn, Địa Linh, Tiên Nộn. Ngành sơn mài truyền thống Huế cũng được sinh hoạt theo từng cụm gia đình, họ hàng theo kiểu cha truyền con nối như một số ngành nghề thủ công khác. Chất liệu chính để làm sơn mài là mủ nhựa được trích từ vỏ của cây sơn. Mủ nhựa của cây sơn có độ dính cao và rất bền chắc, chịu được nước mưa, nước mặn, độ ẩm cao. Vì vậy người ta dùng nhựa sơn để chắp nối gỗ ghép mộng hoặc sơn quét lên đồ đạc bằng gỗ vừa bóng đẹp lại vừa tăng độ bền. Trước đây, nhựa sơn được các chúa Nguyễn lấy từ các rừng ở Quảng Trị, Quảng Ngãi, Nam Đông (thuộc Thừa Thiên Huế), sau này là ở Phú Thọ và nhựa sơn ở Phú Thọ tốt hơn. Qua các phương pháp chế biến cổ truyền tại Huế, các nghệ nhân đã tạo nên những sản phẩm thủ công mỹ nghệ vô cùng quí giá. Để sáng tạo nên một tác phẩm sơn mài hòan chỉnh, các họa sĩ phải trải qua nhiều công phu, tỉ mỉ, với thời gian trung bình khoảng 6 tháng. Chỉ nói đến thời gian để tạo nên tác phẩm không thôi cũng đủ thấy "khủng khiếp" cho những ai không thực sự yêu nghề và đam mê bộ môn nghệ thuật này. Chính bởi sự công phu và tỉ mỉ của nó mà sơn mài truyền thống Huế có giá trị sử dụng rất lâu, có khi còn lâu hơn cả thời gian tồn tại của một đời người (từ khoảng 50 năm - 200 năm). Tất nhiên, việc sử dụng còn tùy thuộc vào chủ nhân của nó có biết "nâng niu" những tác phẩm nghệ thuật mình có hay không! Năm 1960, sơn mài truyền thống Huế được đưa vào giảng dạy ở trường Đại học Nghệ thuật Huế với tư cách là một bộ môn nghệ thuật thực sự. Một năm ngành học này chỉ tiếp nhận 2 đến 5 sinh viên, với đội ngũ giáo viên nhiệt huyết, tận tâm với nghề và luôn coi trọng cái "tư chất" của người theo học chứ không phải là "con số". Vì vậy mà nhiều thế hệ sinh viên ra trường đã trở thành những người hữu ích cho xã hội. Từ một tấm gỗ, khối gỗ thô sơ, để làm tốt phần "vóc" của sơn mài, trước hết người họa sĩ phải phủ trên mặt gỗ một lớp sơn sống trộn với bột đất và mạt cưa để làm "tít" gỗ, quá trình này còn được gọi là "chu hom"; Xong, phủ lên một lớp sơn sống để phát vải lên bề mặt gỗ rồi lại đem chu hom từ 5 đến 6 lần, trước mỗi lần chu hom mới phải ủ khô và mài; Rồi thì lót sơn 5 nước và ủ khô trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 ngày (tùy thuộc vào thời tiết). Để hoàn tất cái "cốt gỗ" (vóc) phải mất 2 tháng cho những bức sơn mài thông thường, đối với một số bức sơn mài nghệ thuật có khi mất cả năm trời. Sau đó, ta đi màu son 3 nước và mài bóng. Phần việc còn lại là trang trí bức sơn mài. Đối với loại sơn son thiếp vàng thì công đoạn này có phần đơn giản hơn: ta chỉ cần vẽ rồng, phủ vàng lá hay bạc lá lên trên rồi sơn lên một lớp sơn cánh dán và mài bóng. Đối với tranh sơn mài nghệ thuật thì phức tạp hơn nhiều, các công đoạn còn phụ thuộc rất lớn vào tính sáng tạo của họa sĩ: Khi bức tranh đã được mài nhẳn, muốn "cẩn" (vỏ trứng) lên tranh thì ta phải đụa gỗ theo phác thảo, cẩn vỏ trứng vào đem ủ khô rồi mới mài. Đến đây là phần việc của vẽ tranh và tạo màu. Sau khi vẽ tranh vào tạo màu hoàn tất ta ủ khô và sơn lên một lớp sơn cánh dán. Một thời gian khi bức tranh đã khô ta đem mài và đánh bóng bằng bột than cho mịn. Sự thành công của một bức tranh sơn mài phụ thuộc rất lớn vào công đoạn sau cùng. Sơn mài truyền thống có thể chia là 3 loại: Loại sơn quang gồm các vật dụng bằng mây, tre, gỗ, như hộp, quả, khay... được quang thếp một lớp sơn mỏng theo cách riêng, có nhuộm màu nhẹ, khá phổ biến trong dân dã; loại sơn son thếp vàng chỉ được thấy trong các gia đình quyền quý, khá giả, các nhà thờ họ, đình chùa, nhất là tại các lăng tẩm cung điện vua chúa... Nhưng nổi tiếng và độc đáo nhất là loại sơn mài đắp nổi. Về cơ bản cũng giống như sơn son thếp vàng nhưng các chi tiết được đắp nổi được trộn với hỗn hợp bột đá non, tro mo cau và giấy tinh giã nhỏ, tùy theo từng sản phẩm mà sử dụng cho thích hợp. Sơn mài đắp nổi có nhiều trong nội phủ, hoàng cung với nhiều chi tiết hoa văn vô cùng phong phú, tinh xảo. Nói đến sơn mài truyền thống Huế là nói đến thời gian và tính chất nghệ thuật của nó. Một bức sơn mài có thể đặt ở nơi trang trọng, uy nghi như đền đài, lăng tẩm, chùa chiền đến những ngôi nhà hiện đại mang đậm tính Tây phương đều được cả. Ơở mỗi nơi, mỗi vị trí, sơn mài mang một dáng vẽ riêng không thể lẫn lộn. Du khách, các nhà khảo cổ học trong và ngoài nước có dịp đến Huế đều không thể làm ngơ trước cảnh đẹp mà tạo hóa đã ban tặng cho Huế, nhất là trước vẻ đẹp trầm tư, uy nghi được các nghệ nhân và con người xứ Huế qua bao đời tôn tạo và gìn giữ. Trong những cái đẹp không thể phủ nhận ấy có cả cái đẹp của sơn mài truyền thống Huế. Tranh sơn mài thời gian qua “ra lò” khá nhiều. Một số triển lãm cá nhân còn trưng bày toàn tranh sơn mài. Điều này chứng tỏ tranh sơn mài vẫn có sức hấp dẫn lớn đối với các họa sĩ, kể cả các họa sĩ trẻ vốn ưa thích cái mới lạ và hiện đại Từ lâu, trong suy nghĩ của nhiều người, tranh sơn mài truyền thống Việt Nam vốn được xem là khó bứt ra khỏi khuôn mẫu đã được định sẵn. Đó là những màu sắc đỏ, vàng, đen, bạc đặc trưng, các công đoạn cầu kỳ tỷ mẩn, những kỹ thuật đã được đúc kết qua nhiều thế hệ. Nhưng qua sự phát triển của tranh sơn mài trong những năm gần đây mới thấy chính sự khuôn mẫu, định sẵn tưởng như bất di bất dịch ấy lại là mảnh đất rộng rãi để các họa sĩ tha hồ sáng tạo. Sự thật không thể phủ nhận là, cho đến nay nghệ thuật sơn mài Việt Nam đã có những cách tân đáng kể. Thông qua sự thể nghiệm, tìm tòi, các họa sĩ trẻ đã ít nhiều làm cho bộ mặt hội họa sơn mài truyền thống có nhiều nét mới, đa dạng, độc đáo hơn! Sự sáng tạo đầu tiên mà những người ít am hiểu hội họa nhất cũng rất dễ dàng nhận thấy, đó là bên cạnh cái sắc lóng lánh của vàng bạc, cái sắc đỏ tươi tắn của son và sắc đen quyến rũ của sơn ta, người ta còn thấy những sắc tím, sắc xanh, sắc hồng... khiến cho tranh sơn mài mất hẳn sự đơn điệu, nhàm chán về màu sắc. Rồi để tranh sơn mài có sức sống và mềm mại hơn, đồng thời tránh được sự cong vênh do thời gian và điều kiện khí hậu thời tiết, có họa sĩ đã nghĩ ra cách thay thế những tấm vóc đen bóng với vẻ đẹp thô cứng, góc cạnh bằng những quả bầu khô hay những tấm đá đen. Sự sáng tạo độc đáo này đã mang đến cho bức tranh sơn mài sự sống động và thanh thoát. Không ít yếu tố mới trong kỹ thuật sơn mài cũng được các họa sĩ khai thác và phát huy. Chẳng hạn như họa sĩ Võ Xuân Huy ở Huế đã tạo ra những hiệu ứng như “nhăn nhúm”, “mòn vẹt” khi phun những giọt nước li ti lên mặt sơn còn ướt hay tận dụng những vết nứt gãy xuất hiện do sự biến đổi bất ngờ của nhiệt độ ở một thời điểm nhất định trong quá trình ủ tranh để gửi gắm ý tưởng nghệ thuật. Những cách tân, sáng tạo đã mang lại cách biểu đạt phong phú hơn cho chất liệu sơn mài... Sáng tạo đến đâu để không xa rời cội rễ? Công chúng yêu hội họa ai cũng mừng khi thấy dòng tranh “quốc hồn quốc túy” của dân tộc có những nét mới hứa hẹn sự khởi sắc trước sự sáng tạo không ngừng của lớp họa sĩ trẻ. Nhưng không ít người trong số đó nhanh chóng cảm thấy ái ngại khi biết có họa sĩ chỉ trong vòng 2-3 năm sáng tác ra vài chục bức sơn mài. Con số ấy đã ít nhiều cho thấy chất lượng của tranh thế nào. Bởi theo cách làm sơn mài truyền thống thì để hoàn thành một bức tranh người họa sĩ phải mất đến hàng tháng, thậm chí hàng năm. Để chạy theo số lượng, nhiều họa sĩ đã sử dụng các hóa chất nhập ngoại như sơn điều, sơn Nhật Bản để vẽ, các công đoạn khác cũng ứng dụng máy móc công nghiệp chứ không hoàn toàn là thủ công như trước. Có người nói, thế thì đâu còn là tranh sơn mài nữa mà có lẽ nên gọi là tranh sơn Nhật thì đúng hơn. Người làm tranh sơn mài truyền thống đích thực phải là người tuân thủ và phát huy những truyền thống quý của nghệ thuật dân tộc, chỉ dùng sơn ta chứ không dùng sơn công nghiệp để vẽ. Lại có những họa sĩ đương đại vẽ tranh sơn mài nhưng lại bỏ qua khâu mài, và thay vì làm nhẵn thì họ lại làm sần sùi đi hoặc dùng thêm các chất liệu khác để phủ, đắp, gắn lên tranh sơn mài. Tuy cách làm đó vẫn chưa đến được những tạo hình có nghệ thuật, có thẩm mỹ và tương đối mới lạ, song đã đi khá xa so với nghệ thuật truyền thống. Theo ông Lê Huy Tiếp - Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật Hội Mỹ thuật Việt Nam thì thế giới vẫn gọi chung “sơn mài” là “lacquer” (vẽ bằng chất liệu sơn) - tức là có mài hay không cũng không quá quan trọng, còn ở Việt Nam, sơn mài có nghĩa là sơn và mài. Như vậy nếu chỉ còn phần sơn mà bỏ đi phần mài thì không thể gọi là sơn mài được. Nhiều người không phản đối việc dùng các chất liệu sơn khác nhau trong dòng tranh sơn mài kể cả việc không mài trong tranh. Điều mà họ quan tâm là bức tranh đó có đẹp không, có chứa đựng sự sáng tạo nào không? Thậm chí họ còn cho rằng đó là những cách để thổi hơi hướng hiện đại vào nghệ thuật truyền thống, đó mới là sự sáng tạo thực thụ của người nghệ sĩ đương đại... Vậy nhưng, có một điều cần phải nhắc lại là: Thế giới quan tâm đến hội họa Việt Nam chính bởi Việt Nam có chất liệu sơn mài. Những họa sĩ làm tranh sơn mài được thế giới thừa nhận cho đến nay vẫn chỉ là những người trung thành với kỹ thuật truyền thống. Dù những tìm tòi sáng tạo của các họa sĩ có phong phú đa dạng đến thế nào thì tranh sơn mài của Việt Nam chỉ thực sự có giá trị độc đáo khi giữ được chất liệu truyền thống và quy trình sáng tác hoàn toàn thủ công KỸ THUẬT SƠN MÀI VIỆT NAM Sơn mài được coi là một trong các chất liệu hội họa ở Việt Nam. Đây là sự tìm tòi và phát triển kỹ thuật của nghề sơn (nghề sơn ta) thủ công truyền thống của Việt Nam thành kỹ thuật sơn mài riêng. Tuy nhiên, từ dùng để gọi sơn mài (tiếng Anh: lacquer) thường được hiểu sang các đồ dùng sơn mỹ nghệ của Nhật, Trung Quốc. Xin lưu ý, kỹ thuật mài là điểm khác biệt lớn giữa đồ thủ công sơn mỹ nghệ và tranh sơn mài Việt Nam. Tranh sơn mài sử dụng các vật liệu màu truyền thống của nghề sơn như sơn then, sơn cánh gián làm chất kết dính, cùng các loại son, bạc thếp, vàng thếp, vỏ trai, v.v. vẽ trên nền vóc màu đen. Đầu thập niên 1930, những họa sĩ Việt Nam đầu tiên học tại trường Mỹ thuật Đông Dương đã tìm tòi phát hiện thêm các vật liệu màu khác như vỏ trứng, ốc, cật tre, v.v. và đặc biệt đưa kỹ thuật mài vào tạo nên kỹ thuật sơn mài độc đáo để sáng tác những bức tranh sơn mài thực sự. Thuật ngữ sơn mài và tranh sơn mài cũng xuất hiện từ đó. Tranh có thể được vẽ rồi mài nhiều lần tới khi đạt hiệu quả mà họa sĩ mong muốn. Sau cùng là đánh bóng tranh. Người ta thường lưu ý rằng sơn mài có những điểm "ngược đời": muốn lớp sơn vừa vẽ khô, tranh phải ủ trong tủ ủ kín gió và có độ ẩm cao. Muốn nhìn thấy tranh lại phải mài mòn đi mới thấy hình. Hầu hết họa sĩ đồng ý rằng: kỹ thuật vẽ sơn mài khó và có tính ngẫu nhiên nên nhiều khi các họa sĩ dày dặn kinh nghiệm cũng bất ngờ trước một hiệu quả đạt được sau khi mài tranh. Các nguyên liệu sử dụng trang trí Một sản phẩm sơn mài sử dụng khá nhiều nguyên liệu: đó là sơn, màu và các nguyên liệu khác. Có thể kể ra đây một vài nguyên liệu phổ biến như: * Sơn: khai thác từ cây sơn, ngoài ra còn dùng dầu trẩu, dầu trám, nhựa thông và nhựa dó... * Màu: sơn mài cổ truyền dùng 2 màu cơ bản là cánh gián đen và đỏ, loại màu chế từ khoáng chất vô cơ (ví dụ: son) nên không bị phân huỷ trước ánh sáng và thời gian. * Các sản phẩm từ bạc như bạc thếp, bạc dán, bạc xay, bạc dầm... * Các sản phẩm từ vàng như vàng thếp... * Các vật liệu khác: vỏ trứng, vỏ trai, vỏ ốc, bột điệp... * Ngày nay, người ta đã chế tạo thành công các loại sơn công nghiệp có thể thay thế các loại sơn mài cổ truyền do có nhiều ưu điểm, nhất là dễ dàng trong sản xuất tranh và màu sắc thì vô cùng phong phú. Các công đoạn chính của công nghệ sơn mài Có thể nói công nghệ sơn mài chỉ có nguyên lý chung nhưng khác biệt trong kinh nghiệm, kỹ thuật của từng cá nhân, từng gia đình cũng như nó được biến đổi kỹ thuật làm tranh khác với làm tượng, lại khác với trang trí đồ vật, sơn phủ hoàng kim... Có thể chia làm một số công đoạn chính sau: bó hom vóc, trang trí, mài và đánh bóng. Bó hom vóc Việc hom bó cốt gỗ (đồ vật cần sơn) ngày xưa thường được người làm sử dụng giấy bả, loại giấy chế từ gỗ dó nên rất dai, có độ bền vững hơn vải. Cách bó hom vóc được tiến hành như sau: dùng đất phù sa (ngày nay người thợ có thể dùng bột đá) trộn sơn ta giã nhuyễn cùng giấy bản rồi hom, chít các vết rạn nứt của tấm gỗ. Mỗi lớp sơn lại lót một lớp giấy (hoặc vải màn) sau đó còn phải đục mộng mang cá để cài và gắn sơn cho các nẹp gỗ ngang ở sau tấm vóc (ván gỗ) để chống vết rạn xé dọc tấm vải. Sau đó để gỗ khô kiệt mới hom sơn kín cả mặt trước, mặt sau. Công đoạn này nhằm bảo vệ tấm vóc không thể thấm nước, không bị mối mọt, không phụ thuộc môi trường làm gỗ co ngót. Xử lý tấm vóc càng kỹ, càng kéo dài tuổi thọ cho đồ vật cần sơn, mỗi tác phẩm sơn mài có tuổi thọ 400-500 năm. Trang trí Khi có được tấm vóc nói trên (hoặc các mô hình chạm khác bình hoa, các bộ đồ khác), người chế các món đồ phải làm các công đoạn gắn, dán các chất liệu tạo màu cho tác phẩm trước tiên như: vỏ trứng, mảnh xà cừ, vàng, bạc...sau đó phủ sơn rồi lại mài phẳng, tiếp đến dùng màu. Với kỹ thuật sơn phủ tượng và đồ nội thất như: hương án, hoành phi, câu đối... người thợ phải làm trong phòng kín và quây màn xung quanh để tránh gió thổi các nguyên liệu: quỳ vàng, quỳ bạc, tránh bụi bám vào nước sơn còn ướt. Mài và đánh bóng Vì dầu bóng đã pha màu để vẽ nên độ bóng chìm trong cốt màu tạo thành độ sâu thẳm của tranh, do đó sau mỗi lần vẽ phải mài. Người xưa sử dụng lá chuối khô làm giấy nháp. Đến nay, nguyên tắc đánh bóng tranh lần cuối chưa có gì thay thế phương pháp thủ công vì loại tranh này không được phép phủ dầu bóng. Đó chính là điểm độc đáo của tranh sơn mài. Sự thành công của một bức tranh sơn mài phụ thuộc rất lớn vào công đoạn sau cùng. Có một số thứ để mài và đánh bóng như: than củi xoan nghiền nhỏ, tóc rối, đá gan gà v.v.. Làng nghề sơn mài Việc làm sơn mài luôn phụ thuộc thời tiết - nó rất thích hợp mùa xuân và những ngày mưa đầu hạ. Điều đó làm ta thấy sự phân bố làm nghề sơn mài không những chia theo khu vực sản phẩm mà còn có yếu tố liên kết phục vụ lẫn nhau. Làng nghề sơn mài Phù Lào (Tiên Sơn - Bắc Ninh) thường lấy quỳ vàng, quỳ bạc của làng Kiêu Kị (Gia Lâm), lấy giấy dó của làng Đông Cao, lấy vải màn của làng Đình Cả, lấy vóc hoặc sản phẩm chạm khắc của làng Phù Khê, lấy nguồn sơn thô của Phú Thọ, Yên Bái và lấy nguồn dầu trẩu, dầu trám của Lạng Sơn, Cao Bằng... Hà Nội ngày nay vẫn là đầu mối tập trung nguyên liệu và các bậc chế tác nghệ thuật sơn mài nổi tiếng. Đa phần họ có gốc thành viên của các làng nghề truyền thống nhập cư Hà Nội và tạo nên 36 phố phường ngày trước. Sơn mài thời hiện đại Hiện nay, tranh sơn mài sử dụng nguyên liệu là sơn Nhật được dùng khá phổ biến. Do sơn ta có hạn chế là dễ gây tác động phụ cho người sử dụng (bị "sơn ăn"), ngoài ra, khi dùng sơn ta, tranh lại phụ thuộc vào thời tiết khá nhiều. Khi thời tiết có độ ẩm cao thì sơn càng nhanh khô, nếu thời tiết khô ráo (độ ẩm thấp) thì sơn rất lâu khô. Do vậy, sơn ta ít khi được dùng tại các nước có khí hậu khô ráo. Trong khi đó, sơn Nhật lại nhanh khô và làm cho việc ai đó muốn vẽ tranh ở nước ôn đới cũng có thể thực hiện được. Nhưng khi sử dụng sơn Nhật, để tranh được bóng, bây giờ người ta thường dùng một lớp sơn trong (sơn cánh gián) phủ ra bên ngoài tranh, còn nếu tranh sơn mài dùng sơn ta, chỉ cần lấy nắm tóc rối xoa lên tranh, hoặc dùng bàn tay có độ ẩm (có ít mồ hôi) xoa lên tranh, tranh sẽ rất bóng. Tuy nhiên, tranh sơn màu dùng sơn ta vẫn được ưa chuộng hơn vì sự công phu trong quá trình làm tranh và khi nhìn, nó tạo độ sâu cho bức tranh hơn. Sơn mài ngày nay không chỉ còn ứng dụng sản xuất tranh sơn mài, hoành phi hay câu đối... nó còn được phát triển để sản xuất các mặt hàng nội thất cao cấp như bàn ghế, giường tủ... Gốm sơn mài hiện là mặt hàng được ưa chuộng tại nhiều nước. Các họa sĩ nổi tiếng với tranh sơn mài Trước thập niên 1930, người ta chỉ dùng sơn ta trong trang trí đồ thờ cúng, làm hàng mỹ nghệ. Vào thời gian này, một số họa sỹ Việt Nam đầu tiên đang học như Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí, Phạm Hậu, Nguyễn Khang, Trần Văn Cẩn và nghệ nhân Đinh Văn Thành đã mạnh dạn thử nghiệm đưa kỹ thuật sơn ta vào làm tranh nghệ thuật. Các công đoạn chính để làm ra một sản phẩm sơn mài Sơn mài là một nghề thủ công truyền thống của Việt nam. Có thể nói công nghệ sơn mài chỉ có nguyên lý chung là SƠN và MÀI tức là sau khi tiến hành một lớp sơn sẽ tiến hành tiếp công đoạn mài, cứ như vây sau 7 lần SƠN và MÀI khác nhau để cho ra một sản phẩm sơn mài.  Để làm ra sản phẩmsơn mài cần phải có được kinh nghiệm, kỹ thuật của từg cá nhân, từng gia đình cũng như nó được biến đổi kỹ thuật làm tranh khác với làm tượng, lại khác với trang trí đồ vật, sơn phủ hoàng kim...  Có thể chia làm một số công đoạn chính sau: - Làm Vóc: Bó – Hom - Kẹt – Thí. - Trang trí: Vẽ mầu, thếp vàng, bạc, Cẩn Trai trứng.. - Thành phẩm: Phủ (Quang) lần 1, lần 2, đánh bóng bề mặt. + Bó, Hom Việc hom bó cốt gỗ (đồ vật cần sơn) ngày xưa thường được người làm sử dụng giấy bả, loại giấy chế từ gỗ dó nên rất dai, có độ bền vững hơn vải. Cách bó hom vóc được tiến hành như sau: dùng đất phù sa (ngày nay người thợ có thể dùng bột đá) trộn sơn ta giã nhuyễn cùng giấy bản rồi hom, chít các vết rạn nứt của tấm gỗ. Mỗi lớp sơn lại lót một lớp giấy (hoặc vải màn) sau đó còn phải đục mộng mang cá để cài và gắn sơn cho các nẹp gỗ ngang ở sau tấm vóc (ván gỗ) để chống vết rạn xé dọc tấm vải. Sau đó để gỗ khô kiệt mới homsơn kín cả mặt trước, mặt sau. Công đoạn này nhằm bảo vệ tấm vóc không thể thấm nước, không bị mối mọt, không phụ thuộc môi trường làm gỗ co ngót. Xử lý tấm vóc càng kỹ, càng kéo dài tuổi thọ cho đồ vật cần sơn, mỗi tác phẩm sơn mài có tuổi thọ 300-400 năm. Giữa các nước Bó và Hom có một lần mài, có thể mài khô (đánh giấy giáp) hoặc mài ướt. + Kẹt, Thí Sau khi Vóc được thi công qua Bó và Hom người thợ thủ công sé tiến hành kiểm tra toàn bộ các bề mặt của chi tiết gia công, trên bề mặt của chi tiết gia công nếu còn các vết xước, nồi lõmngười thợ thủ công sé tiến hành công đoạn Kẹt. Công đoạn Kẹt có tác dụng làm cho bề mặt chi tiết gia công được phẳng, nhẵn hoàn toàn. Sau khi Kẹt Người thợ thủ công sẽ tiến hành công đoạn Thí nước 1 và nước 2. Công đoạn này làm cho chi tiết có độ bóng sâu mọng bề mặt để tạo tiền đề công đoạn trang trí. + Trang trí Khi có được tấm vóc nói trên (hoặc các mô hình chạm khác bình hoa, các bộ đồ khác), người chế các món đồ phải làm các công đoạn gắn xà cừ, dán xà cừ hoặc các chất liệu tạo màu cho tác phẩm trước tiên như: vỏ trứng, mảnh xà cừ, vàng, bạc...sau đó phủ sơn rồi lại mài phẳng, tiếp đến dùng màu. Với kỹ thuật sơn phủ tượng và đồ nội thất như: hương án, hoành phi, câu đối... người thợ phải làm trong phòng kín và quây màn xung quanh để tránh gió thổi các nguyên liệu: quỳ vàng, quỳ bạc, tránh bụi bám vào nước sơn còn ướt. + Thành Phẩm Vì dầu bóng đã pha màu để vẽ nên độ bóng chìm trong cốt màu tạo thành độ sâu thẳm của tranh, do đó sau mỗi lần vẽ phải mài. Người xưa sử dụng lá chuối khô làm giấy nháp. Đến nay, nguyên tắc đánh bóng tranh lần cuối chưa có gì thay thế phương pháp thủ công vì loại tranh này không được phép phủ dầu bóng. Đó chính là điểm độc đáo của tranh sơn mài. Sự thành công của một bức tranh sơn mài phụ thuộc rất lớn vào công đoạn sau cùng. Có một số thứ để mài và đánh bóng như: than củi xoan nghiền nhỏ, tóc rối, đá gan gà v.v..

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docquy_trinh_lam_son_mai_truyen_thong_2695.doc
Tài liệu liên quan