Tài liệu Máy gia tốc từ nghiên cứu cơ bản đến ứng dụng thực tế: THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
8 Số 51 - Tháng 6/2017
Trong số khoảng 3 vạn máy gia tốc hiện
đang vận hành trên thế giới, phần lớn là dành
cho các ứng dụng trong công nghiệp (khoảng 2
vạn hệ thống). Có hai loại ứng dụng công nghiệp
chính là xử lý, chế tạo vật liệu và phân tích vật
liệu. Máy gia tốc cũng được áp dụng cho bảo vệ
môi trường, như làm sạch nước uống, xử lý nước
thải, khử trùng bùn thải và loại bỏ các chất gây ô
MÁY GIA TỐC
TỪ NGHIÊN CỨU CƠ BẢN ĐẾN ỨNG DỤNG THỰC TẾ
Các máy gia tốc là phát minh quan trọng của thế kỷ XX. Máy gia tốc ra đời từ những năm
1930 để cung cấp các hạt năng lượng cao nhằm nghiên cứu cấu trúc hạt nhân nguyên tử. Kể từ đó
đến nay, chúng đã được sử dụng để nghiên cứu nhiều khía cạnh của vật lý hạt. Mục tiêu của việc sử
dụng máy gia tốc là tăng tốc và gia tăng năng lượng của chùm hạt bằng cách tạo ra các điện trường
làm tăng tốc các hạt, và các từ trường định hướng và tập trung chùm hạt theo ý muốn. Trong hơn 8
thập ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 797 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Máy gia tốc từ nghiên cứu cơ bản đến ứng dụng thực tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
8 Số 51 - Tháng 6/2017
Trong số khoảng 3 vạn máy gia tốc hiện
đang vận hành trên thế giới, phần lớn là dành
cho các ứng dụng trong công nghiệp (khoảng 2
vạn hệ thống). Có hai loại ứng dụng công nghiệp
chính là xử lý, chế tạo vật liệu và phân tích vật
liệu. Máy gia tốc cũng được áp dụng cho bảo vệ
môi trường, như làm sạch nước uống, xử lý nước
thải, khử trùng bùn thải và loại bỏ các chất gây ô
MÁY GIA TỐC
TỪ NGHIÊN CỨU CƠ BẢN ĐẾN ỨNG DỤNG THỰC TẾ
Các máy gia tốc là phát minh quan trọng của thế kỷ XX. Máy gia tốc ra đời từ những năm
1930 để cung cấp các hạt năng lượng cao nhằm nghiên cứu cấu trúc hạt nhân nguyên tử. Kể từ đó
đến nay, chúng đã được sử dụng để nghiên cứu nhiều khía cạnh của vật lý hạt. Mục tiêu của việc sử
dụng máy gia tốc là tăng tốc và gia tăng năng lượng của chùm hạt bằng cách tạo ra các điện trường
làm tăng tốc các hạt, và các từ trường định hướng và tập trung chùm hạt theo ý muốn. Trong hơn 8
thập kỷ qua, máy gia tốc đã có nhiều đóng góp và làm thay đổi cuộc sống của con người. Với máy gia
tốc, người ta đã tạo ra các chùm tia X, electron, proton, notron và các hạt khác với các năng lượng
khác nhau. Thông thường, dải năng lượng được gọi là thấp khi hạt có năng lượng dưới 1 GeV, năng
lượng trung bình khi hạt có năng lượng trên 1 GeV và dưới 100 GeV và năng lượng cao khi trên 100
GeV (Theo định nghĩa, một eV bằng lượng năng lượng thu được hoặc bị mất khi 1 electron di chuyển
qua điện trường với hiệu điện thế 1 V và 1 eV bằng khoảng 1.6022x10-19 J). Loại hạt sử dụng phụ
thuộc vào mục tiêu của nghiên cứu, thí nghiệm.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
9Số 51 - Tháng 6/2017
nhiễm khỏi khói thải.
Khi các máy gia tốc tăng hiệu suất, các
chùm hạt cường độ cao (proton, electron và ion)
trở thành một trong những đòi hỏi quan trọng
được yêu cầu bởi đa số người sử dụng máy gia tốc
và cho hầu hết các ứng dụng. Nhiều lĩnh vực khác
nhau đòi hỏi phải có các máy gia tốc tiên tiến, từ
nghiên cứu cơ bản đến các ứng dụng trong khoa
học, y học và công nghiệp. Các nhà khoa học đã
và đang nỗ lực thực hiện việc theo đuổi nâng cao
hiệu suất các máy gia tốc cường độ cao.
Bài viết này đưa ra nguyên lý thiết kế của
các máy gia tốc điển hình và những ứng dụng
máy gia tốc từ nghiên cứu cơ bản đến ứng dụng
thực tế, giúp bạn đọc có thêm thông tin về các
máy gia tốc và ứng dụng của chúng.
Phân loại và nguyên lý hoạt động của máy gia
tốc
Máy gia tốc thường dùng để chỉ máy gia
tốc hạt, thiết bị tăng vận tốc hạt dưới mức nguyên
tử như proton, electron và positron hoặc các ion
nặng. Máy gia tốc hạt được phát minh ban đầu
cho mục đích nghiên cứu cấu trúc cơ bản của
vật chất, và sau này là các ứng dụng thực tiễn.
Máy gia tốc hạt có thể được chia thành hai nhóm
chính: máy gia tốc thẳng và gia tốc vòng. Trong
máy gia tốc thẳng các hạt được gia tốc khi chúng
di chuyển theo một đường thẳng, đôi khi trên
khoảng cách rất lớn. Với hệ máy gia tốc vòng các
hạt di chuyển và tăng tốc theo đường tròn hoặc
xoắn ốc với đường kính khác nhau từ ít hơn một
vài m đến nhiều km.
Trong các máy gia tốc thẳng, các hạt điện
tích được tăng tốc nhờ điện trường mạnh. Chẳng
hạn trong máy gia tốc có chiều dài 4 km tại phòng
thí nghiệm Stanford, các electron được gia tốc
đến năng lượng cỡ 50 GeV.
Trong các máy gia tốc vòng, hạt điện tích
chuyển động theo các quỹ đạo tròn dưới một từ
trường đều có hướng vuông góc với vận tốc hạt.
Đồng thời nằm trong một hộp hình tròn gồm hai
nửa hộp rỗng hình chữ D nối vào một hiệu điện
thế xoay chiều. Tất cả đều nằm trong chân không.
Khi đó, điện trường xoay chiều giữa hai hình D có
tác dụng tăng tốc cho hạt trong quá trình chuyển
động: Vận tốc hạt ngày càng tăng lên cùng với
bán kính quỹ đạo. Khi động năng của hạt tăng
lên đến giá trị đủ lớn thì người ta cho chùm hạt
bắn vào một tấm “bia” để tạo ra các phản ứng hạt
nhân. Sự va chạm của chùm hạt trong các máy
gia tốc có thể thực hiện với bia cố định, hoặc giữa
hai chùm hạt.
Vào những năm 1929-1933, nhà vật lý
người Mỹ, Robert J. Van de Graaff (1901-1967)
đã phát minh thiết bị mang tên ông - máy phát
Van de Graaff (Van de Graaff generator). Đây là
một loại máy phát điện tĩnh điện cao áp (cỡ 7
triệu volt) hoạt động như một loại máy gia tốc
hạt, là cơ sở cho nhiều máy gia tốc sau này.
Máy gia tốc thẳng (còn được gọi là
LINAC), máy gia tốc vòng (Cyclotron và
Synchrotron) là một số thiết bị phức tạp và tốn
kém nhất từng được chế tạo. Nói chung, mục
đích của chúng là tăng tốc các hạt tích điện, thông
thường là các electron, proton và các đồng vị,
cũng như các hạt dưới mức nguyên tử, với tốc độ
cực lớn. Các hạt này được sử dụng để điều trị các
khối u hoặc ung thư bên trong bệnh nhân. Các hạt
bắn vào các mẫu vật liệu (hoặc các chùm đi ngược
hướng với tốc độ tương tự cho các phản ứng năng
lượng cao hơn) cho phép xác định thành phần của
vật liệu dựa trên các phản ứng và tán xạ của các
hạt sau va chạm. Nhiều đồng vị được tạo ra sử
dụng cho mục đích y tế hoặc công nghiệp, khoa
học vật liệu và sinh học. Các máy gia tốc cũng
được sử dụng để tăng tốc độ của hạt để chúng có
thể được tiêm vào các máy gia tốc khác và đạt
đến vận tốc và động năng cao hơn.
Nguồn các hạt trong máy gia tốc được lấy
từ đâu? Máy va chạm Hadron lớn LHC (Large
Hadron Collider) tại Trung tâm Nghiên cứu hạt
nhân châu Âu (CERN) thực hiện tăng tốc và va
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
10 Số 51 - Tháng 6/2017
đập các proton, cũng như các ion chì nặng. Người
ta có thể nghĩ rằng LHC cần một lượng lớn các
hạt, nhưng các chùm proton trong vòng tròn chu
vi 27 km được cung cấp chỉ bởi một chai khí
hydro duy nhất, được thay thế hai lần mỗi năm.
Hình 1. Robert J. Van de Graaff và máy
phát mang tên ông
Máy gia tốc thẳng (LINAC)
LINAC gia tốc các hạt theo đường thẳng.
Các hạt, thường là electron, proton, và ion, đi
trong buồng chân không hình ống. Các điện cực
bên trong ống được đặt cách nhau để tần số vô
tuyến (RF) có thể được tính thời gian để kích
hoạt chúng như các hạt nằm trong khe hẹp giữa
các điện cực, và do đó tăng tốc chúng khi chúng
di chuyển từ khe này sang khe khác. Đối với hệ
LINAC công suất lớn, mỗi điện cực đều có nguồn
RF riêng.
Hình 2. Nguyên lý máy gia tốc thẳng
LINAC có thể gia tốc các ion nặng đến
vận tốc khó đạt được bởi máy gia tốc vòng
(Cyclotron và Synchrotron) vì chúng bị giới hạn
bởi cường độ của từ trường cần thiết để giữ các
ion trên đường cong. LINAC cũng tốt hơn cho
việc gia tốc các electron tới vận tốc tương đối
vì các electron mất năng lượng (và vận tốc) qua
bức xạ khi đi dọc theo vòng cung. Tuy nhiên, hệ
thống cần diện tích đất rộng nên tốn kém khi xây
dựng.
Máy gia tốc Cyclotrons
Không giống như LINAC, các Cyclotron
gia tốc các hạt dọc theo đường dẫn xoắn ốc hướng
ra ngoài và hạt được giữ trong đường dẫn đó bởi
một trường điện từ tĩnh vuông góc với đường
xoắn ốc. Các hạt tích điện được tiêm vào khoang
chân không giữa hai điện cực kim loại rỗng dạng
chữ D (gọi là “dees”) từ trung tâm của Cyclotron.
Một điện áp xoay chiều tần số vô tuyến (RF
voltage) vài ngàn volt được áp luân phiên cho
hai điện cực D. Thời gian của điện áp RF được
chuyển giữa các D, gia tốc các hạt và tăng đường
kính của đường tròn sau mỗi vòng quay, biến nó
thành xoắn ốc.
Hình 3. Nguyên lý máy gia tốc Cyclotron
Khi các hạt đi đến ranh giới “dees”,
chúng sẽ để các hạt đi qua một khoảng cách nhỏ
và hướng tới bia. Hạt đập vào bia có thể tạo ra
phản ứng hạt nhân, và các hạt từ phản ứng đó
có thể được hướng vào các thiết bị khác nhau để
phân tích.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
11Số 51 - Tháng 6/2017
Máy gia tốc hạt đầu tiên dạng Cyclotron
đặt tại Đại học California, Berkeley vào những
năm 1930 theo thiết kế của Ernest Lawrence.
Trong vài thập kỷ sau khi máy Cyclotron đầu tiên
được chế tạo từ năm 1934, Cyclotron là nguồn
cung cấp chùm hạt năng lượng cao hữu hiệu cho
các nghiên cứu vật lý hạt nhân. Các chùm hạt mà
các Cyclotron cung cấp phù hợp cho việc sản
xuất đồng vị sử dụng trong y học hạt nhân. Có
trên 1.200 Cyclotron trên thế giới được sử dụng
để tạo các đồng vị phóng xạ trong y tế. Chùm
hạt từ Cyclotron cũng được sử dụng để chiếu vào
cơ thể bệnh nhân nhằm tiêu diệt các khối u với
mức độ tổn thương tối thiểu cho phần khác của
cơ thể người. Các chùm hạt cũng còn được sử
dụng trong chụp ảnh PET/CT.
Máy gia tốc Synchrotrons
Synchrotron, cũng như Cyclotron, là
các máy gia tốc theo chu kỳ và phát các hạt vào
vòng tròn khép kín, hạt tăng tốc độ sau mỗi vòng
quay. Nhưng khác với Cyclotron, vòng lặp của
Synchrotron không phải là một xoắn ốc. Tùy
từng mục đích sử dụng khác nhau, Synchrotron
phải thực hiện việc tập trung, uốn cong và gia tốc
các hạt vào một chùm bên trong ống chân không -
có thể được thực hiện bằng các cụm thiết bị khác
nhau và vào các thời điểm khác nhau, đường đi
có thể là hình tròn, hình bầu dục hoặc đa giác với
các góc tròn.
Hình 4. Nguyên lý máy Synchrotron
Việc gia tốc chùm hạt được xử lý bằng
các khoang chứa sóng vô tuyến (RF) bố trí quanh
vòng tròn chuyển động của hạt. Một máy phát
điện RF cung cấp một trường điện từ cho khoang
đúc có hình dạng đặc biệt, chuyển đổi thành các
sóng điện từ cộng hưởng và tích tụ bên trong
khoang. Khi các hạt tích điện đi vào khoang, lực
và hướng của trường điện từ thu được sẽ gia tốc
chúng dọc theo vòng lặp.
Giữa máy gia tốc Cyclotron và
Synchrotron có sự khác biệt:
Thứ nhất, Cyclotron sử dụng từ trường và
điện trường tần số không đổi, nhưng Synchrotron
sử dụng các điện trường và từ trường biến đổi.
Thứ hai, Synchrotron có thiết kế ống dạng
hình trụ vòng xuyến, trong khi Cyclotron được
làm bằng buồng hình trụ hoặc hình cầu.
Thứ ba, các Synchrotron được sử dụng
trong hầu hết các dự án quy mô lớn như máy
gia tốc Hadron cỡ lớn (LHC) tại CERN, còn
Cyclotron chủ yếu được sử dụng trong các dự án
quy mô nhỏ.
Các máy gia tốc và nghiên cứu cơ bản
Vật lý hạt
Nghiên cứu về vật lí hạt đòi hỏi sử dụng
các máy gia tốc có năng lượng cao và / hoặc
cường độ cao với các chùm electron (positron),
muon, neutrino, proton (phản proton). Hệ thống
mới nhất của loại này là LHC (Large Hadron
Collider), được đưa vào hoạt động tại CERN năm
2010. LHC được thiết kế để gia tốc và va chạm
hai chùm proton với năng lượng đến 7 TeV.
Vật lý hạt nhân và các ngành khoa học
Nghiên cứu về các trạng thái vật chất yêu
cầu các máy gia tốc / năng lượng cao / trung bình
với cường độ cao hoặc các va chạm với electron
/ positron, proton / phản proton và các chùm ion
từ nhẹ đến nặng.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
12 Số 51 - Tháng 6/2017
Nhiều nghiên cứu về vật lý chất rắn và
môi trường đông đặc, sinh học, địa chất, khoa học
về con người đòi hỏi phải sử dụng các máy gia
tốc điện tử năng lượng thấp và trung bình. Trong
số nhiều dự án đang hoạt động thì SOLEIL tại
Pháp và DIAMOND tại Anh, là hai trong số các
cơ sở bức xạ Synchrotron được xây dựng gần đây
nhất.
Hình 5. Máy gia tốc tĩnh điện Tandem,
Pelletron 5SDH-2 tại khoa Vật lý, ĐH KHTN,
Đại học Quốc gia Hà Nội
Máy gia tốc trong lĩnh vực năng lượng
Việc chuyển đổi chất thải phóng xạ đòi
hỏi phải sử dụng các máy gia tốc proton năng
lượng trung bình và cường độ cao. Nguyên lý là
tạo ra nơtron từ bia do chùm proton đập vào. Các
tương tác của neutron với các đồng vị sống lâu
được chiết xuất từ các lò phản ứng hạt nhân, biến
đổi chúng thành những đồng vị dễ quản lý hơn.
Khái niệm về hệ thống điều khiển máy gia tốc
(ADS) đã được phát triển trong dự án MYRRHA.
Máy gia tốc hạt đang được áp dụng trong
nhiều hoạt động kinh tế - xã hội. Ban đầu được
phát triển cho nghiên cứu cơ bản, ngày nay chúng
được sử dụng cho nhiều ứng dụng, từ chăm sóc
sức khoẻ đến sản xuất chip silicon để giảm ô
nhiễm.
Máy gia tốc trong y học
Các máy gia tốc có kích thước khác nhau,
chủ yếu là Cyclotron năng lượng thấp, đã được
sử dụng để sản xuất đồng vị phóng xạ. Người ta
cũng đang nghiên cứu khả năng sản xuất đồng vị
phóng xạ dựa trên bức xạ nơtron gây va chạm và
chùm electron.
Phần lớn máy gia tốc y tế được sử dụng
để điều trị ung thư và sản xuất một số đồng vị
phóng xạ. Phần lớn trong số này là các máy gia
tốc tuyến tính sử dụng chùm electron. Tuy nhiên,
các máy gia tốc ion hoặc proton năng lượng thấp
cũng được sử dụng để điều trị các khối u, khi rất
khó điều trị bằng các phương pháp thông thường.
Lĩnh vực này đã được phát triển ở cả châu Á,
châu Âu và Mỹ.
Các máy gia tốc trong y tế, chẳng hạn như
LINAC được sử dụng dưới hai hình thức:
+ Gia tốc electron tới năng lượng cao, nơi
chúng va chạm với một mục tiêu kim loại nặng
để tạo ra tia X năng lượng cao
+ Sử dụng proton làm các hạt tăng tốc và
sử dụng các hạt nhân để va chạm trực tiếp với cơ
thể bệnh nhân.
Ưu điểm của tia X năng lượng cao do
máy gia tốc tạo ra là nguồn phóng xạ nhỏ hơn
nguồn phóng xạ Cobalt 60 và do đó cho hình ảnh
sắc nét hơn. Có ít hiệu ứng trên da và ít đau đớn
hơn cho bệnh nhân. Khả năng xuyên sâu lớn của
tia X năng lượng cao cho phép điều trị các khối u
ở sâu trong cơ thể.
Hình 6. Nguyên lý sử dụng máy gia tốc
trong y tế
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
13Số 51 - Tháng 6/2017
Các proton có năng lượng lên đến 250
MeV cũng được sử dụng. Các bức xạ tạo ra chùm
hạt sắc nét có thể điều trị các khu vực rất nhỏ của
cơ thể. Thay đổi điện áp gia tốc cho phép điều
chỉnh độ xuyên sâu khác nhau - ví dụ proton 200
MeV có khoảng xuyên sâu 27 cm trong mô, trong
khi chùm năng lượng 140 MeV chỉ đạt đến độ sâu
15 cm.
Hình 7. Máy gia tốc Cyclotron 30 MeV
tại Bệnh viện Trung ương quân đội 108
Máy gia tốc trong công nghiệp
Mặc dù ít được biết đến hơn các ứng dụng
khác, có rất nhiều ứng dụng công nghiệp sử dụng
máy gia tốc. Máy gia tốc ion, proton, electron
năng lượng thấp được sử dụng để cấy ion trong
công nghiệp bán dẫn, cắt và hàn bằng electron,
các máy chiếu xạ sử dụng chum electron và tia
X, chụp ảnh và kiểm tra không phá mẫu, phân
tích chùm ion, khử trùng thực phẩm, khử trùng
y tế v.v
Kết luận
Theo GS. Trần Đức Thiệp (Máy gia tốc,
NXB KHKT, Hà Nội 2002) tại Việt Nam các
máy gia tốc đầu tiên là các máy phát notron NA-
3-C do Hungary chế tạo và máy gia tốc điện tử
Microtron MT-17 do Liên Xô chế tạo đã được lắp
đặt vào các năm 1974 và 1982 tại Viện Vật lý,
Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt nam.
Cho đến nay, các nhà vật lý cũng như cộng đồng
khoa học Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu cơ
bản cũng như ứng dụng trên các máy gia tốc. Số
các dự án máy gia tốc cũng gia tăng mạnh mẽ trên
thế giới (hình 8).
Hình 8. Sự phát triển các dự án máy gia
tốc trên thế giới (Theo thống kê của mạng https://
gust.com/accelerators)
Các nhà vật lý sử dụng các máy gia tốc
hạt để trả lời các câu hỏi về vật lý cơ bản - vũ
trụ của chúng ta được tạo ra như thế nào, tại sao
các vật thể có khối lượng v.v... Khi phát minh ra
máy gia tốc, chúng mới chỉ là các công cụ nghiên
cứu thuần túy. Ngày nay, các máy gia tốc đã được
sử dụng bên ngoài các phòng thí nghiệm nghiên
cứu. Các máy gia tốc đã và đang đi ra khỏi các
phòng thí nghiệm và đã được ứng dụng trong
nhiều ngành công nghiệp, y tế và đời sống xã hội
trong nhiều thập kỷ, và nhiều ứng dụng mới sẽ
tiếp tục được phát triển.
Lê Đại Diễn
Trung tâm Đào tạo hạt nhân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37_9547_2143139.pdf