Tài liệu Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của cặp vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam: Xã hội học thực nghiệm Xã hội học số 3 - 2007 37
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của
cặp vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam
Đỗ Thiên Kính
Theo cuốn sách của Ochiai Emiko, mô hình gia đình hiện đại ở châu Âu xuất hiện vào
khoảng giữa thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX trong tầng lớp trung lưu. Các gia đình này có người
ở giúp việc, vợ chồng gắn kết với nhau bởi tình yêu và con cái ngoan ngoãn. Đây là một trong số
nhiều kiểu loại gia đình của xã hội. Các gia đình thuộc tầng lớp công nhân, đặc biệt là gia đình ở
tầng lớp nghèo hơn có hình ảnh khác hẳn: con cái nghiện rượu, vợ chồng hay cãi lộn nhau (Ochiai
Emiko, 1997: 79-81). Mặc dù có vẻ là hoàn hảo hơn các kiểu loại gia đình khác, nhưng gia đình
hiện đại vẫn chưa chiếm ưu thế trong xã hội. Hình ảnh về gia đình hiện đại được biết đến rộng rãi
hơn vào thế kỷ XX ở châu Âu. Những gia đình này, 2 hoặc 3 con, ngoan ngoãn, công việc nội trợ
thường do người vợ đảm nhận....
10 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 1038 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của cặp vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học thực nghiệm Xã hội học số 3 - 2007 37
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của
cặp vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam
Đỗ Thiên Kính
Theo cuốn sách của Ochiai Emiko, mô hình gia đình hiện đại ở châu Âu xuất hiện vào
khoảng giữa thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX trong tầng lớp trung lưu. Các gia đình này có người
ở giúp việc, vợ chồng gắn kết với nhau bởi tình yêu và con cái ngoan ngoãn. Đây là một trong số
nhiều kiểu loại gia đình của xã hội. Các gia đình thuộc tầng lớp công nhân, đặc biệt là gia đình ở
tầng lớp nghèo hơn có hình ảnh khác hẳn: con cái nghiện rượu, vợ chồng hay cãi lộn nhau (Ochiai
Emiko, 1997: 79-81). Mặc dù có vẻ là hoàn hảo hơn các kiểu loại gia đình khác, nhưng gia đình
hiện đại vẫn chưa chiếm ưu thế trong xã hội. Hình ảnh về gia đình hiện đại được biết đến rộng rãi
hơn vào thế kỷ XX ở châu Âu. Những gia đình này, 2 hoặc 3 con, ngoan ngoãn, công việc nội trợ
thường do người vợ đảm nhận. Điều này được thể hiện qua tỉ lệ nữ tham gia lực lượng lao động
đã giảm và tỉ lệ sinh cũng giảm trong toàn xã hội (Ochiai Emiko, 1997: 81).
Ngoài những đặc điểm và chức năng của gia đình nói chung, ta có thể đưa ra những
đặc điểm quan trọng khác của kiểu loại gia đình hiện đại ở thế kỷ XX (Biên tập lại từ cuốn
sách của Ochiai Emiko, 1977: 76-78) như sau:
A. Gia đình hiện đại là gia đình hạt nhân, có 2 hoặc 3 con.
B. Phân công lao động trên cơ sở giới: công việc nội trợ thường do người vợ đảm
nhận và người chồng là trụ cột kinh tế trong gia đình.
C. Vợ chồng gắn kết với nhau bởi tình yêu, hoặc là hôn nhân do tình yêu, mà không
phải hôn nhân do sắp đặt.
D. Con cái là trung tâm chú ý và được sự quan tâm chăm sóc trong gia đình.
E. Tính cá nhân của các thành viên trong gia đình được đề cao và tôn trọng.
Bước sang thế kỷ XXI, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, xã hội công nghiệp
phát triển, nhiều người vợ được giải phóng khỏi những công việc nội trợ trong gia đình và
tham gia vào lực lượng lao động xã hội. Đây là thời kỳ phụ nữ tham gia vào những hoạt động
xã hội nhiều hơn.
Có thể thấy rằng mẫu hình nghề nghiệp của hai vợ chồng trong mô hình gia đình hiện
đại ở châu Âu là sự phân công lao động trên cơ sở giới: công việc nội trợ trong nhà thường
do người vợ đảm nhận và người chồng tham gia vào lực lượng lao động xã hội và là trụ cột
kinh tế trong gia đình.
Bài viết này dựa trên cơ sở số liệu của Dự án: “Nghiên cứu liên ngành về gia đình Việt
Nam trong chuyển đổi (2004-2007)”. Mẫu nghiên cứu của Dự án gồm 900 hộ gia đình được lựa
chọn ở 3 xã, đại diện cho 3 miền: Bắc (Yên Bái), Trung (Thừa Thiên - Huế) và Nam (Tiền
Giang) của Việt Nam. Thời gian thực hiện nghiên cứu là 3 năm: năm 2004 (Yên Bái), năm 2005
(Tiền Giang), và năm 2006 (Thừa Thiên - Huế).
Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của cặp vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
38
Trong bài viết chỉ đề cập đến những gia đình có đầy đủ cả hai vợ chồng. Mục đích là
tìm hiểu mẫu hình việc làm/nghề nghiệp của hai vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam.
Mẫu hình việc làm/nghề nghiệp này sẽ được thể hiện như thế nào tại thời điểm kết hôn và thời
điểm hiện nay? Qua đó, có thể đưa ra được mẫu hình nói chung về việc làm/nghề nghiệp của
vợ chồng với một số đặc thù và những vấn đề đặt ra cho gia đình Việt Nam. Số người trả lời ở
các gia đình có đầy đủ vợ chồng (chung 3 tỉnh) như sau:
Kiểu gia đình (%
hàng)
Mức sống
hộ gia đình
% hộ &
(N)
Số con
TB
Tuổi
TB
Số năm
học TB
Hạt nhân Khác
- Khá giả 18,0
(159)
2,0 45,6 7,0 58,5 41,5
- Trung bình 53,6
(474)
2,1 42,4 6,5 67,9 32,1
- Nghèo 28,5
(252)
2,6 44,5 5,0 71,4 28,6
Tổng số (%) &
(N)
100,0
(885)
2,2 43,6 6,2 67,2 (595) 32,8 (290)
1. Vấn đề việc làm và thu nhập của hai vợ chồng
Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên cuộc hôn nhân giữa hai vợ chồng là có
nguồn thu nhập ổn định (ngoài yếu tố tình yêu). Những hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập
của vợ chồng trong vài năm đầu sau khi kết hôn và hiện nay được thể hiện trong bảng dưới
đây.
Bảng 1: Hoạt động mang lại thu nhập của hai vợ chồng (đ.v = %)
Chung 3 tỉnh
Khi kết hôn Hiện nay
Các dạng hoạt động
Vợ Chồng Vợ Chồng
1. Làm việc có thu nhập 95,5 95,8 87,5 90,7
2. Có công việc nhưng không
đi làm 0,3 0,5 0,1
3. Không làm việc và đang
tìm việc 0,1 0,1 0,1
4. Trông nom nhà cửa 2,9 6,5 1,6
5. Đi học 0,5
6. Không thể làm việc được 0,8 1,9 2,5
7. Nghỉ hưu 2,5 3,9
8. Làm việc khác 1,2 2,8 0,9 0,9
9. Không trả lời 0,1 0,2
Tổng số: (N), % (885) 100,0 (885) 100,0 (882) 100,0 (884) 100,0
Một số nhận xét từ Bảng 1 như sau:
Đỗ Thiên Kính
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
39
- Hầu hết các cặp vợ chồng đều có việc làm tạo thu nhập riêng. Nguồn tạo thu nhập
này là tương đối ngang bằng nhau giữa vợ và chồng (khi kết hôn là: 95,5% đối với vợ, và
95,8% đối với chồng; còn hiện nay là: 87,5% đối với vợ, và 90,7% đối với chồng). Tuy nhiên
vào thời điểm kết hôn, có tỉ lệ 2,9% số người vợ ở nhà trông nom nhà cửa, và 0,3% số người
vợ có công việc nhưng không đi làm. Tổng cộng lại, ta có 3,2% số người vợ không có việc
làm tạo thu nhập, tức là không có nguồn thu nhập đóng góp vào ngân quỹ của gia đình trẻ.
Trong khi đó, không có người chồng nào ở trong tình trạng như vậy. Điều này tạo nên tình
trạng kém hơn của người vợ đối với người chồng trong việc đóng góp thu nhập cho gia đình
ngay từ khi mới kết hôn.
- Tiếp theo, trong quá trình chung sống người chồng có việc làm mang lại thu nhập
nhiều hơn người vợ (90,7% > 87,5%). Hơn nữa, khi so sánh giữa thời điểm hiện nay với thời
điểm kết hôn, ta thấy tỉ lệ có việc làm tạo thu nhập của cả chồng và vợ đều giảm đi, nhưng tỉ
lệ này ở người vợ giảm nhanh hơn chồng. Cụ thể là, tỉ lệ có việc làm tạo thu nhập của người
vợ đã giảm 8,0% (8,0% = 95,5% - 87,5%), còn của người chồng giảm 5,1% (5,1% = 95,8% -
90,7%). Như vậy, theo thời gian, người vợ đã bị giảm việc làm có thu nhập nhiều hơn chồng
(8,0% > 5,1%). Điều này thể hiện sự tăng lên về tình trạng ưu thế của nguời chồng so với
người vợ trong quá trình chung sống. Trái ngược với điều này là tình trạng kém đi của người
vợ ngày càng nhiều hơn. Đồng thời, tỉ lệ trông nom nhà cửa của người vợ tăng lên từ 2,9%
(khi kết hôn) lên 6,5% (hiện nay). Người vợ có xu hướng quay trở về với công việc nội trợ
(trông nom nhà cửa) nhiều hơn, tương ứng với thâm niên hôn nhân và độ tuổi các cặp vợ
chồng. Điều này là hợp lý trong chu trình sống của gia đình.
Như vậy, xét từ những hoạt động mang lại thu nhập của hai vợ chồng, ta thấy vai trò
giữa vợ và chồng là tương đối ngang bằng nhau. Nhưng dù sao, người vợ cũng thể hiện xu
hướng có vị thế kém hơn người chồng. Hơn nữa, trong quá trình chung sống (từ khi kết hôn
cho đến hiện nay) vị thế kém hơn của người vợ đối với người chồng trong việc đóng góp thu
nhập cho gia đình đã tăng lên theo thời gian.
2. Hai vợ chồng có việc làm chính là gì?
Việc làm/nghề nghiệp ở đây được hiểu là thuộc lĩnh vực ngành nghề gì, chứ không
phải là tên gọi việc làm/nghề nghiệp cụ thể. Bảng số liệu về việc làm/nghề nghiệp thuộc lĩnh
vực ngành nghề của hai vợ chồng được trình bày dưới đây.
Nhận xét từ Bảng 2 như sau:
Trên địa bàn nông thôn, các cặp vợ chồng chủ yếu làm việc trong lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp. Nhưng, tỉ lệ những người vợ có nghề nông là cao hơn người chồng (khi kết hôn
là: 72,1% > 62,6%; còn hiện nay là: 67,2% > 64,0%). Ngược lại điều này, đương nhiên là tỉ lệ
những người chồng có nghề phi nông sẽ cao hơn người vợ. Trong số đó, nghề phi nông thuộc
lĩnh vực “Công nghiệp/ Tiểu thủ công nghiệp” thường có ưu thế hơn so với các nghề phi nông
khác, thì tỉ lệ về nghề nghiệp loại này của người chồng cũng cao hơn người vợ (khi kết hôn là:
9,4% > 5,7%; còn hiện nay là: 8,2% > 4,1%). Lao động trong lĩnh vực nông nghiệp thường là
vất vả, mà thu nhập lại ít. Nghề phi nông mang lại thu nhập cao hơn. Điều này tạo nên tình
trạng kém hơn của người vợ đối với người chồng trong lĩnh vực hoạt động ngành nghề. Hơn
nữa, tỉ lệ những người vợ “Không nghề nghiệp” cũng cao hơn người chồng: (khi kết hôn là:
2,4% > 0,7%; còn hiện nay là: 5,2% > 2,2%). Tất cả những điều này tạo nên vị thế vẫn kém
hơn của người vợ đối với người chồng trong lĩnh vực hoạt động ngành nghề.
Bảng 2: Lĩnh vực ngành nghề của hai vợ chồng (đ.v = %)
Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của cặp vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
40
Chung 3 tỉnh
Khi kết hôn Hiện nay
Các lĩnh vực ngành nghề
Vợ Chồng Vợ Chồng
1. Công nghiệp/Tiểu thủ công
nghiệp 5,7 9,4 4,1 8,2
2. Nông nghiệp/Lâm
nghiệp/Thủy sản 72,1 62,6 67,2 64,0
3. Dịch vụ XH (Ytế, G.dục,
K.học...) 4,9 5,3 4,4 5,0
4. Kinh doanh/Dịch vụ khác 10,3 8,4 13,2 10,9
5. Bộ đội/Công an 0,6 6,3 0,3 2,0
6. Khác 4,2 7,4 5,6 7,8
7. Không nghề nghiệp 2,4 0,7 5,2 2,2
8. Không trả lời 0,1
Tổng số: (N), % (884)
100,0
(884)
100,0
(874)
100,0
(874)
100,0
Khu vực và nơi làm việc của hai vợ chồng
Bảng 3: Hai vợ chồng làm việc cho ai? (đ.v = %)
Chung 3 tỉnh
Khi kết hôn Hiện nay
Khu vực, nơi làm việc
Vợ Chồng Vợ Chồng
1. Hộ gia đình/bản thân 78,7 65,5 81,2 73,0
2. Tư nhân là người họ
hàng 0,8 1,0 2,0 2,2
3. Tư nhân không phải là
họ hàng 4,6 8,5 4,4 9,1
4. Hợp tác xã 5,0 6,2 4,3 4,6
5. Nhà nước 10,1 16,8 7,1 9,2
6. Cơ sở liên doanh với
nước ngoài 0,2 0,2 0,2
7. Cơ sở 100% vốn nước
ngoài 0,1 0,1
8. Khác 0,7 1,8 0,6 1,5
9. Không trả lời 0,1 0,2
10. Không biết 0,1
Tổng số: (N), % (864) (875) (871) (879)
Đỗ Thiên Kính
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
41
100,0 100,0 100,0 100,0
Một số nhận xét từ Bảng 3 như sau:
- Do các cặp vợ chồng chủ yếu lao động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, cho nên
họ cũng thường làm việc này cho hộ gia đình của mình là chính. Nhưng dù sao, người chồng
cũng lao động cho gia đình của mình ít hơn người vợ (khi kết hôn là: 65,5% đối với người
chồng < 78,7% đối với người vợ; còn hiện nay là: 73,0% đối với người chồng < 81,2% đối
với người vợ). Như vậy, việc làm của người chồng có xu hướng hoạt động ra bên ngoài gia
đình nhiều hơn; và người chồng thể hiện xu hướng “hòa nhập” vào xã hội, còn người vợ “ở
lại” lao động cho gia đình của mình. Điều này sẽ làm cho người chồng có quan hệ xã hội rộng
rãi hơn và vị thế trong xã hội cũng cao hơn người vợ.
- Đối với nơi làm việc cho “Tư nhân không phải là họ hàng” đã thu hút lao động của
người chồng nhiều hơn so với người vợ (khi kết hôn là: 8,5% > 4,6%; còn hiện nay là: 9,1% >
4,4%). Hơn nữa, khi so sánh giữa thời điểm hiện nay với thời điểm kết hôn, ta thấy người
chồng có xu hướng dịch chuyển đến nơi làm việc này ngày càng nhiều lên (từ 8,5% → lên
9,1%). Trong khi đó, người vợ có xu hướng đi ra khỏi nơi làm việc này (từ 4,6% → xuống
còn 4,4%). Như vậy, người chồng vẫn luôn thể hiện xu hướng đi ra “hòa nhập” vào xã hội,
còn người vợ thể hiện xu hướng ngược lại. Điều này càng làm rõ thêm khu vực và nơi làm
việc của người chồng ngày càng vẫn có ưu thế hơn người vợ theo sự thay đổi của thời gian.
3. Hai vợ chồng tìm việc làm chính như thế nào và có nghề phụ không?
Một số nhận xét từ Bảng 4 như sau:
- Hai vợ chồng tự đi tìm việc làm là chính. Nhưng dù sao, tỉ lệ những người vợ phải tự
tìm lấy việc làm là cao hơn người chồng (khi kết hôn là: 66,9% > 63,2%; còn hiện nay là:
69,1% > 67,6%). Như vậy, người vợ sẽ vất vả hơn người chồng trong tìm kiếm việc làm.
Ngược lại điều này, đương nhiên là tỉ lệ người chồng được người khác giúp đỡ (tức là không
tự bản thân) tìm kiếm việc làm là cao hơn vợ. Trong đó, đặc biệt là tỉ lệ người chồng được
“Nhà nước phân công” cao hơn so với người vợ (khi kết hôn là: 12,6% > 8,2%; còn hiện nay
là: 8,4% > 6,5%). Điều này đã thể hiện nam giới có ưu thế hơn nữ giới trong việc Nhà nước
phân công công tác. Mặt khác, ngoài tỉ lệ tương đối ngang bằng nhau giữa vợ và chồng (khi
kết hôn là: 16,5% # 16,2%; còn hiện nay là: 15,8% # 15,3%) được họ hàng của bên nào thì
bên ấy giúp đỡ tìm kiếm việc làm, phần còn lại thì tỉ lệ những người vợ phải nhờ dựa vào bên
nhà chồng để tìm kiếm việc làm cũng cao hơn so với người chồng phải nhờ dựa vào bên vợ
(khi kết hôn là: 6,6% > 4,4%; còn hiện nay là: 6,5% > 4,0%). Như vậy, chẳng những tỉ lệ
người vợ được từ bên ngoài giúp đỡ (tức là không tự bản thân) tìm kiếm việc làm là ít hơn
chồng, mà sự giúp đỡ này lại nhờ dựa vào họ hàng nhà chồng nhiều hơn là chồng nhờ dựa vào
bên vợ. Điều này chắc sẽ tạo nên một sự “phụ thuộc” nhất định của người vợ vào người
chồng, và đương nhiên “thế đứng” của người chồng tiếp tục sẽ cao hơn người vợ.
- Đối với việc làm phụ của hai vợ chồng, tỉ lệ những người chồng có việc làm phụ
luôn cao hơn người vợ ở cả thời điểm khi kết hôn và hiện nay (khi kết hôn là: 17,8% > 14,7%;
còn hiện nay là: 30,7% > 24,3%). Đặc biệt, sự tăng lên về tỉ lệ có việc làm phụ của người
chồng giữa hai thời kỳ (khi kết hôn và hiện nay) là 12,9% (12,9% = 30,7% - 17,8%). Con số
tương ứng của người vợ là 9,6% (9,6% = 24,3% - 14,7%). Như vậy, tỉ lệ tăng thêm việc làm
phụ của người chồng là cao hơn người vợ (12,9% > 9,6%). Điều này đã củng cố và nâng cao
thêm sự đóng góp về mặt kinh tế của người chồng trong quá trình chung sống.
Bảng 4: Đi tìm việc làm và nghề phụ của hai vợ chồng (đ.v = %)
Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của cặp vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
42
Chung 3 tỉnh
Khi kết hôn Hiện nay
Tìm việc làm chính như thế
nào?
Vợ Chồng Vợ Chồng
1. Nhà nước phân công 8,2 12,6 6,5 8,4
2. Bố mẹ/họ hàng của tôi giúp
đỡ 16,5 16,2 15,8 15,3
3. Bố mẹ/h.hàng của Vợ/C tôi
giúp đỡ 6,6 4,4 6,5 4,0
4. Bạn bè của tôi giúp đỡ 0,2 1,3 0,1 2,0
5. Bạn bè của Vợ/Chồng tôi
giúp đỡ 0,1 0,8 0,4 1,2
6. Tôi tự tìm việc 66,9 63,2 69,1 67,6
7. Người khác giúp đỡ 0,6 0,7 0,7 0,8
8. Không nhớ/Không biết 0,8 0,7 0,9 0,7
Tổng số (N), % (847) 100,0 (857) 100,0 (857) 100,0 (868) 100,0
Nghề phụ của hai vợ chồng:
Có 14,7
17,8 24,3
30,7
KHÔNG 85,3 82,2 75,7 69,3
Tổng số (N), % (856) 100,0 (866) 100,0 (840) 100,0 (853) 100,0
Như vậy, khi xem xét và so sánh giữa thời điểm hiện nay và thời điểm kết hôn, ta thấy
tình trạng thuận lợi/ưu thế của người chồng đối với người vợ (trong quá trình đi tìm việc làm
chính và có thêm việc làm phụ để đóng góp vào thu nhập cho gia đình) đã tăng lên theo thời
gian. Nhận xét này càng làm rõ thêm xu hướng thiên lệch về phía người chồng so với vợ
trong các nhận xét trên đây.
Phân công việc nhà giữa hai vợ chồng (bảng 5)
Nhìn vào hàng chữ “Vợ là chính”, ta thấy những con số đều thể hiện vợ là người chủ
yếu làm các công việc nội trợ gia đình (cả khi kết hôn và hiện nay).
Khi so sánh giữa thời điểm hiện nay với thời điểm kết hôn, ta thấy: Trong những công
việc nhà (như nấu cơm, rửa bát, dọn nhà và giặt rũ) không liên quan đến sử dụng đồng tiền và
“tay hòm chìa khóa” (như giữ tiền chi tiêu và mua thức ăn), thì tỉ lệ những người vợ làm việc
này là chính đã giảm đi từ khi kết hôn cho đến nay. Cụ thể như sau: Tỉ lệ những người vợ nấu
cơm là chính đã giảm từ 82,3% → 74,3%; rửa bát: 86,4% → 71,2%; dọn nhà: 81,8% →
71,4%; giặt rũ: 87,1% → 76,6%. Trong khi đó, tỉ lệ những người chồng làm việc này là chính
lại tăng lên. Con số tương ứng về tỉ lệ những người chồng nấu cơm là chính đã tăng từ 1,6%
→ lên 4,8%; rửa bát: 1,5% → 2,6%; dọn nhà: 2,3% → 3,7%; giặt rũ: 1,1% → 2,5%. Xu
hướng tăng giảm việc nhà giữa hai vợ chồng trong quá trình chung sống đã thể hiện sự chia sẻ
công việc nội trợ trong gia đình của người chồng đối với người vợ, nhưng sự chia sẻ không
nhiều. Nói cách khác, người vợ đã được “giải phóng” một phần khỏi công việc nội trợ trong
quá trình chung sống. Nhưng dù sao, công việc nội trợ trong gia đình vẫn đè nặng trên vai
người phụ nữ. Phải chăng điều này là do tình trạng kém hơn của người vợ (so với người
Đỗ Thiên Kính
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
43
chồng) trong nghề nghiệp chính và việc làm phụ, do vậy đã buộc họ phải làm việc nhà để duy
trì sự “cân bằng” về công việc giữa hai vợ chồng?
Bảng 5: Phân công việc nhà trong gia đình (đ.v = %)
Phân công việc nhà Giữ tiền
chi tiêu
Mua
thức ăn
Nấu
cơm
Rửa bát Dọn
nhà
Giặt rũ
Chồng là
chính 8,9 4,2 1,6 1,5 2,3 1,1
Vợ là chính 54,8 71,9 82,3 86,4 81,8 87,1
Vợ = Chồng 8,5 3,8 6,3 5,4 8,1 6,8
Người khác 27,8 20,1 9,8 6,7 7,8 5,0 K
hi
k
ết
h
ôn
Tổng số: %
(N)
100,0
(885)
100,0
(885)
100,0
(885)
100,0
(885)
100,0
(885)
100,0
(884)
Chồng là
chính 9,6 6,8 4,8 2,6 3,7 2,5
Vợ là chính 77,5 83,9 74,3 71,2 71,4 76,6
Vợ = Chồng 9,5 3,2 6,2 4,5 7,9 6,3
Người khác 3,4 6,1 14,7 21,7 17,0 14,6
C
hu
ng
3
tỉ
nh
H
iệ
n
na
y
Tổng số: %
(N)
100,0
(885)
100,0
(884)
100,0
(884)
100,0
(884)
100,0
(884)
100,0
(884)
Một số nhận xét từ Bảng 5 như sau:
- Sự “giải phóng” khỏi một phần công việc nội trợ của người vợ còn được giải thích như
sau: Từ khi kết hôn cho đến hiện nay, các cặp vợ chồng đã có con cái lớn và những người con này
đã giúp đỡ việc nhà cho bố mẹ. Số liệu thể hiện điều giải thích này là ở dòng “Người khác” làm
việc nhà hiện nay đều lớn hơn thời điểm khi hai vợ chồng mới kết hôn (nấu cơm: 14,7% > 9,8%;
rửa bát: 21,7% > 6,7%; dọn nhà: 17,0% > 7,8% và giặt rũ: 14,6% > 5,0%). Nếu thể hiện chi tiết
hơn nữa số liệu (không được thể hiện ở Bảng 5), thì “Người khác” bao gồm chủ yếu là con trai và
con gái của các cặp vợ chồng.
- Đối với các công việc liên quan đến sử dụng đồng tiền và “tay hòm chìa khóa” (như
giữ tiền chi tiêu và mua thức ăn), thì tỉ lệ những người vợ đảm nhiệm các công việc này là
chính lại tăng lên từ khi kết hôn cho đến hiện nay (giữ tiền chi tiêu đã tăng từ 54,8% → lên
77,5%; và mua thức ăn cũng tăng từ 71,9% → lên 83,9%). Điều này đã thể hiện vai trò “nội
tướng” ngày càng tăng lên của người vợ trong quá trình chung sống ở gia đình nông thôn Việt
Nam.
Nhận xét chung: Như vậy, người chồng đã có những thuận lợi/ưu thế hơn người vợ
trong việc làm/nghề nghiệp chính. Đồng thời, người chồng cũng lại có nhiều việc làm phụ
hơn người vợ. Hơn nữa trong công việc nhà, người vợ vẫn phải làm việc nhiều hơn chồng.
Đồng thời, so sánh theo thời gian từ khi kết hôn cho đến hiện nay, tình trạng thuận lợi/ưu thế
về việc làm/nghề nghiệp của người chồng vẫn tiếp tục tăng lên, mặc dù người vợ đã được
“giải phóng” một phần khỏi công việc nội trợ trong quá trình chung sống. Kết hợp việc xem
xét cả việc làm chính, việc làm phụ và việc nhà, đã thể hiện rõ ràng người chồng luôn ở tình
trạng ưu thế hơn người vợ trong lao động và việc làm/nghề nghiệp. Hơn nữa, tình trạng ưu
Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của cặp vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
44
thế này tiếp tục tăng lên theo thời gian chung sống. Điều này sẽ quy định sự đóng góp về mặt
kinh tế của người chồng trong gia đình là nhiều hơn người vợ (xem Bảng 6). Đây là nhận xét
tổng quát về mẫu hình việc làm/nghề nghiệp của hai vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt
Nam. Có thể tóm tắt về mẫu hình trên trong Hộp 1 sau đây:
Hộp 1: Tóm tắt mẫu hình việc làm/nghề nghiệp của hai vợ chồng
So sánh giữa thời điểm kết hôn và hiện nay
Chung hai
Vợ-Chồng
Riêng người
Vợ
Riêng người
Chồng
Nhận xét
1. Hoạt
động
man
g lại
thu
nhập
Hầu hết đều có việc
làm tạo thu nhập.
Nhưng dù sao, tỉ lệ có
việc làm của người
chồng cũng nhiều hơn
(90,7% > 87,5%).
Tỉ lệ có việc làm tạo
thu nhập của người
vợ giảm nhanh hơn
chồng trong quá
trình chung sống
(8,0% > 5,1%).
Tỉ lệ có việc làm tạo
thu nhập của người
chồng tăng lên.
Có sự thiên lệch
nghiêng về phía
người chồng (so với
người vợ) ngày một
tăng lên theo thời
gian.
2. Lĩnh
vực
ngàn
h
nghề
chín
h
Chủ yếu đều làm việc
trong lĩnh vực s.xuất
nông nghiệp. Nhưng, tỉ
lệ nghề nông của người
vợ cao hơn: (kết hôn là:
72,1% > 62,6%; hiện
nay là: 67,2% > 64,0%)
Tỉ lệ những người
vợ “Không nghề
nghiệp” cao hơn
người chồng: (kết
hôn là: 2,4% >
0,7%; hiện nay là:
5,2% > 2,2%).
Tỉ lệ những người
chồng “Không nghề
nghiệp” thấp hơn
người vợ.
Người chồng có tình
trạng thuận lợi hơn
người vợ.
3. Khu
vực,
nơi
làm
việc
Phần lớn đều làm việc
trong hộ gia đình.
Nhưng dù sao, người
chồng cũng lao động
cho bản thân gia đình
họ ít hơn người vợ (kết
hôn là: 65,5% < 78,7%;
hiện nay là: 73,0% <
81,2%).
Người vợ có xu
hướng đi ra khỏi nơi
làm việc cho “Tư
nhân không phải là
họ hàng” (từ 4,6%
→ xuống 4,4%).
Chồng có xu hướng
dịch chuyển đến nơi
làm việc cho “Tư
nhân không phải là
họ hàng” ngày
nhiều lên (8,5% →
9,1%).
Vợ “ở lại” làm việc
cho gia đình, họ
hàng; còn Chồng có
xu hướng hoạt động
ở bên ngoài gia
đình và “hòa nhập”
vào xã hội nhiều
hơn.
4. Tìm
việc
làm
chín
h và
nghề
phụ
Chủ yếu tự đi tìm việc
làm. Nhưng dù sao, tỉ lệ
những người vợ phải tự
đi tìm việc làm chính là
cao hơn chồng (kết hôn
là: 66,9% > 63,2%;
hiện nay là: 69,1% >
67,6%).
Vợ phải nhờ dựa
vào họ hàng nhà
chồng giúp đỡ tìm
việc làm nhiều hơn
là chồng nhờ dựa
vào bên vợ (kết hôn
là: 6,6% > 4,4%;
hiện nay là: 6,5% >
4,0%).
* Chồng được người
khác giúp đỡ tìm
việc làm chính là
cao hơn vợ.
* Chồng có việc làm
phụ luôn cao hơn
vợ.
Người chồng vẫn có
thuận lợi hơn vợ
trong tìm kiếm việc
làm chính và có
nghề phụ.
5.
Phâ
n
công
việc
nhà
Vợ là người chủ yếu
làm các công việc nội
trợ trong g.đình
(70%~85%). Nhưng,
tỉ lệ vợ làm việc nhà
đã giảm đi kể từ lúc
kết hôn đến hiện nay.
Tỉ lệ tham gia việc
nhà của người
chồng đã tăng lên
kể từ kết hôn cho
đến hiện nay.
Phải chăng vợ là
người chủ yếu làm
việc nhà là để duy
trì sự “cân bằng” về
công việc giữa hai
vợ chồng?
Bảng 6: Ai đóng góp vào chi tiêu thường xuyên trong gia đình?
Mức độ đóng góp Số hộ (%)
Đỗ Thiên Kính
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
45
Chồng là chính 111 12,6
Vợ là chính 42 4,8
Vợ = Chồng 573 65,0
Khác 155 17,6
Tổng số 881 100.0
Nhìn vào Bảng 6, ta thấy: Chủ yếu trong các hộ gia đình hiện nay đều do hai vợ chồng
cùng nhau đóng góp vào chi tiêu (65,0% hộ gia đình có vợ và chồng đóng góp tương tự nhau).
Điều này là phù hợp với mô hình việc làm/nghề nghiệp đã miêu tả ở Hộp 1 trên đây. Trong mô
hình đó, phần lớn những cặp vợ chồng đều có việc làm/nghề nghiệp tạo thu nhập tương đối ngang
nhau. Nhưng dù sao, xét trong tổng thể, địa vị việc làm/nghề nghiệp (gọi cách khác là tình trạng
thuận lợi/ưu thế về nghề nghiệp) của người chồng là cao hơn người vợ, và tình trạng ưu thế này
tăng lên theo thời gian chung sống. Điều này đã quy định phần tỉ lệ đóng góp của người chồng
(12,6%) là cao hơn người vợ (4,8%). Đây là sự phù hợp lôgíc giữa việc làm/nghề nghiệp của hai
vợ chồng như thế nào thì đã mang lại thu nhập/chi tiêu cho hộ gia đình như thế ấy. Như vậy, có
thể xem Bảng 6 là kết quả cụ thể của mẫu hình việc làm/nghề nghiệp ở Hộp 1.
4. Nhận xét và bình luận
a. Người chồng có những thuận lợi và ưu thế về nghề nghiệp hơn so với người vợ
ngay từ khi kết hôn. Tức là, có sự thiên lệch về phía người chồng (so với người vợ). Điều này
có cơ sở thực tế của nó. Tâm lý chung là người con gái thường tìm kiếm người con trai hơn
mình về nhiều mặt để kết bạn trăm năm, như là một chỗ dựa vững chắc, là trụ cột cho cuộc
sống gia đình. Trái lại, người con trai cũng thường chọn lựa người con gái sao cho anh ta phải
hơn cô ấy về nhiều mặt. Có lẽ cũng vì thế mà tuổi kết hôn lần đầu của người con trai thường
cao hơn người con gái. Tuổi cao hơn có thể anh ta sẽ hơn cô ấy về nhiều mặt (thành đạt về
kinh tế, địa vị xã hội, kinh nghiệm sống và tâm lý tình cảm). Như vậy, sự chênh lệch về tuổi
tác (người con trai thường nhiều tuổi hơn) tại thời điểm kết hôn như là tiền đề tự nhiên, quy
định trước sự thiên lệch nghiêng về phía người chồng ngay từ đầu khi hình thành gia đình.
Điều này là hợp lý đối với cả nam và nữ khi họ quyết định kết hôn với nhau. Sự thiên lệch về
việc làm/nghề nghiệp nghiêng về phía người chồng ngay từ khi kết hôn như vậy có vẻ là điều
hợp lý đối với cả người con trai và người con gái.
b. Trong quá trình chung sống, sự thiên lệch về việc làm/nghề nghiệp trên đây tiếp tục
được duy trì. Tức là, sự thiên lệch nghiêng về phía người chồng ngày càng được thể hiện rõ
hơn trong quá trình ổn định và phát triển của gia đình. Liệu sự thiên lệch này ngày càng được
thể hiện rõ hơn trong quá trình chung sống về sau cũng là một sự hợp lý tự nhiên từ điều hợp
lý từ khi kết hôn? Như vậy, phải chăng không nên làm ảnh hưởng và xáo trộn sự thiên lệch
hợp lý này? Phải chăng về phía xã hội, cũng không nên coi đây là sự bất bình đẳng về giới
giữa hai vợ chồng?
c. Quá trình thiên lệch về việc làm/nghề nghiệp trên đây có thể là một nhân tố quy
định người chồng giữ vai trò là trụ cột kinh tế trong gia đình. Cụ thể hơn, trong gia đình nông
thôn Việt Nam, do sự thiên lệch nghiêng về phía người chồng không nhiều, nên phải chăng có
thể coi mô hình gia đình nông thôn Việ Nam là một dạng gia đình “2 trụ cột” (Lớn - bé/
Chính - phụ), phản ánh quan hệ vị thế và quyền lực của cặp vợ chồng trong gia đình hiện nay?
Mẫu hình việc làm và nghề nghiệp của cặp vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org
46
Tài liệu tham khảo
1. Ngân hàng Thế giới (2005). Báo cáo Phát triển Thế giới 2006: Công bằng và Phát triển.
Hà Nội: Nxb Văn hóa - Thông tin.
2. Ochiai, Emiko (1997). The Japanese Family System in Transition: A Sociological
Analysis of Family Change in Postwar Japan, Tokyo: LTCB International Library
Foundation.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so3_2007_dothienkinh_6567.pdf