Tài liệu Lý thuyết phê phán và xã hội học về tính hiện đại: 46 Xã hội học số 3 (91), 2005
Lý thuyết phê phán
và xã hội học về tính hiện đại
Lê Ngọc Hùng
Đặt vấn đề
Sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở những n−ớc đang phát triển
đang đặt ra một vấn đề lớn về mặt lý luận và thực tiễn là những n−ớc chậm phát
triển có thể học hỏi đ−ợc điều gì ở những n−ớc nhanh phát triển. Một sự nhất trí cao
ở đây là không thể áp dụng mô hình công nghiệp hóa-hiện đại hóa của thế kỷ XVIII-
XIX cho những n−ớc đang tiến b−ớc trên con đ−ờng này ở thế kỷ XXI. Đồng thời
những n−ớc chậm phát triển cũng không thể không nhìn thấy ở những n−ớc phát
triển cái hình bóng t−ơng lai của mình để rút ra các bài học cần thiết. Cách tiếp cận
của lý thuyết phê phán và gắn liền với nó là xã hội học về tính hiện đại giúp ta có cái
nhìn khoa học đối với những vấn đề xã hội trong quá trình phát triển kinh tế thị
tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa.
T−ơng tự nh− các tr−ờng phái lý thuyết lớn của thế kỷ XX, lý thuyết phê phán
đã trải qua các giai đoạn ...
6 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 1238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lý thuyết phê phán và xã hội học về tính hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
46 Xã hội học số 3 (91), 2005
Lý thuyết phê phán
và xã hội học về tính hiện đại
Lê Ngọc Hùng
Đặt vấn đề
Sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở những n−ớc đang phát triển
đang đặt ra một vấn đề lớn về mặt lý luận và thực tiễn là những n−ớc chậm phát
triển có thể học hỏi đ−ợc điều gì ở những n−ớc nhanh phát triển. Một sự nhất trí cao
ở đây là không thể áp dụng mô hình công nghiệp hóa-hiện đại hóa của thế kỷ XVIII-
XIX cho những n−ớc đang tiến b−ớc trên con đ−ờng này ở thế kỷ XXI. Đồng thời
những n−ớc chậm phát triển cũng không thể không nhìn thấy ở những n−ớc phát
triển cái hình bóng t−ơng lai của mình để rút ra các bài học cần thiết. Cách tiếp cận
của lý thuyết phê phán và gắn liền với nó là xã hội học về tính hiện đại giúp ta có cái
nhìn khoa học đối với những vấn đề xã hội trong quá trình phát triển kinh tế thị
tr−ờng định h−ớng xã hội chủ nghĩa.
T−ơng tự nh− các tr−ờng phái lý thuyết lớn của thế kỷ XX, lý thuyết phê phán
đã trải qua các giai đoạn lịch sử của nó: Giai đoạn đầu khởi nguồn từ những nghiên
cứu có tính phê phán của các nhà t− t−ởng thuộc thời đại Khai sáng và đạt tới đỉnh
cao phát triển ở thế kỷ XIX trong các tác phẩm của Mác và Ăng-ghen. Giai đoạn thứ
hai gắn liền với thời kỳ đầu của sự hình thành và phát triển Viện nghiên cứu xã hội
đ−ợc thành lập ở Frankfurt năm 1923. Thế hệ đầu tiên của tr−ờng phái lý thuyết phê
phán ở Frankfurt là những ng−ời sáng lập ra nó nh− Max Horkheimer, Theodore
Adorno, Herbert Marcuse. Thế hệ thứ hai của tr−ờng phái Frankfurt là Jurgen
Habermas, Albrecht Wellmer và những ng−ời khác. Thế hệ thứ ba gồm những đại
diện nh− Axel Honneth ở Đức, Seyla Benhabib và một số ng−ời khác ở Hoa Kỳ.
Nh−ng lý thuyết phê phán không giới hạn ở Đức hay ở Hoa Kỳ mà phát triển ở Pháp
với đại diện tiêu biểu là Michel Foucault, Francois Lyotard, Pierre Bourdieu, Jack
Derrida và nhiều ng−ời khác1. Một chủ đề xuyên suốt lý thuyết phê phán và biểu
hiện rõ nhất mối liên hệ của nó với xã hội học về tính hiện đại là sự “phê phán tính
hiện đại”. Chủ đề này đ−ợc Alain Touraine, nhà xã hội học nổi tiếng ng−ời Pháp lấy
làm nhan đề cuốn sách2 của ông xuất bản ở Pari năm 1992.
Lý thuyết phê phán cuối thế kỷ XX đã phát triển d−ới nhiều hình thức biến
1 Craig Calhoun and Joseph Karaganis. “Critical Theory”, trong George Ritzer and Barray Smart (Eds.).
Handbook of Social Theory. London: Sage Publications Inc. 2001. Tr. 179-180; Lê Ngọc Hùng. Lịch sử và
lý thuyết xã hội học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2002.
2 Alain Tourain (1992). Phê phán tính hiện đại. Nxb Thế giới. Hà Nội. 2003.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Lê Ngọc Hùng 47
thể phức tạp ví dụ nh− lý thuyết xã hội phê phán, thuyết hậu hiện đại, thuyết nữ
quyền và xâm nhập vào các chuyên ngành xã hội học, các bộ môn khoa học lân cận
và trào l−u xã hội. Do đó, việc tìm hiểu một cách khái quát lý thuyết phê phán là cần
thiết để khẳng định đó là một trong các ph−ơng pháp tiếp cận xã hội hay một trong
cách “hình dung xã hội học” không thể thiếu trong nghiên cứu xã hội học; qua đó góp
phần phát triển một h−ớng nghiên cứu xã hội học về tính hiện đại và xã hội học về
sự phát triển của một xã hội đang đổi mới thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu trên
đ−ờng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Một số luận điểm gốc của thuyết phê phán
Mác và Ăng-ghen là những ng−ời có công đầu trong việc tổng hợp toàn bộ các
thành tựu cơ bản, quan trọng nhất của các t− t−ởng phê phán trong triết học cổ điển
Đức, kinh tế học chính trị Anh và t− t−ởng chủ nghĩa xã hội Pháp. Trên cơ sở đó hai
ông đã nêu ra những luận điểm gốc làm nền móng cho lý thuyết phê phán hiện đại
đ−ợc phát triển phần nào qua tr−ờng phái Frankfurt ở Đức và các h−ớng nghiên cứu
lý thuyết phê phán ở các n−ớc khác. Một số tác phẩm quan trọng nhất của Mác và
Ăng-ghen đều có tên gọi kèm theo chữ “phê phán”3 và ngay cả những tác phẩm
không có tên gọi nh− vậy thì sự phê phán vẫn là một đặc tr−ng có tính nguyên tắc
nổi bật nhất cùng với các nguyên tắc cơ bản khác nh− nghiên cứu một cách kinh
nghiệm và trung thực4. Do đó, “việc phê phán xã hội hiện tồn” đ−ợc Ăng-ghen coi là
“cơ sở thật sự, nhiệm vụ chủ yếu của mọi công trình nghiên cứu các vấn đề xã hội”5.
Cơ sở lý luận của tr−ờng phái (phê phán) Frankfurt và lý thuyết xã hội phê
phán nói riêng, lý thuyết phê phán nói chung là những luận điểm có nguồn gốc từ
quan điểm của Mác. Trong đó nổi bật các ý t−ởng chính, ví dụ nh− sau6:
Thứ nhất: tri thức không tự chứng minh là đúng, không tự hiển nhiên, không
tự chứng nghiệm, mà cần phải xem xét một cách phê phán từ góc độ thực tiễn. Sự
hiểu biết của chúng ta về những gì xảy ra thế giới xung quanh đ−ợc cảm giác sao lại,
chụp lại, đem lại. Nh−ng tất cả những gì chúng ta nhận thức đều đ−ợc lý giải bằng
các ngôn ngữ và khái niệm khác nhau. Do đó, thuyết phê phán có nhiệm vụ xem xét
cách thức con ng−ời nhận thức thế giới, cách thức con ng−ời diễn đạt thế giới và đánh
giá các tác động của chúng đối với cuộc sống của con ng−ời. Về vấn đề này Mác
khẳng định rằng; “vấn đề tìm hiểu xem t− duy của con ng−ời có tính chân lý khách
quan không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn”7.
3 Ví dụ: C. Mác và Ph. Ăng-ghen. “Gia đình thần thánh hay là phê phán sự phê phán có tính phê phán:
chống Bru-nô Bau-ơ và đồng bọn” (1844), C, Mác. “T− bản: phê phán khoa kinh tế chính trị” (1867).
4 C. Mác. “Bản thảo kinh tế-triết học năm 1844” trong C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn tập. Tập 42. Nxb
Chính trị Quốc gia-Sự thật. Hà Nội. 2000. Tr. 68.
5 Ph. Ăng-ghen. “Trích tác phẩm của Phu-ri-ê về th−ơng mại” trong C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn tập.
Tập 42. Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật. Hà Nội. 2000. Tr. 437.
6 Craig Calhoun and Joseph Karaganis. “Critical Theory”. trong George Ritzer and Barray Smart (Eds.).
Handbook of Social Theory. London: Sage Publications Inc. 2001. Tr. 180-181; Ben Agger. Critical Social
Theories: An Introduction. The United Kingdom: Westview Press. 1998. Tr. 4-5.
7 C. Mác. “Luận c−ơng về Phoi-ơ-Bắc”. trong C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn tập. Tập 42. Nxb Chính trị
Quốc gia-Sự thật. Hà Nội. 2000. Tr. 371.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Lý thuyết phê phán và xã hội học về tính hiện đại 48
Thứ hai: thuyết phê phán cho rằng mọi sự kiện trong hiện thực đều có
nguyên nhân và các điều kiện của nó. Do đó, tri thức không những giúp ta trả lời câu
hỏi: cái gì mà còn giải đáp câu hỏi: tại sao. Ví dụ, tại sao kiểu tổ chức văn phòng lại
trở nên phổ biến trong xã hội hiện đại? Mọi sự vật trong xã hội là kết quả của hoạt
động của con ng−ời. Nh−ng, theo quan điểm duy vật lịch sử, con ng−ời làm nên lịch
sử không phải tuỳ tiện theo ý muốn chủ quan hay theo sự lựa chọn của riêng mình
mà luôn hành động trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử đã cho8. Do đó, sự
phê phán không chỉ nhằm vào hành động của các cá nhân mà nhằm vào hoàn cảnh
xã hội để cải tạo nó cho phù hợp với mục đích của con ng−ời.
Thứ ba: thuyết phê phán nhằm vào đối t−ợng của sự phê phán là bản thân lý
thuyết. Theo g−ơng Mác, các nhà lý luận phê phán luôn phân tích các phạm trù, khái
niệm của những lý thuyết đ−ơng thời nhằm vạch ra những hạn chế và những nguyên
nhân, hệ quả của chúng; đồng thời, điều quan trọng hơn là phê phán các thiếu sót
của lý thuyết để gợi ra suy nghĩ và đề xuất những ý t−ởng phát triển mới lý thuyết.
Lý thuyết phê phán khoa học đòi hỏi phải tự phê phán.
Thứ t−: thuyết phê phán tìm cách đạt tới sự thống nhất giữa lý thuyết và
thực tiễn. Thuyết phê phán đ−ợc cổ vũ bởi một niềm tin rằng mọi tri thức khoa học
xuất phát từ bản thân cuộc sống xã hội và gắn liền với hành động xã hội của con
ng−ời. Các nhà phê phán luận hiện đại cần khắc sâu luận điểm nổi tiếng Mác: “Các
nhà triết học chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải
tạo thế giới” 9.
Phê phán tính hiện đại cuối thế kỷ XX
Trong khi không phải lúc nào cũng có thể biến lý thuyết thành hành động
thực tiễn, các nhà phê phán luận luôn h−ớng sự quan tâm chú ý của xã hội vào
những vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cần thiết đối với xã hội và đ−a ra những cách
lập luận ít sai lệch, ít thiên vị để con ng−ời nhận biết chính xác hơn và đầy đủ hơn về
các sự kiện, hiện t−ợng xã hội. Một vấn đề nổi bật nhất trong xã hội loài ng−ời từ thế
kỷ XIX đến nay là tính hiện đại với đặc tr−ng cơ bản là phát hiện và áp dụng tri thức
khoa học vào cuộc sống để giải phóng con ng−ời khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công và
bất bình đẳng, để tiến tới sự công bằng, dân chủ và văn minh. Vào nửa đầu thế kỷ
XX, các nhà lý luận phê phán tập trung vào lên án sự bất công, bất bình đẳng xã hội,
sự hỗn loạn, mất trật tự xã hội và khẳng định sự thắng lợi của lý trí, của tính hợp lý
và sự kết hợp khoa học với cách mạng trong sản xuất công nghiệp. Nửa cuối thế kỷ
XX một số nhà lý luận phê phán tập trung vào tự phê phán tức là phê phán bản thân
khoa học với t− cách là một hệ thống các tri thức, các cách nhận thức và với t− cách
là một thiết chế xã hội có chức năng cơ bản là nghiên cứu để sản xuất ra tri thức.
8 Năm 1890 Ăng-ghen viết: “Chúng ta tự làm nên lịch sử của chúng ta, nh−ng tr−ớc hết là với những tiền đề
và trong những điều kiện nhất định.” Trong th− Ăng-ghen gửi Joseph Bloch ở Konigsberg. C. Mác -
Ph. Ăng-ghen. Tuyển tập. Tập VI. Nxb Sự thật. Hà Nội. 1984. Tr. 727.
9 C. Mác. “Luận c−ơng về Phoi-ơ-Bắc”. trong C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn tập. Tập 42. Nxb Chính trị
Quốc gia-Sự thật. Hà Nội. 2000. Tr. 371.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Lê Ngọc Hùng 49
Một loạt vấn đề đã đ−ợc nêu ra xung quanh mối quan hệ giữa tính hiện đại với số
phận con ng−ời và xã hội. Ví dụ, tính hiện đại liên quan nh− thế nào với các cuộc
cách mạng khoa học, công nghệ? Tính hiện đại đã từng gắn liền với công nghiệp hóa,
vậy với hậu công nghiệp thì sao? Tính hiện đại có đồng nhất với sự hợp lý hóa không?
Tính hiện đại có làm cho con ng−ời tự do hơn không hay lại càng trói buộc con ng−ời
vào một trật tự duy lý? Tính hiện đại liên quan nh− thế nào với tính độc lập, sáng
tạo của con ng−ời? Bản chất của tính hiện đại là gì trong xã hội ngày nay? Nó phát
sinh và biến đổi nh− thế nào? Và nhiều câu hỏi khác.
Khi nghiên cứu phê phán tính hiện đại, một tác giả tiêu biểu của xã hội học
phê phán là Touraine đã chỉ ra ba con đ−ờng cần khóa lại vì chúng có thể dẫn đến
sai lầm: một là con đ−ờng phản hiện đại, hai là con đ−ờng “cất cánh” vội vã, nhanh
chóng để cố thoát khỏi truyền thống và ba là con đ−ờng đồng nhất tính hiện đại với
chủ nghĩa cá nhân, với chủ nghĩa t− bản.
Giống nh− các nhà phê phán luận, Tourain cho rằng không thể đảo ng−ợc
đ−ợc xu h−ớng của tính hiện đại: “Chúng ta tất cả đã lên con tàu của tính hiện đại”.
Do đó, vấn đề đặt ra là cần mang hành trang gì trên con tàu tiến tới sự hiện đại.
G−ơng mặt nào là tiêu biểu của tính hiện đại? Tr−ớc đây, Descartes (1596-1650) cho
rằng đó là con ng−ời có t− duy, có lý trí “tôi t− duy tức là tôi tồn tại”. Simmel cho
rằng kiểu “ng−ời xa lạ” là g−ơng mặt tiêu biểu của tính hiện đại. Weber cho rằng đó
là con ng−ời hành động duy lý - công cụ, nh−ng cũng cảnh báo là con ng−ời đó có
nguy cơ bị rơi vào cũi sắt của mô hình tổ chức kiểu hành chính cứng nhắc. Còn
Touraine cho rằng chúng ta phải chọn g−ơng mặt của ng−ời di c− mang đầy ký ức và
dự án để nối quá khứ với t−ơng lai, nối di sản với hội nhập nghề nghiệp và xã hội10.
Gần đây d−ới tác động của các quá trình toàn cầu hóa chúng ta có thể phát hiện thấy
sự xuất hiện một g−ơng mặt mới của tính hiện đại, đó là "con ng−ời toàn cầu" coi thế
giới là ngôi nhà chung.
Một số nhà nghiên cứu nhấn mạnh bản chất của tính hiện đại là tính duy lý
và tính trách nhiệm. Touraine nhận định rằng: “không có tính hiện đại nếu không có
hợp lý hóa; nh−ng càng không có tính hiện đại nếu không có sự hình thành một “một
chủ thể - trong - thế giới” chịu trách nhiệm đối với bản thân nó và đối với xã hội”11.
Trên cấp độ vi mô, một số nhà t−ơng tác luận nói tới cấu trúc ba ngôi gồm cái tôi, nó
và bản thân (I, Me, Self), Sigmund Freud nói tới cấu trúc ba ngôi một thể của nhân
cách gồm “cái siêu tôi-cái tôi-cái nó”. Trên cấp độ hành động xã hội, bị ảnh h−ởng bởi
Freud, Touraine nói tới cấu trúc: “Cá nhân-chủ thể-tác nhân”. Rõ ràng, một biểu hiện
của tính hiện đại là sự khẳng định các thành phần cấu trúc của con ng−ời trong mối
quan hệ với xã hội.
Qua đó thấy rằng, phê phán luận cuối thế kỷ XX cùng lúc tiến theo hai
h−ớng, thoạt nhìn là trái ng−ợc nhau: một là tiến mãi về phía chủ thể nhằm khẳng
định cái bản ngã, cái tôi độc đáo, tự do và sáng tạo; hai là tiến mãi về phía xã hội
10 Alain Touraine. Sđd. Tr. 336.
11 Alain Touraine. Sđd. Tr. 339.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Lý thuyết phê phán và xã hội học về tính hiện đại 50
nhằm v−ơn tới các giá trị của nhân loại thời toàn cầu hóa. Thực chất, phê phán luận
theo h−ớng này hay h−ớng kia hoặc h−ớng khác nữa luôn xem xét tính hiện đại trong
mối quan hệ giữa con ng−ời và xã hội từ cấp độ vi mô đến vĩ mô và phê phán bất kỳ
biểu hiện nào của tính hiện đại thiên lệch về cá nhân hoặc thiên lệch về xã hội. Bởi
bất cứ một sự thiên lệch nào của tính hiện đại theo h−ớng này hay kia đều có thể làm
méo mó hoặc tính ng−ời hoặc là tính xã hội. Sự phê phán một cách khoa học tính
hiện đại h−ớng tới khẳng định sự kết hợp hài hoà từng cặp phạm trù nh− tự do và
trách nhiệm, hợp lý hóa và chủ thể hóa, l−ơng tâm và khoa học, lý trí và tình cảm,
trái tim và khối óc, phê phán và tự phê phán và nhiều sự kết hợp khác nữa.
Thuyết phê phán - ph−ơng pháp luận của xã hội học về tính hiện đại
Vấn đề đặt ra trong bài viết này là tìm hiểu mối quan hệ giữa lý thuyết phê
phán và xã hội học về tính hiện đại. Về mặt lịch sử, lý thuyết phê phán ra đời vào
nửa đầu thế kỷ XIX với công đầu đặt nền móng xây dựng là học thuyết của C. Mác và
Ph. Ăng-ghen, đến nửa đầu thế kỷ XX lý thuyết phê phán đã phát triển mạnh ở Viện
nghiên cứu xã hội ở Frankfurt, Đức và ở Pháp, Mỹ và một số n−ớc khác. Các lý
thuyết phê phán luôn thực hiện các vai trò đúng nh− tên gọi của nó là “phê bình và
phán xét” các biểu hiện sai lệch, ví dụ nh− sự thống trị con ng−ời, sự bất công, sự
bình đẳng xã hội và bất bình đẳng giới của tính hiện đại trong đời sống xã hội của
con ng−ời cũng nh− trong cách thức mà con ng−ời nhận thức và giải thích các hiện
t−ợng xung quanh. Đối với xã hội học về tính hiện đại, lý thuyết phê phán có một vị
trí đặc biệt do nó khuyến khích và duy trì sự quan tâm chú ý từ nhiều phía đối với
các vấn đề quan hệ con ng−ời-xã hội của tính hiện đại. Tầm quan trọng của ph−ơng
pháp phê phán trong nghiên cứu xã hội đ−ợc một số tác giả, ví dụ nh− Giddens đề
cao đến mức quan niệm xã hội học nh− là “sự phê phán các hình thái hiện tồn của xã
hội” và lý thuyết xã hội học nh− là lý thuyết phê phán12. Thực ra, nghiên cứu một
cách có phê phán chỉ là một trong nhiều cách nghiên cứu khoa học, ví dụ nh− nghiên
cứu thực nghiệm, nghiên cứu thực chứng, nghiên cứu một cách trung thực.
Phê bình và tự phê bình làm cho lý thuyết phê phán có sức sống mãnh liệt và
tính hấp dẫn đặc biệt. Ai có thể không đồng tình và ủng hộ một ph−ơng pháp tiếp
cận phê phán luôn biết tự phê phán cơ chứ?! Tuy nhiên, tên gọi “lý thuyết phê phán”
ch−a đủ cho biết bản chất và nội dung của nó. Vấn đề là phê phán từ góc độ lý luận
nào, trên lập tr−ờng quan điểm của ai và nhằm mục đích gì. Đúng nh− Mác từng
khẳng định “ngay cả nhà thần học phê phán cũng vẫn là nhà thần học”. Mác và Ăng-
ghen viết rằng; “Nếu nh− ng−ời ta thu đ−ợc mọi tri thức và cảm giác, v.v..., của mình
từ thế giới cảm tính và từ kinh nghiệm trong thế giới cảm tính thì do đó cần phải tổ
chức thế giới xung quanh sao cho ng−ời ta nhận thức và lĩnh hội đ−ợc ở đó cái gì thực
sự hợp với tính ng−ời, sao cho ng−ời ta thấy đ−ợc mình là con ng−ời. Nếu nh− lợi ích
đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng
của con ng−ời cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài ng−ời... Nếu nh− tính cách
12 Anthony Giddens. Sociology: A Brief but Critical Introduction. London: Macmillan Press Ltd. 1986. Tr.
22, 156-166.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Lê Ngọc Hùng 51
con ng−ời là do hoàn cảnh tạo nên thì do đó phải làm cho hoàn cảnh hợp với tính
ng−ời. Nếu nh− con ng−ời bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì do đó con ng−ời
chỉ có thể phát triển bản tính chân chính của mình trong xã hội và cần phải phán
đoán lực l−ợng của bản tính của anh ta, không phải căn cứ vào lực l−ợng của cá nhân
riêng lẻ mà căn cứ vào lực l−ợng của toàn xã hội.”13
Khi tìm hiểu và vận dụng lý thuyết phê phán vào xem xét tính hiện đại và sự
biến đổi, phát triển xã hội, thì điều cần thiết là chỉ ra những căn cứ lý luận của lý
thuyết phê phán và thử đánh giá xem lý thuyết phê phán có tạo ra đ−ợc cái gì mới
không, có khả năng phát hiện, bổ sung một điều gì mới thay thế cho cái “bị phê
phán” không, hay đó chỉ là lý thuyết phê phán để phê phán! Tiêu chuẩn cao nhất để
kiểm chứng và phê phán lý luận là thực tiễn, là hành động phát triển tính xã hội và
tính ng−ời với tính cách là biểu hiện tích cực của tính hiện đại, của sự phát triển. Về
mặt lý luận, thuyết phê phán góp phần làm sáng tỏ các yếu tố cản trở sự phát triển
hài hoà mối quan hệ giữa con ng−ời và xã hội, từ đó gợi ra những suy nghĩ về h−ớng
giải quyết những vấn đề ví dụ nh− phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng giới và xung
đột xã hội nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tóm lại, xã hội học về tính hiện đại nghiên cứu bản chất và quy luật của sự
nảy sinh, tồn tại, vận động, phát triển của tính hiện đại trong đời sống xã hội của con
ng−ời. Xã hội học về tính hiện đại không giới hạn ở sự phê phán mà phát hiện ra các
nhân tố của sự hiện đại hóa, sự phát triển tính hiện đại của mối quan hệ giữa con
ng−ời và xã hội. Với ý nghĩa đó, trong khoa học xã hội học, lý thuyết phê phán với các
biến thể của nó là một hệ thống lý luận, ph−ơng pháp luận và ph−ơng pháp phân
tích có khả năng bổ sung và cạnh tranh với các lý thuyết khác trong nghiên cứu một
cách khoa học thực nghiệm, có phê phán và trung thực để góp phần xây dựng và
phát triển mối quan hệ hài hoà giữa con ng−ời và xã hội.
13 C. Mác và Ph. Ăng-ghen (1844). “Gia đình thần thánh hay là phê phán sự phê phán có tính phê phán:
chống Bru-nô Bau-ơ và đồng bọn”, trong C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn tập. Tập 2. Nxb Chính trị Quốc
gia-Sự thật. Hà Nội. 1995. Tr. 199-200.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so3_2005_lengochung_5652.pdf