Tài liệu Lý thuyết học tập: TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu sâu của sinh viên ngành Sư phạm
kỹ thuật chúng tôi đã biên soạn cuốn “Lý thuyết học tập”. Cuốn sách này trang bị
cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về các lý thuyết học tập và các chiến lược dạy
học. Bên cạnh đó, cuốn sách này giúp người học hiểu rõ hơn các môn học chuyên
ngành như: Phương pháp dạy học chuyên ngành và kỹ năng dạy học, giáo dục học.
Sau khi học xong học phần này sinh viên có thể vận dụng những kiến thức đã học để
xây dựng cho mình hệ thống những chiến lược dạy học hiệu quả, phục vụ công việc
giảng dạy.
Cuốn sách này được chia làm 3 phần chính:
- Cơ sở của các lý thuyết học tập;
- Các lý thuyết học tập chính;
- Chiến lược học tập và dạy học hiệu quả
Cuốn sách này mới được biên soạn lần đầu và là một học phần tự chọn của
sinh viên ngành Sư phạm kỹ thuật. Do vậy trong quá trình biên soạn không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ...
75 trang |
Chia sẻ: putihuynh11 | Lượt xem: 760 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Lý thuyết học tập, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu sâu của sinh viên ngành Sư phạm
kỹ thuật chúng tôi đã biên soạn cuốn “Lý thuyết học tập”. Cuốn sách này trang bị
cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về các lý thuyết học tập và các chiến lược dạy
học. Bên cạnh đó, cuốn sách này giúp người học hiểu rõ hơn các môn học chuyên
ngành như: Phương pháp dạy học chuyên ngành và kỹ năng dạy học, giáo dục học.
Sau khi học xong học phần này sinh viên có thể vận dụng những kiến thức đã học để
xây dựng cho mình hệ thống những chiến lược dạy học hiệu quả, phục vụ công việc
giảng dạy.
Cuốn sách này được chia làm 3 phần chính:
- Cơ sở của các lý thuyết học tập;
- Các lý thuyết học tập chính;
- Chiến lược học tập và dạy học hiệu quả
Cuốn sách này mới được biên soạn lần đầu và là một học phần tự chọn của
sinh viên ngành Sư phạm kỹ thuật. Do vậy trong quá trình biên soạn không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các Thầy cô và các Sinh viên!
.
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Kỹ thuật Hƣng Yên
Tác giả
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
MỤC LỤC
Chƣơng 1 ......................................................................................................1
CƠ SỞ CỦA CÁC LÝ THUYẾT HỌC TẬP ...............................................1
1.1. Cơ sở triết học....................................................................................... 1
1.2. Cơ sở tâm lý học ................................................................................... 1
1.2.1. Khái niệm hoạt động học ................................................................. 1
1.2.2. Đối tượng của hoạt động học ........................................................... 3
1.2.3. Phương tiện học tập......................................................................... 3
1.2.4. Điều kiện học tập ............................................................................ 4
1.2.5. Sự hình thành hoạt động học tập ..................................................... 4
1.2.5.1. Động cơ học tập ..........................................................................4
1.2.5.2. Mục đích học tập .........................................................................5
1.2.5.3. Sự hình thành các hành động học tập ............................................6
1.2.5.6. Đặc điểm chung của hoạt động học tập của sinh viên ....................6
1.2.5.7. Tính tích cực trong hoạt động học của sinh viên............................7
1.3. Khái quát về lý thuyết học tập .............................................................. 8
1.3.1. Lý thuyết khoa học .......................................................................... 8
1.3.2. Lý thuyết học tập ............................................................................. 8
1.4. Các quan điểm tiếp cận nghiên cứu ứng dụng lý thuyết học tập trong
bối cảnh hiện nay .........................................................................................9
1.4.1. Tiếp cận phân tích (Tư duy cơ giới) ................................................. 9
1.4.1.1. Các phương pháp khoa học và khoa học về các vận động cơ giới
............................................................................................................. 10
1.4.1.2. Một số đặc điểm của tư duy cơ giới ............................................ 12
1.4.1.3. Ảnh hưởng của tư duy cơ giới trong lịch sử phát triển nhận thức . 15
1.4.2. Tiếp cận hệ thống .......................................................................... 17
1.4.2.1. Nhận thức khoa học trước sự phức tạp của thế giới ..................... 18
1.4.2.2. Cách nhìn hệ thống và các khoa học hệ thống ............................. 20
1.4.2.3. Tư duy hệ thống trong cách nhìn mới ......................................... 26
Chƣơng 2 ................................................................................................... 32
CÁC LÝ THUYẾT HỌC TẬP .................................................................. 32
2.1. Thuyết phản xạ có điều kiện của pavlov ............................................. 32
2.2. Thuyết hành vi .................................................................................... 35
2.2.1. Những quan niệm cơ bản của thuyết hành vi................................. 35
2.2.2. Những đặc điểm của học tập theo thuyết hành vi ........................... 36
2.3. Thuyết nhận thức ................................................................................ 37
2.3.1. Những quan niệm cơ bản của thuyết nhận thức ............................ 37
2.3.1.1. Quá trình hình thành lý thuyết nhận thức - hành vi ...................... 37
2.3.1.2. Quan điểm của Sheldon về Trị liệu hành vi - nhận thức cho cá nhân
............................................................................................................. 38
2.3.1.3. Bản chất của Thuyết nhận thức - hành vi .................................... 40
2.3.2. Những đặc điểm của học tập theo thuyết nhận thức....................... 43
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
2.4. Thuyết kiến tạo .................................................................................... 44
2.4.1. Những quan niệm cơ bản của thuyết kiến tạo ................................ 44
2.4.2. Những đặc điểm của học tập theo thuyết kiến tạo .......................... 45
Chƣơng 3 .................................................................................................... 49
CHIẾN LƢỢC HỌC TẬP VÀ DẠY HỌC HIỆU QUẢ ............................. 49
3.1. Khái niệm chiến lƣợc học tập ............................................................. 49
3.2. Phân loại các chiến lƣợc học tập ......................................................... 50
3.2.1. Các chiến lược nhận thức .............................................................. 50
3.2.2. Các chiến lược học tập siêu nhận thức .......................................... 51
3.2.3. Các chiến lược sử dụng nguồn lực học tập62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 71
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
1
Chƣơng 1
CƠ SỞ CỦA CÁC LÝ THUYẾT HỌC TẬP
1.1. Cơ sở triết học
Những giả thuyết cơ bản của các lý thuyết học tập khác nhau có nguồn
gốc từ các quan điểm về thế giới quan nói chung và các cơ sở triết học nhận
thức nói riêng. Các lý thuyết triết học về nhận thức có thể được phân thành
hau nhóm chính là lý thuyết nhận thức định lượng khách thể (học thuyết khách
thể), lý htuyết nhận thức định hướng chủ thể. Có thể phân biệt nhận thức
khách thể và chủ thể như sau:
CÁC LÝ THUYẾT KHÁCH THỂ CÁC LÝ THUYẾT CHỦ THỂ
1. Trong một thời điểm xác định, có
những tri thức chung, khách quan,
nhờ đó có thể giải thích được thế
giới. Tri thức này có tính ổn định và
có thể cấu trúc để truyền đạt cho
người học
Không có tri thức khách quan. Mỗi
người hiểu và giải thích thế giới theo
kinh nghiệm riêng của mình
2. Người học tiếp thu những kiến
thức đó và hiểu giống nhau
Các chủ thể nhận thức có thể hiểu
một cách khác nhau đối với cùng một
hiện thực
3. Giáo viên giúp học viên tiếp thu
những nội dung của tri thức khách
quan về thế giới vào cấu trúc tư duy
của họ
Nhiệm vụ của giáo viên là giúp học
viên tăng cường tự trải nghiệm và
biết đặt vấn đề, từ đó giúp họ có thể
tự xây dựng tri thức của mình
1.2. Cơ sở tâm lý học
1.2.1. Khái niệm hoạt động học
Khi nói đến hoạt động học cần làm rõ khái niệm học và khái niệm hoạt
động học. Trong cuộc sống đời thường con người luôn luôn có quá trình tích
tiếp thu, tích luỹ những kinh nghiệm sống, trên cơ sở đó tạo nên những tri thức
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
2
tiền khoa học, làm cơ sở tiếp thu những khái niệm khoa học ở trong nhà
trường. Đó chính là việc học, là cách học theo phương pháp của cuộc sống
thường ngày, giống như con người khi sinh ra đến khi chết học ăn học nói học
gói học mở, đi một ngày đàng học một sàng khônTrên thực tế, chỉ có
phương thức đặc thù( phương thức nhà trường) mới có khả năng tổ chức để cá
nhân tiến hành hoạt động đặc biệt đó là hoạt động học, qua đó hình thành ở cá
nhân những tri thức khoa học, năng lực mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn;
và trong tâm lý học sư phạm, hoạt động học là khái niệm chính được dùng để
chỉ hoạt động học diễn theo phương thức đặc thù, nhằm chiếm lĩnh tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo.
Bản chất của hoạt động học.
Hoạt động học tập là hoạt động chuyên hướng vào sự tái tạo lại tri thức ở
người học. Sự tái tạo ở đây hiểu theo nghĩa là phát hiện lại. Sự thuận lợi cho
người học ở đây đó là con đường đi mà để phát hiện lại đã được các nhà khoa
học tìm hiểu trước, giờ người học chỉ việc tái tạo lại. Và để tái tạo lại, người
học không có cách gì khác đó là phải huy động nội lực của bản thân ( động cơ,
ý chí, ), càng phát huy cao bao nhiêu thì việc tái tạo lại càng diễn ra tốt bấy
nhiêu. Do đó hoạt động học làm thay đổi chính người học. Ai học thì người đó
phát triển, không ai học thay thế được, người học cần phải có trách nhiệm với
chính bản thân mình, vì mình trong quá trình học. Mặc dù hoạt động học có
thể cũng có thể làm thay đổi khách thể. Nhưng như thế không phải là mục đích
tự thân của hoạt động học mà chính là phương tiện để đạt được mục đích làm
thay đổi chính chủ thể của hoạt động.
Hoạt động học là hoạt động tiếp thu những tri thức lý luận, khoa học. Nghĩa là
việc học không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt những khái niệm đời thường mà
học phải tiến đến những tri thức khoa học, những tri thức có tính chọn lựa cao,
đã được khái quát hoá, hệ thống hoá.
Hoạt động học tập không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kĩ năng,
kĩ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
3
hoạt động học. Hoạt động học muốn đạt kết quả cao, người học phải biết cách
học, phương pháp học, nghĩa là phải có những tri thức về chính bản thân hoạt
động học.
Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh. Do đó nó giữ vai
trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển tâm lý của người học trong lứa
tuổi này.
1.2.2. Đối tƣợng của hoạt động học
Nếu gọi chủ thể của hoạt động học là người học thì đối tượng của hoạt động
học hướng tới đó là tri thức. Nhưng tri thức mà học sinh phải học được lựa
chọn từ những khoa học khác nhau, theo những nguyên tắc nhất định, làm
thành những môn học tương ứng, và được cụ thể ở những đơn vị cấu thành
như: khái niệm, kĩ năng, thái độ Đối tượng của hoạt động học có liên quan
chặt chẽ với đối tượng của khoa học. Tuy vậy, có sự khác nhau về nguyên tắc
giữa hoạt động học và hoạt động nghiên cứu khoa học. Hoạt động học là hoạt
động tái tạo lại những tri thức đã có từ trước ỏ người học, còn hoạt động
nghiên cứu khoa học đó là phát hiện những chân lý khoa học mà loài người
chưa biết đến. Có thể nói: đối tưởng của hoạt động học là cái mới với cá nhân
nhưng không mới đối với nhân loại.
1.2.3. Phương tiện học tập
Hoạt động bao giờ cũng hướng tới một đối tượng cụ thể, và chủ thể phải có
những phương tiện, những điều kiện cụ thể để chiếm lĩnh đối tượng. Trong
hoạt động học tập, ngoài những phương tiện như: giấy, bút, sách, giáo trình,
máy tínhmà nó còn mang tính chất đặc thù của hoạt động học tập đó là mọi
yếu tố của quá của nó đều được hình thành trong quá trình học tập. Phương
tiện của học tập không có sẵn trong tâm lý chủ thể mà hình thành chính trong
quá trình chủ thể tham gia hoạt động học tập.
Phương tiện chủ yếu của hoạt động học tập đó là các hành động học tập: so
sánh, phân loại, phân tích, khái quát hoá.. Tâm lý học đã khẳng định so sánh,
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
4
phân loại là những hành động học tập là phương tiện đắc lực cho việc hình
thành những khái niệm kinh nghiệm, còn phân tích, khái quát hoá là phưong
tiện để hình thành nên những khái niệm khoa học.
Cần nhấn mạnh rằng trong hoạt động học, phương tiện chủ yếu là tư duy.
Trong giáo dục, tất cả các hình thức tư duy đều quan trọng và cần thiết.
1.2.4. Điều kiện học tập
Hoạt động học muốn được diễn ra phải có điều kiện của nó. Điều kiện đầu tiên
đó là có sự tham gia của các yếu tố bên ngoài (ngoại lực) như: có sự hướng
dẫn của thầy, sách, vở, bút, máy tính, giáo trìnhVà điều kiện thứ hai đó là có
sự vận động của chính bản thân người học hay còn gọi là yếu tố nội lực. Đó là
những tri thức mà người học học được, trình độ trí tuệ hiện có của người học,
động cơ, ý chí, hứng thú của người họcCó đầy đủ những điều kiện đó,
người học dù trong hoàn cảnh có thầy với trò, hay không có đối mặt với thầy
thậm chí khi ra trường, hoạt động học vẫn diễn ra. Từ đó có thể hiểu học là
quá trình tương tác các yếu tố ngoại lực và yếu tố nội lực thông qua hoạt động
dạy và học. Trong đó, yếu tố nội lực ở đây đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động học của người học.
1.2.5. Sự hình thành hoạt động học tập
1.2.5.1. Động cơ học tập
Các yếu tố của hoạt động học được hình thành trong chính hoạt động học. Nói
đến hình thành hoạt động học, trước hết phải nói đến sự hình thành động cơ
học tập.
Hoạt động học với chủ thể là người học, còn đối tượng của nó là những tri
thức khoa học, với mục tiêu cuối cùng là hình thành nhân cách cho người học.
Chủ thể khi tiến hành hoạt động học, chiếm lĩnh tri thức thì chính tri thức đó
trở thành cái tinh thần, thôi thúc người học. Vì vậy có thể hiểu động cơ học tập
là sức mạnh tinh thần điều khiển, điều chỉnh hoạt động học nhằm chiếm lĩnh
tri thức khoa học, để thoả mãn nhu cầu nào đó của.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
5
Động cơ của hoạt động học tập ở học sinh được hiện thân ở những tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo mà giáo dục ở nhà trường mang lại cho các em. Trong thực tiễn
giáo dục, động cơ học tập được chia thành hai loại: động cơ hoàn thiện tri thức
và động cơ quan hệ xã hội. Thuộc về loại động cơ hoàn thiện tri thức ở đây là
lòng ham mê, khát khao mở rộng tri thức, say mê với những môn học. ..Hoạt
động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này nó không chúa những mâu thuẫn
bên trong và nó đòi hỏi phải có những nỗ lực ý chí để đạt được nguyện vọng
chứ không phải hướng vào đấu tranh với chính bản thân mình. Động cơ quan
hệ xã hội đó là sự thưởng phạt hoặc đe doạ, những áp lực gia đình, nhà trường,
công việc, sự hiếu danh hoặc mong đợi sự hạnh phúc..ở mức độ nào đó động
cơ này mang tính cưỡng bách, và có lúc xuất hiện như một vật cản cần khắc
phục để vượt qua đạt được mục đích của mình.
Xét về mặt lý luận, mỗi hoạt động được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định.
Hoạt động học hướng đến là những tri thức khoa học, thì chính nó ( tức là đối
tượng của hoạt động học) trở thành động cơ của hoạt động ấy. Động cơ hoàn
thiện tri thức là động cơ chính của hoạt động học tập. Nhưng trên thực tế còn
có động cơ quan hệ xã hội. Nó “bám vào”, “hiện thân” trên động cơ hoàn thiện
tri thức, trở thành một bộ phận của động cơ hoàn thiện tri thức. Khi động cơ
hoàn thiện tri thức được đáp ứng thì đồng nghĩa với nó là động cơ quan hệ xã
hội cũng được thoả mãn. Cả hai loại động cơ này đều xuất hiện trong quá trình
học tập và trong từng hoàn cảnh cụ thể, điều kiện nào đó mà động cơ này hay
động cơ kia chiếm vị trí quan trọng hơn, nôỉ lên và chiêm ưu thế trong thứ bậc
động cơ. Sự phân chia động cơ như vậy chỉ có tính chất tương đối.
1.2.5.2. Mục đích học tập
Theo tâm lý học hoạt động, mục đích được hiểu là cái mà hành động đang
diễn ra hướng tới. Hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ và nó được tiến
hành dưới các hành động học. Vậy mục đích của hoạt động học là các khái
niệm, các giá trị, các chuẩn mực..mà hành động học đang diễn ra hướng đến
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
6
nhằm đạt được nó. Quá trình hình thành mục đích bắt đầu từ việc hình thành
trong chủ thể dưới các dạng là các biểu tượng sau đó được tổ chức để hiện
thực hoá biểu tượng trên thực tế, và khi thực tế có hoàn thành được thì mục
đích được hoàn thành. Mục đích của hoạt động học cũng được hình thành như
vậy, chỉ có điều nó có tính đặc thù riêng đó là việc hình thành mục đích học
tập hướng đến là để thay đổi chính chủ thể ở đây là người học. Và mục đích
này chỉ có thể được bắt đầu hình thành khi chủ thể bắt đầu bắt tay vào thực
hiện hành động học tập của mình. Trên con đường chiếm lĩnh đối tượng nó
luôn diễn ra quá trình chuyển hoá giữa mục đích và phương tiện học tập. Mục
đích bộ phận được thực hiện đầy đủ nó lại trở thành công cụ để chiếm lĩnh các
mục đích tiếp theo
1.2.5.3. Sự hình thành các hành động học tập
Học tập là một quá trình do đó khi nói đến hoạt động học tập phải nói đến sự
hình thành các hành động học tập. Hành động học ở đây được hiểu là hành
động trí óc, nhằm chiếm lĩnh tri thức. Hành động học có rất nhiều các hành
động khác nhau, và bản chất nhất, cơ bản nhất có các hành động chính
sau:hành động phân tích ( tìm ra nguồn gốc nội tại, cấu trúc lôgíc của đối
tượng), hành động mô hình hoá ( giúp con người diễn đạt các khái niệm một
cách trực quan, nó bao gồm mô hình gần giống với vật thật, mô hình tượng
trưng, mô hình mã hoá, nó được dùng nhiều trong sinh học), hành động cụ
thể hoá (nhằm vận dụng giúp người học hiểu được rõ nhất bản chất của vấn
đề, giải quyết những vấn đề trong mối liên hệ cụ thể từng lĩnh vực.
1.2.5.6. Đặc điểm chung của hoạt động học tập của sinh viên
+ Hoạt động học tập của sinh viên có tính chất độc đáo về mục đích và kết quả
hoạt động. Đó là, khác với lao động, học tập không làm thay đổi đối tượng mà
thay đổi chính bản thân mình. Sinh viên học tập để tiếp thu các tri thức khoa
học, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm
chất nhân cách người chuyên gia tương lai.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
7
+ Hoạt động học tập được diễn ra trong điều kiện có kế hoạch vì nó phụ thuộc
vào nội dung, chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn đào tạo.
+ Phương tiện hoạt động học tập là thư viện, sách vở, máy tính
+ Tâm lý diễn ra trong hoạt động học tập của sinh viên với nhịp độ căng
thẳng, mạnh mẽ về trí tuệ.
+ Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập cao
Cái cốt lõi của hoạt động học tập của sinh viên là sự tự ý thức về động cơ mục
đích, biện pháp học tập.
1.2.5.7. Tính tích cực trong hoạt động học của sinh viên
Việc tạo ra tính tích cực học tập của sinh viên là nhiệm vụ chủ yếu của người
thầy giáo trong nhà trường đại học. Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh
hưởng mạnh tới tính tích cực hoạt động tập của sinh viên là do sự vận dụng
một cách thích hợp phương pháp giảng dạy của thầy.
Theo Thái Duy Tiên thì "Tính tích cực học tập của sinh viên là tập hợp các
hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người sinh viên từ đối tượng tiếp
nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức. để nâng cao hiệu qủa học tập"
Tính tích cực học tập của sinh viên được thể hiện qua một số đặc điểm cơ bản
sau:
- Trong giờ học sinh viên có chú ý tới bài giảng hay không
- Mức độ tự giác tham gia vào xây dựng bài học, trao đổi thảo luận, ghi
chép
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập được giao
- Hiểu bài và có thể trình bày lại theo cách hiểu của mình
- Có hứng thú học tập
- Biết vận dụng những tri thức được học vào thực tiễn
- Có sáng tạo trong quá trình học tập.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
8
1.3. Khái quát về lý thuyết học tập
1.3.1. Lý thuyết khoa học
Theo quan niệm truyền thống, khoa học thường được mô tả với hai thành phần
chính:
- Quan sát thường nghiệm
- Lý thuyết
Quan sát thường nghiệm giúp nhà khoa họcncó các sự kiện khách quan về đối
tượng nghiên cứu, còn lý thuyết giúp họ liên kết các sự kiện, tìm kiếm các
định luật và dự báo về tương lai của đối tượng. Sự kết hợp giữa các sự kiện
quan sát được với lý thuyết tạo thành lý thuyết khoa học. Mỗi một ngành khoa
học đều có nhiều lý thuyết khác nhau.
Lý thuyết khoa học được định nghĩa là sự mô tả, giải thích và dự báo các hiện
tượng một cách có hệ thống những tính chất căn bản và tính quy luật của các
lĩnh vực thực tế nhất định, trên cơ sở các giả thuyết đã được xác nhận rộng rãi.
Một lý thuyết khoa học có hai chức năng chính:
- Tổ chức, sắp xếp các sự kiện quan sát được và cung cấp cho các sự kiện đó
một ú nghĩa nhất định (Tổ chức thông tin);
- Hướng dẫn cho các nghiên cứu tiếp theo (Tổ chức nghiên cứu).
Lý thuyết có vai trò vừa là kích thích sự quan sát, vừa là cơ sở để giải thích
các sự kiện quan sát được. nói cách khác lý thuyết khoa học được coi là một
khuôn mẫu trong một thời điểm nhất định (vật lý chẳng hạn), nhưng cũng có
khoa học có nhiều khuôn mẫu. Tính nhiều khuôn mẫu phản ánh sự phức tạp
của việc giải thích và dự đoán đối tượng nghiên cứu.
1.3.2. Lý thuyết học tập
- Lý thuyết học tập tìm cách giải thích cơ chế của việc học tập bằng cách đặt
những điều kiện và những kết quả của các quá trình học tập trong một mối
quan hệ.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
9
- Lý thuyết học tập mang tính giả thuyết vì các kết quả học tập không tự quan
sát được mà chỉ được rút ra qua kết quả.
- Hai xu hướng của triết học nhận thức
Thuyết hành vi Thuyết nhận
thức
Thuyết kiến tạo
Xuất hiện
khoảng
1913 1950 1960
Cơ chế học Kích thích –
phản ứng
Giải quyết vấn
đề
Kiến tạo
Đánh giá theo Thành tích (tri
thức sự kiện)
Tri thức (tri thức
quan niệm)
Năng lực (khả
năng hành động)
Mô hình
Vai trò của giáo
viên
Cung cấp tri
thức
Người lãnh đạo
và người tư vấn:
chuẩn bị nội
dung
Huấn luyện và
điều phối: Người
cung cấp
1.4. Các quan điểm tiếp cận nghiên cứu ứng dụng lý thuyết học tập trong
bối cảnh hiện nay
1.4.1. Tiếp cận phân tích (Tư duy cơ giới)
Tư duy cơ giới (từ thế kỷ 17-19)- Tư duy Khoa học cổ điển (còn gọi là
Tư duy cơ giới), gắn liền với cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất với:- giả
thuyết có nhiều Mặt trời và nhiều hành tinh như Trái đất của Bruno (1548-
1600)- thuyết Nhật tâm khẳng định Trái đất quay quanh Mặt trời; quan sát bầu
trời bằng kính thiên văn của Copernicus (1573-1630)- Galilei (1564-1642)- và
đặc biệt là Thuyết Cơ học của Newton (1642-1727). Các nguyên tắc của tư
duy khoa học cổ điển (hay tư duy cơ giới) là: +Quy giản luận (cắt mảnh, phân
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
10
đoạn) + Tất định luận (1 nguyên nhân chỉ có 1 kết quả) +và Nhị nguyên luận
(âm-dương, trắng-đen, thiện-ác rạch ròi)- Những thành tựu của nền khoa học
cổ điển dựa trên các quy tắc này đã đạt được những thành công vang dội, đến
nỗi loài người đã ngộ nhận tính vạn năng của khoa học cổ điển, tin rằng học
thuyết của Newton (về cơ học) và muộn hơn chút nữa, của Maxwell (1831-
1879) về điện từ trường, có thể giải quyết được mọi vấn đề về Vũ trụ và Vạn
vật. Sau những thành công ban đầu của nền khoa học cổ điển, thế giới tự nhiên
đã bị tổn thương nặng nề vào cuối thế kỳ 19 khi có những bằng chứng thực
nghiệm cho thấy rằng các học thuyết của khoa học cổ điển không còn áp dụng
được cho thế giới ngoài vùng có thể trải nghiệm trực tiếp bằng các giác quan
của con người: + thế giới vi mô (có kích thước hạt nguyên tử, khoảng 10 lũy
thừa -8 cm) + và thế giới vĩ mô (có kích thước vũ trụ hàng chục tỷ năm ánh
sáng). Và cuộc cách mạng khoa học lần thứ hai bắt đầu với sự xuất hiện của :
+Thuyết tương đối của Einstein (1879-1955), + Thuyết lượng tử của N.Bohr
(1885-1962), Heisenberg (1901-1976) và nhiều thuyết khác đã buộc loài
người phải thay đổi tư duy một lần nữa.
1.4.1.1. Các phương pháp khoa học và khoa học về các vận động cơ giới
Một cống hiến lớn của các triết gia Hy Lạp cổ là ngay từ thế kỷ thứ 6 trước
Công nguyên đã đề xuất một số điều cơ bản để phát triển các phương pháp
nhanạ thức mà sau này ta gọi là các phương pháp khoa học, đó là: 1) nêu những
loại câu hỏi mới có chủ định để tìm hiểu các tính chất cơ bản của vũ trụ, 2) tìm
những câu trả lời mà không cần viện đến thần linh như nguyên nhân của các
hiện tượng tự nhiên, 3) phát triển một hệ thống hình thức cho việc tìm kiếm các
chứng minh.
Sau đó, vào thế kỷ 4 trước CN, Aristote đã phát triển một hệ thống hình thức
của lôgích làm cơ sở cho các phương pháp suy luận và chứng minh, đồng thời
nêu ra một số nguyên lý có thể được áp dụng rộng rãi cho nhiều ngành từ sinh
học, vũ trụ học, khí tượng, thiên văn và cả thần học, tin rằng qua quan sát và
kinh nghiệm, rồi dùng quy nạp và suy diễn lôgic có thể thu được các hiểu biết
bản chất về sự vật có sự tham gia tích cực của tự nhiên thông qua những mối
kiên kết giữa vật chất và tinh thần, trí tuệ. Những cống hiến của Aristote đã
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
11
góp phần hình thành nhiều ngành khoa học tự nhiên (dù có những tri thức cụ
thể về sau đã được chứng tỏ là không đúng như quan niệm về vị trí trung tâm
của quả đất và về quan niệm phân chia thực thể trái đất với thực thể vũ trụ);
riêng hệ thống logíc được phát triển bởi Aristote thời ấy mãi cho đến ngày nay
vẫn là nền tảng chủ yếu của các phương pháp suy luận trong khoa học hiện
đại.
Tuy nhiên, sau thời đại huy hoàng của văn minh cổ Hy Lạp, châu Âu chìm
ngập triền miên trong sự thống trị của đế quốc La Mã, tiếp theo nhiều thế kỷ
đen tối, và mãi đến cuối thế kỷ 16 sang đầu thế kỷ 17, các tư tưởng khoa học
và những phương pháp khoa học nói trên mới có điều kiện để được phát huy
tác dụng trong một thời đại moới của “khoa học hiện đại”, khởi đầu bằng sự
khẳng định của Gallile về tính đúng đắn của lý thuyết Copecnicus “quả đất
quay xung quanh mặt trời”, một sự khẳng định không chỉ có tính chất thuyết lý
mà bằng quan sát thực nghiệm với việc sử dụng kính viễn vọng đầu tiên do
ông xây dựng từ năm 1609, đồng thời Galile cũng đã đề xuất một lý thuyết cơ
học mới để nghiên cứu chuyển động, với ý tưởng cơ bản xem nguyên nhân
chuyển động là do các lực tác động. Lý thuyết mới này được xây dựng trên cơ
sở một hệ thống các khái niệm về vận tốc, gia tốc, thời gian, khoảng cách... sử
dụng các mô hình toán học và các phương pháp suy luận toán học. Những phát
minh của Galile một mặt đã chấm dứt ảnh hưởng của thuyết địa tâm và quan
niệm về một vũ trụ khép kín của Aristote vẫn thống trị cho tới lúc đó, mặt
khác vẫn coi trọng các phương pháp suy luận lôgíc (từ Aristote) , và đưa thêm
những nội dung mới cho một phương pháp khoa học hết sức quan trọng là
nghiên cứu thực nghiệm do bắt đầu có những công cụ để thực hiện các khảo
sát thực nghiệm như kính viễn vọng. Vì vậy, người đời sau vẫn xem Aristote
là người đã đưa khoa học đến cho nhân loại, và Galile là người cha của khoa
học hiện đại.
Bộ khung của lý thuyết mới do Galile đề xuất sau đó đã được Newton vĩ đại
(sinh vào năm Galile mất, 1642) lấp đầy nội dung bằng các phát minh về luật
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
12
vạn vật hấp dẫn vũ trụ và các các định luật về chuyển động, cùng với các phát
minh về phép tính vi phân và tích phân (đồng thời với Leibniz) làm cơ sở cho
các phương pháp toán học để nghiên cứu chuyển động (cơ học) đã được xây
dựng hoàn chỉnh với những định luật cơ bản về vận động làm tiền đề và với
những công cụ suy luận toán học làm phương pháp phát triển chủ yếu, loài
người bước vào một thời đại mới với niềm tin vào khả năng nhận thức và cải
tạo thiên nhiên của mình. Lời tuyên bố trước đó của Galile “Cuốn sách của Tự
nhiên được viết bằng ngôn ngữ toán học”, sau những phát minh tuyệt vời của
Newton, đã được coi như một điều khẳng định. Cơ học, ngành khoa học về tự
nhiên đầu tiên được xây dựng với phương pháp chủ yếu là lý thuyết (suy luận
bằng lôgic và toán học trên cơ sở các định luật cơ bản) và thực nghiệm, đã
phát triển nhanh chóng, tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi và phát triển của
nhiều ngành khoa học tự nhiên khác, và dần dần có ảnh hưởng to lớn trong
cách nhận thức của con người bằng một kiểu tư duy mà người ta thường gọi là
tư duy cơ giới.
1.4.1.2. Một số đặc điểm của tư duy cơ giới
Cho đến thế kỷ 16, quan niệm của Aristote về một thế giới tự nhiên có linh
hồn và có vai trò tích cực giúp con người nhận thức được bằng quan sát và mô
tả thông qua những mối liên cảm nào đó giữa vật chất và tinh thần vẫn là phổ
biến trong triết học về tự nhiên. Quan niệm đó cũng chia sẻ với quan niệm của
chủ nghĩa tự nhiên thời Phục hưng tin rằng tự nhiên có một linh hồn sống với
những huyền bí mà trí tuệ con người không lý giải được. Chỉ đến thế kỷ 17,
sau những phát minh của Kepler và Galile, người ta mới bắt đầu phát hiện ra
khả năng có thể hiểu sự vận động của tự nhiên và vũ trụ bằng các phương
pháp khoa học mà không nhất thiết khi nào cũng phải viện đến những liên cảm
huyền bí giữa trí tuệ con người và một tinh thần hay linh hồn nào đó của tự
nhiên. Một tư duy mới, tư duy cơ giới là Descartes, một nàh toán học và triết
học lỗi lạc của thế kỷ 17. Đối lập với quan điểm của Aristotem, chủ nghĩa cơ
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
13
giới Descartes tách rời vật chất ra khỏi tinh thần, trí tuệ, xem tự nhiên như một
bộ máy mà trí tuệ có thể hiểu được. Bộ máy (mà phổ biến lúc bấy giờ là chiếc
đồng hồ) trở thành ẩn dụ (metaphor) chủ yếu cho mọi liên tưởng trong nhận
thức về tự nhiên, và về sau cả cho những đối tượng khác của nhận thức như
các cơ thể sống và các hệ thống kinh tế xã hội. Cùng với sự tách rời đó là sự
phân biệt giữa chủ thể và khách thể (hay đối tượng) của nhận thức.
Nhận thức đạt được bằng các phương pháp khoa học; trực cảm trí tuệ cho ta
một số ít tri thức ban đầu như các định luật cơ bản và các quy tắc của phép
diễn dịch, sau đó thực hiện các suy luận diễn dịch sẽ cho ta mọi tri thức khác.
Các tri thức đều có tính đúng đắn một cách chắc chắn, lôgic với giá trị nhị
nguyên về tính chân lý là phổ biến (trong đó mọi phán đoán đều phải hoặc
đúng hoặc sai, đúng sai phải được phân biệt rạch ròi). Được xem như một bộ
máy cho nên mọi đối tượng phức tạp có thể phân tích ra thành các thành phần
đơn giản hơn, và do đó bằng cách bắt đầu từ những cái đơn giản rồi lần ngược
lên các bậc cao hơn ta có thể hiểu được những đối tượng phức tạp. Về việc
nhận thức chân lý bằng trực cảm trí tuệ và bằng năng lực suy luận, Pascal cho
rằng có những chân lý được cảm nhận từ cái tâm và những chân lý thu được
bằng suy luận; thuộc loại thứ nhất là những chân lý như: có ba chiều trong
không gian, các con số là vô hạn... thuộc vào loại thứ hai là những chân lý
như: Không có một số chính phương nào gấp đôi một số chính phương khác...
sẽ là vô ích nếu suy luận đòi hỏi ở cái tâm những chứng minh cho các nguyên
lý mà mình có được, và cũng vậy nếu cái tâm đòi hỏi ở suy luận sự cảm nhận
về những chân lý mà minh suy diễn ra. Quan điểm phân tích cũng được Pascal
xem trọng, ông viét: Không thể biết các bộ phận mà không biết toàn thể, lại
càng không thể biết toàn thể mà không biết các bộ phận.
Một đặc điểm nữa của tư duy cơ giới là quan niệm về tính hiện thực của không
gian tuyệt đối và thời gian tuyệt đối độc lập với mọi vật thể và về tất định luận
trong quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
14
Về vấn đề này, vào năm 1814, Laplace có phát biểu một luận đề nổi tiếng:
“Một trí tuệ, nếu ở một thời điểm nào đó biết tất cả các lực mà tự nhiên chịu
tác động và biết vị trí tương ứng của các thực thể tạo nên nó, ngoài ra có đủ
khả năng phân tích tất cả các số liệu đó theo cùng một công thức chuyển động
cho các vật thể vũ trụ cũng như các nguyên tử bé nhỏ; thì đối với trí tuệ đó
chẳng có gì là bất định, cả tương lai cũng như quá khứ đều hiện rõ trước mắt
nó...”
Tất định luận Laplace đồng thời cũng khẳng định tính đối xứng thuận nghịch
của thời gian tuyệt đối ! Trong một thời gian khá dài, các mô hình toán học
được sử dụng để mô tả các quan hệ nhân quả phần lớn là tuyến tính hoặc quy
được về tuyến tính các mô hình như vậy vừa rất thích hợp với quan điểm phân
tích (một hệ tuyến tính có thể phân tích như là hợp thành của nhiều hệ tuyến
tính cỡ bé hơn), vừa phù hợp với tính chất của các quan hệ nhân quả tương
ứng với các biến đổi đều đặn và liên tục (thay đổi ở đầu ra tỷ lệ với thay đổi ở
đầu vào); ngoài ra các công cụ toán học dùng để nghiên cứu các mô hình
tuyến tính là tương đối đơn giản, đã được phát triển sớm và khá hoàn chỉnh; vì
thế các mô hình tuyến tính trở thành phổ biến. Khi tìm kiếm mô hình cho một
đối tượng người ta thường nghĩ đến các mô hình tuyến tính hoặc xấp xỉ là
tuyến tính, từ đó hình thành một nếp tư duy tuyến tính, cũng được xem như
một thành phần của tư duy cơ giới nói chung. Việc sử dụng phổ biến các
phương trình toán học và tìm kiếm các lời giải toán học theo tinh thần của tất
định luận cũng đồng thời khẳng định ưu thế của các phương pháp định lượng
trong việc nghiên cứu vận động của các đối tượng thực tế. Sự phát triển mạnh
mẽ của cơ học, vật lý học và toán học trong các thế kỷ tiếp theo, cùng với sự
mở rộng các ứng dụng của chúng trong nhiều ngành khoa học khác và đặc biệt
là trong việc phát triển các công nghệ và hình thành nền sản xuất công nghiệp,
đã củng cố và tăng cường vị trí của khoa học, và cùng với nó là vị trí của tư
duy cơ giới với các quan điểm chủ yếu như nói ở trên trong nhiều lĩnh vực của
nhận thức.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
15
1.4.1.3. Ảnh hưởng của tư duy cơ giới trong lịch sử phát triển nhận thức
Cuộc cách mạng khoa học khởi đầu từ thế kỷ 17 đã dẫn đến những phát
minh kỹ thuật và công nghệ, làm nền tảng cho sự hình thành và phát triển nền
sản xuất và nền kinh tế công nghiệp, đưa nhân loại từ hàng nghìn năm của văn
minh nông nghiệp bước sang một thời đại mới của văn minh công nghiệp.
Trong thời đại mới đó, nhất là từ cuối thế kỷ 19 đến nay, đã có biết bao kỹ
thuật và công nghệ mới được phát minh, bao nhiêu loại máy móc mới được
sản xuất để phục vụ cuộc sống con người. Tất cả các kỹ thuật và máy móc mà
con người tạo ra cho đến nay đều hoạt động theo các nguyên lý và định luật
mang tính tất định, tuân thủ các quy tắc định lượng chính xác. Nếu trong nhận
thức của con người không có những hiểu biết về các định luật, các quy tắc như
vậy, và nếu con người không có năng lực “tư duy cơ giới”, thì cũng không thể
có các kỹ thuật, công nghệ và máy móc như ta đã có và đang có hiện nay.
Những thành tựu tuyệt vời của các khoa học về vận động cơ giới và của việc
ứng dụng toán học đã có tác động làm cho các khoa học đó và cho quan điểm
tư duy cơ giới thâm nhập và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của nhiều
ngành khoa học cũng như nhiều lĩnh vực nhận thức khác. Cách nhìn một đối
tượng như một “bộ máy”, vận hành theo các nguyên tắc cơ giới, tuân theo các
định luật nhân quả mang tính tất định và nhị nguyên.... là một cách nhìn khá
phổ biến ngay cả đối với các lĩnh vực của sự sống và của kinh tế xã hội; hình
ảnh ẩn dụ “bộ máy” trở thành quen thuộc trong mọi liên tưởng, người ta nói
đến bộ máy hô hấp, bộ máy tuần hoàn... trong các cơ thể sống, bộ máy hành
chính, bộ máu quản lý, bộ máy lãnh đạo... trong các tổ chức kinh tế và xã
hội....
Cách tiếp cận phân tích đã giúp người ta đi sâu nghiên cứu các thành phần
ngày càng cơ bản hơn của vật chất, của sự sống, của kinh tế và xã hội... và
những nghiên cứu phân tích như vậy đã cho ta nhiều hiểu biết sâu sắc về cấu
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
16
trúc của các thành phần cơ bản đó trong nhiều loại đối tượng khác nhau.
Người ta cũng tìm kiếm các mô hình để mô tả các quan hệ giữa các thành
phần liên quan, và tất nhiên theo tư duy cơ giới quen thuộc thì các mô hình
được tìm kiếm trước hết thường là các mô hình tất định, tuyến tính....
Có thể nói, những ảnh hưởng đó của tư duy cơ giới, của việc ứng dụng toán
học và cơ học, đã có tác động tích cực đến sự phát triển của nhiều ngành khoa
học, đưa các ngành đó vượt ra ngoài sự hạn chế của các phương pháp quan sát
và mô tả quen thuộc để tiếp cận khả năng được “lý thuyết hoá” và phát triển
bằng các công cụ của suy luận diễn dịch. Tuy nhiên, cũng chính tại điểm này
chúng ta bắt đầu nhận ra những hạn chế của tư duy cơ giới.
Nếu đối với những vận động cơ giới, chúng ta có được những mô hình hết sức
lý tượng dựa trên các định luật như các định luật Newton về hấp dẫn và về
chuyển động, các định luật có độ chính xác định lượng ngoài sức tưởng tượng,
độ chính xác mà nhiều nhà khoa học xem là “phi lý”, thì tiếc thay, chỉ cần đi
xa hơn một chút sang các lĩnh vực của cơ học chất lỏng, vật lý chất rắn, thuỷ
khí động học, rồi sau này của cơ học lượng tử... thì các định luật mà ta có
được thiếu dần sự chính xác tất định, rồi xa hơn nữa sang các lĩnh vực sinh
học, sinh thái học, các khoa học sinh tế xã hội, thì các quy luật mà con người
có thể phát hiện càng mất thêm tính tất định chính xác, chỉ còn là các quy luật
có tính chất gần đúng mang tính thống kê. Và vì vậy, nếu xem tư duy cơ giới
là có tác dụng phổ biến, những kết luận “khoa học” mang tính cơ giới là chân
lý thì rất có thể đi đến những nhận thức sai lầm, điều này cũng không phải là
chưa từng xảy ra.
Tư duy cơ giới cũng có những ảnh hưởng to lớn đối với cách suy nghĩ và nhận
thức của con người trong nhiều mặt của cuộc sống đời thường. Ở đây, ta cũng
không thể phủ định các mặt tích cực trong những ảnh hưởng đó. Tư duy cơ
giới, trong cả một giai đoạn dài của lịch sử, cũng đồng nghĩa với tư duy khoa
học, và việc tiếp nhận tư duy khoa học trong cuộc sống đã là một tiến bộ hết
sức to lớn trong nhận thức của loài người. Với tư duy khoa học, con người
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
17
được rèn luyện những năng lực phán đoán và suy luận, phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch... rất cần thiết cho nhiều loại hoạt động trong cuộc sống.
Tất nhiên, trong một thế giới và một xã hội phức tạp, ngày càng phát triển đa
dạng, có lắm đổi thay và biến động mà vẫn khư khư xem rằng chỉ những quan
điểm tất định, những cách nhìn nhị nguyên là duy nhất đúng, rồi vận dụng một
cách cứng nhắc thì có đãn đến những nhận thức sai lầm và những hành động
thất bại cũng là điều khó tránh khỏi.
1.4.2. Tiếp cận hệ thống
Tư duy Hệ thống (cuối thế kỷ 20 đến nay)- Từ khoa học cổ điển sang khoa học
hiện đại, từ tư duy cơ giới chuyển sang tư duy hệ thống. +Từ nay không gian
và thời gian không là tuyệt đối và hoàn toàn độc lập mà là tương đối và phụ
thuộc lẫn nhau + Các “hạt” vi mô vừa có tính sóng vừa có tính hạt (lưỡng tính
sóng hạt), hoạt động tuân theo Nguyên lý bất định Heisenberg và Nguyên lỳ
bổ sung Bohr + Không có khách thể tuyệt đối, không tồn tại tính “khách quan
khoa học” trọn vẹn như các nhà duy vật truyền thống vẫn tưởng + Khác với tư
duy cơ giới, tư duy hệ thống dựa trên nguyên tắc khác hẳn: – Xem xét đối
tượng trong toàn cục chứ không “cắt mảnh”, – Xác định đúng qui mô và mối
tương quan giữa Hệ thống “mẹ” và các Hệ thống “con”, -Chấp nhận rằng Bất
định (không có gì là chắc chắn trăm phần trăm) và Ngẫu nhiên (với tỷ lệ xác
xuất xảy ra khác nhau) là bản chất của các hiện tượng trong thế giới vi mô
cũng như ở kích thước vũ trụ.- Thừa nhận tính Bất toàn của mọi giả thuyết
khoa học, rằng không có Tiền đề nào là đầy đủ và phi mâu thuẫn như Godel
(1906-1978) đã chỉ ra từ năm 1931 mà đến nay mới được thừa nhận rộng rãi
trong khoa học. Các nguyên tắc này đã đảm bảo cho khoa học và tiếp theo là
công nghệ đạt tới những đỉnh cao chói lọi. Tuy nhiên từ trên đỉnh cao ngây
ngất ấy, loài người mới giật mình nhận ra mặt trái của tấm huân chương Khoa
học & Công nghệ còn tồi tệ hơn nhiều như người ta vẫn tưởng: + Môi trường
sinh thái của Trái đất, ngôi nhà chung của nhân loại, đang bị tàn phá một cách
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
18
nhẫn tâm, + Văn hóa, đạo đức đã bước sang giai đoạn khủng hoảng (vì thế
mới xuất hiện các trào lưu Hậu hiện đại, hay Giải cấu trúc ). Lại một lần
nữa, Tư duy Khoa học phải thay đổi để vượt khỏi những rào cản đang ràng
buộc trí tuệ con ngườ
1.4.2.1. Nhận thức khoa học trước sự phức tạp của thế giới
Với tư duy cơ giới, thế giới của ta là thế giới vật chất, các định luật Newton đã
cho ta khả năng xác định chính xác các quan hệ cơ bản trong vận động, và vì
vậy nếu ta có đủ các công cụ toán học để dựa trên các định luật đó mà mô tả
sự vận động trong các đối tượng nghiên cứu, rồi phân tích lý giải cũng bằng
các phương pháp toán học, thì ta có thể hiểu được hành vi của các đối tượng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Chính ý tưởng đó đã kích thích một sự phát triển mạnh mẽ của giải tích toán
học (lý thuyết hàm số, tính vi tích phân, phương trình vi phân thường và đạo
hàm riêng, hình học giải tích và vi phân...) trong hai thế kỷ 18 và 19. Tuy
nhiên, dùng các công cụ toán học đó, đặc biệt các phương trình vi phân, để
xây dựng mô hình thì tương đối dễ, nhưng để tìm lời giải cho chính các
phương trình vi phân đó thì ngoài một số ít trường hợp rất đơn giản, còn nói
chung là không thực hiện được.
Một thí dụ nổi tiếng là bài toán chuyển động của 3 vật thể tương tác với nhau
theo định luật hấp dẫn Newton (thường gọi là bài toán 3 vật thể). Bài toán
tưởng như đơn giản, có thể dễ mô tả các toạ độ của vị trí và tốc độ của 3 vật
thể đó; nhưng tiếc thay không có phương pháp nào tìm được nghiệm cho bài
toán “đơn giản” đó dưới dạng giải tích quen thuộc. Vào cuối thế kỷ 19, nhà
toán học Poincaré đã đă ra một phương pháp độc đáo để khải sát hành vi
chuyển trạng thái của các hệ động lực, rồi xét cho một hệ quy giản từ hệ động
lực nói trên; và ông đã hết sức bất ngờ phát hiện ra rằng hành vi chuyển trạng
thái của hệ đó là rất bất thường, hỗn độn và có vẻ ngẫu nhiên.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
19
Phát hiện đó không thể lý giải được bằng tư duy cơ giới, cho mãi đến gần 1
thế kỷ sau, vào những năm 60, 70 của thế kỷ 20, với sự trợ giúp của máy tính,
nhiều hiện tượng tương tự nữa cũng được phát hiện, và người ta đi đến kết
luận “cái hỗn độn, phi trật tự có thể nẩy sinh từ chính trong các hệ thống tuân
theo các luật (trật tự) tất định”, một điều không thể hình dung được bởi tư duy
cơ giới nhưng lại khá phổ biến trong thế giới thực và cuộc sống thực, và đang
là chủ đề nghiên cứu của lý thuyết hỗn độn, một ngành khoa học được phát
triển mạnh hiện nay.
Một mặt khác, khi khoa học mở rộng ra ngoài phạm vi cơ giới thì ta gặp ngay
trong thực tế nhiều hiện tượng phi trật tự, ngẫu nhiên và hỗn độn, có thể vì
nhiều lẽ nhưng trước hết là vì các hiện tượng đó xảy ra trong những đối tượng
phức tạp gồm 1 số rất lớn các phần tử hợp thành mà nhận thức của ta không
thể bao quát hết, ví như một bình khí (chứa hàng tỷ các phân tử khí), một nền
kinh tế (với hàng triệu người sản xuất và tiêu dùng)...
Có thể, mỗi phần tử đều vận động theo những luật tất định giản đơn nào đó,
nhưng vận động của tất cả những phần tử đó gộp lại thì chẳng thể xem là theo
một luật nào cả (ngay đối với 3 phần tử ta đã không tìm nổi một luật như vậy),
và đối với nhận thức của ta thì đó là ngẫu nhiên, là hỗn độn. Tuy nhiên, qua
khảo sát thực nghiệm người ta thấy mặc dầu ở cấp độ vận động của các phần
tử là hỗn độn, là bất định nhưng vẫn có những “luật” tất định nào đó chi phối
quan hệ giữa các thuộc tính ở cấp độ toàn thể trong các đối tượng đó, thí dụ
định luật hợp nhất về chất khí (cho ta một quan hệ tất định giữa các đại lượng
áp suất, thể tích và nhiệt độ của một khối khí: với một khối lượng cho trước
của một chất khí, tỷ số giữa tích của áp suất và thể tích với nhiệt độ tuyệt đối
là không đổi: pv/T=const), luật về quan hệ cung, cầu và giá trong kinh tế hàng
hoá.; hay các luật có tính thống kê mà ta gặp trong nhiều lĩnh vực của vật lý
các chất khí, trong sinh học, kinh tế học, xã hội học...
Và rõ ràng ở đây, quan điểm phân tích “để hiểu toàn thể thì phải hiểu các phần
tử” không còn thích hợp, việc hiểu các phần tử không giúp ích gì nhiều cho
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
20
việc phát hiện các luật về các hành vi có tính toàn thể như vậy. Các luật như
vậy cho ta biết một loại trật tự dù của toàn thể, gọi là trật tự thống kê, ở cấp độ
toàn thể là có trật tự dù rằng ở cấp độ các phần tử thì thể hiện trước mắt ta là
hỗn độn, vô trật tự.
Trong nhiều phát minh khoa học của thế kỷ 19 có 2 phát minh có nội dung có
vẻ đối lập nhau mà đến nay vẫn có tác động lớn với sự phát triển của khoa học
hệ thống hiện đại: đó là nguyên lý thứ 2 của nhiệt động học và thuyết tiến hoá
của Darwin. Nguyên lý thứ 2 theo phát biểu của Boltzmann, nói rằng đối với
một hệ kín (tức không trao đổi năng lượng với bên ngoài) entropy có xu hướng
tăng, từ đó cũng có thể suy ra rằng tự nhiên có xu hướng tăng dần độ mất trật
tự; còn thuyết tiến hoá Darwin khẳng định sự tiến hoá của các loài sinh vật,
cũng có nghĩa là tự nhiên phát triển theo xu hướng nâng cao dần trình độ tổ
chức của mình. Thực ra không có sự đối lập nào cả, vì ta có thể hiểu các loài
của Darwin không phải là những hệ kín, mà là những hệ mở. Tính mở là một
thuộc tính cốt lõi trong tư duy hệ thống hiện đại mà ta sẽ đề cập đến trong các
phần sau.
Như ta đã biết vào đầu thế kỷ 20, hai phát minh khoa học quan trọng về thuyết
tương đối và vật lý lượng tử đã thực sự khởi đầu cho một cuộc cách mạng về
tư duy khoa học. Thuyết tương đối Einstein cho phép xác lập các mối liên hệ
giữa khối lượng và vận tốc, giữa khối lượng và năng lượng, giữa không gian,
thời gian và vật chất, loại bỏ ảo tưởng về một không gian tuyệt đối và thời
gian tuyệt đối của tư duy cơ giới....
1.4.2.2. Cách nhìn hệ thống và các khoa học hệ thống
Vào cuối thế kỷ 19, và đặc biệt từ đầu thế kỷ 20, tư duy cơ giới đã chứng tỏ là
1 khuôn khổ quá chật hẹp cho việc phát sinh những ý tưởng sáng tạo ngay
trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý, địa hạt mà nó đã từng chiếm được vị trí độc
tôn tưởng chừng như vĩnh cửu. Bước sang các địa hạt của sự sống, rồi của
kinh tế và xã hội, thì việc tìm các quy luật tất định là khá khiên cưỡng, các mô
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
21
hình toán học tuyến tính là những quy giản quá sơ lược và dĩ nhiên theo con
đường đó ta không còn đạt được những kết quả khả quan như đối với cơ học
cổ điển. Cần có một cách nhìn mới đối với các đối tượng phức tạp và đa dạng
vốn có trong tự nhiên, trong sự sống, trong kinh tế và xã hội, khác với các nhìn
quy giản một cách “cơ giới’, để mở đường cho những nhận thức mới đã nhanh
chóng trở thành một yêu cầu chung của nhiều ngành khoa học. Cách nhìn mới
đó, ta gọi chung là cách nhìn hệ thống, trước hết xem xét mọi đối tượng như là
một toàn thể với những tính chất, hành vi thuộc về toàn thể mà nói chung
không thể quy về hoặc suy ra từ tính chất của các yếu tố hay thành phần của
nó.
Cách nhìn mới cũng đòi hỏi chúng ta không thể thoả mãn với những phương
pháp quy giản quen thuộc mà phải đối mặt trực tiếp với những phức tạp có
thực trong tự nhiên và cuộc sống. Cái phức tạp trước hết hiện ra trước mắt ta
như những bất định, ngẫu nhiên, hỗn loạn và vô trật tự. Lý trí của con người
liệu có giải thích được nguồn gốc của những bất định và ngẫu nhiên đó hay
không, và từ những ngẫu nhiên, hỗn loạn, hệ thống tất yếu sẽ đi đến tan vỡ hay
có khả năng tái lập hoặc sáng tạo nên những trật tự mới?
Cách nhìn mới đồng thời cũng đatự ra những yêu cầu mới, những câu hỏi mới
cho các ngành khoa học. Và từ giữa thế kỷ 20 trở đi, nhiều nghiên cứu theo
hướng của cách nhìn mới đó được được tiến hành hoặc trong từng ngành khoa
học riêng rẽ, hoặc trong phạm vi liên ngành, hoặc ở mức độ tổng hợp hơn là
hình thành những hướng nghiên cứu chung về các hệ thống, như Lý thuyết
tổng quát về hệ thống (khởi đầu bởi Bertalanffy), Điều khiển học
(Cybernectics, cha đẻ là Wiener), Lý thuyết thông tin (bắt đầu từ Shannon),
các lý thuyết về các hệ thống điều khiển, vận trù học... cho đến gần đây là các
lý thuyết về hỗn độn (chaos theory) và về phức tạp (complexity theory).
Và trong nửa thế kỷ vừa qua các khoa học về hệ thống đã có những bước đầu
phát triển mạnh mẽ, thực sự tạo nên một chuyển biến cách mạng trong tư duy
khoa học, góp phần quan trọng trong việc đổi mới nhận thức của con người về
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
22
tự nhiên cũng như về xã hội. Cùng với cách nhìn mới, trong nửa thế kỷ đó,
khoa học cũng đã có nhiều cải tiến để hoàn thiện hơn các phương pháp vốn có
và sáng tạo các phương pháp mới nhằm tiếp cận có hiểu quả hơn những vấn đề
mới đã được đặt ra.
Như ta đã biết, ngay từ buổi đầu của khoa học hiện đại với Galile và Newton,
người ta đã xác định hai phương pháp khoa học chủ yếu là khảo sát thực
nghiệm (bao gồm cả nhưng trực cảm, kinh nghiệm) và suy diễn lý thuyết bằng
các công cụ logíc và toán học. Tuy nhiên trong phạm vi của khoa học về các
vân động cơ giới, các phương pháp đó chỉ nhằm phát hiện ra các luật cơ học
có tính tất định, các công cụ toán học phù hợp với tư duy tuyến tính và quan
điểm phân tích, các suy luận lôgic tất định và nhị nguyên.
Rõ ràng với cách nhìn mới về đối tượng và những vấn đề mới được đặt ra như
trên, khoa học cần có thêm những khả năng mới như: tiến hành các khảo sát
và thực nghiệm tiếp cận được cái phức tạp với đầy những ngẫu nhiên và hỗn
độn của đối tượng, có các công cụ lý thuyết nhằm xây dựng nhiều loại mô
hình khác nhau, tất định và ngẫu nhiên, tuyến tính và phi tuyến, toán học và
phi toán học, và có năng lực thực hiện các tính toán và suy luận dựa trên các
loại mô hình đó để rút ra các kết luận. Trong mấy thập niên qua, nội dung và
sức mạnh của 2 phương pháp khoa học cơ bản nói trên đã được bổ sung và
nâng cao rất nhiều, một mặt bởi có thêm nhiều phương tiện khảo sát và thực
nghiệm mới với kỹ thuật và công nghệ hiện đại, mặt khác toán học và lôgic
cũng được bổ sung nhiều công cụ mới để xây dựng mô hình và thực hiện suy
luận, đặc biệt là các mô hình phi tuyến, các suy luận không tất định, ngoài ra
có thêm các mô hình và phương pháp mới như các mô hình thông tin, mô hình
điều khiển, mô hình mạng nơron... và rất đáng chú ý là có thêm sự trợ giúp của
Tin học, không chỉ vì có máy tính với sức mạnh tính toán cực mạnh mà còn vì
nó cung cấp cho con người các kiểu mô hình xử lý thông tin mới, các phương
pháp mô phỏng, thực nghiệm hoàn toàn mới, và thực hiện nhiều các thức suy
luận mới, tạo ra những khả năng kết hợp mới giữa suy luận định lượng và tư
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
23
duy tính rất thích hợp và cần thiết cho việc nghiên cứu các đối tượng phức tạp
vốn không thể tuân theo bất kỳ một mô hình hình thức nào.
Ngay từ những buổi đầu hình thành lý thuyết tổng quát hệ thống, bằng trực
cảm và thực nghiệm, các nhà sáng lập như Bertalanffy, Wiener, Ashby... đã
đưa ra một hệ thống các quan niệm và các vấn đề cơ bản như về tính toàn thể,
tính hợp trội (emergence, một tính chất được xem là cơ bản nhất của hệ thống
phức tạp, có thể diễn tả vắn tắt là; một toàn thể là nhiều hơn, phong phú hơn
tổng của các thành phần), tính mở... của các hệ thống; hành vi hướng đích và
cơ chế phản hồi (feedback, cũng thường được gọi là liên hệ ngược), tính nội
cân bằng, tính tổ chức và tự tổ chức của hệ thống.... đồng thời cũng đã đề xuất
nhiều loại mô hình như mô hình hệ động lực (mô tả bởi các phương trình vi
phân hoặc sai phân), mô hình ôtômát và ôtômát mạng, mô hình mạng nơron
hình thức... để khảo sát các tính chất của hành vi như ổn định, cân bằng, khả
năng tự tái sản sinh, tự tái tổ chức... Bài toán điều khiển và do đó các hệ thống
điều khiển, quan trọng hơn cả về lý thuyết và ứng dụng thực tiễn, đã là một
vấn đề được tập trung nghiên cứu trong nhiều thập niên vừa qua.
Đối tương chính của khoa học hệ thống là các hệ thống phức tạp, dù rằng cho
đến nay khoa học cũng chưa có 1 định nghĩa chính thức nào cho bản thân khái
niệm hệ thống phức tạp. Tuy nhiên, theo quan niệm chung thì một hệ thống
phức tạp trước hết phải là một hệ thống mà các thuộc tính, hành vi của nó chỉ
có thể hiểu trong toàn thể, phản ánh tính hợp trội qua các quan hệ tương tác
của hệ; do đó hệ phải là phi tuyến (chứa nhiều quan hệ không tuyến tính, làm
cho hệ thống không quy giản được về một tổng gộp- aggregation đơn giản của
các thành phần), có những hành vi không ổn định, không tiên đoán được, có
những biến động thất thường giữa trật tự (có tổ chức) và phi trật tự, vừa tất
định lại vừa có vẻ như hỗn độn, ngẫu nhiên...
Trong nhiều vấn đề mà khoa học hệ thống quan tâm, có 2 loại vấn đề nổi bật:
một là, từ đâu sinh ra các nhiễu loạn, hỗn độn, ngẫu nhiên; và hai là, năng lực
hợp trội của các hệ thống có thể đưa các hệ thống từ hỗn độn về trật tự (hay là
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
24
sáng tạo trật tự mới), nói cách khác là các hệ thống có khả năng tự tổ chức hay
không? Các vấn đề này là chủ đề chính của lý thuyết hỗn độn (chaos theory)
và lý thuyết phức tạp (complexity theory) được phảt triển mạnh trong vài ba
thập niên gần đây. Lý thuyết hỗn độn nghiên cứu các hành vi bất thường của
các hệ động lực phi tuyến; bằng cách sử dụng các công cụ toán học (từ
phương pháp mà Poincaré đã đề xuất vào cuối thế kỷ 19 đến các kết quả đặc
sắc của nhóm Kolmogorov vào những năm 60 của thế kỷ 20) kết hợp với mô
phỏng và thực nghiệm bằng đồ hoạ máy tính đã phát hiện ra 1 hiện tượng “kỳ
lạ” là có các hệ phi tuyến khá đơn giản và tuân theo các luật tất định nhưng lại
có hành vi rất bất thường là tiến đến một tập hút lạ và hỗn độn, từ đó suy ra
rằng cái hỗn độn (bất định, ngẫu nhiên) có thể nảy sinh từ chính trong sự vận
động theo các luật tất định.
Cái hỗn độn đó được gọi là hỗn độn tất định, có các đặc trưng chính là: hành
vi của hệ thống phụ thuộc rất nhạy cảm vào điều kiện ban đầu, và các trạng
thái mà hệ thống bị hút đến có thể nhiều vô hạn, xuất hiện một cách hỗn độn,
làm cho hành vi của hệ thống là không tiên đoán được. Mặt khác, các hình ảnh
thực nghiệm bằng đồ hoạ máy tính đã cho phép ta nhìn thấy và hình dung ra
dạng hình vận động toàn thể của 1 hệ phi tuyến và do đó, cảm nhận được có
một trật tự tiàn thể ẩn sau cái vô trật tự diễn ra một cách hỗn loại của những
chuyển biến trạng thái tức thời. Khả năng “nhìn thấy” đó của tư duy là kết quả
của một sự kết hợp hài hoà giữa các phương pháp định lượng toán học và suy
luận định tính thông qua các đồ hoạ máy tính.
Dĩ nhiên, phát hiện ra cái “hỗn độn tất định” chưa có nghĩa là đã biết cái nhiễu
loạn và hỗn độn trong tự nhiên sinh ra từ đâu, mà chỉ mới biết một khả năng
là: từ các luật tất định đơn giản nhưng có một ít tương tác phi tuyến đã có thể
dẫn đến những hành vi mà đối với nhận thức của ta là hỗn độn, không tiên
đoán được.
Mặt khác, khi hành vi của một hệ thống mở và phi tuyến tiến dần tới tình trạng
hỗ độn cũng tức là khi hệ thống đi vào những trạng thái xa cân bằng, tại những
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
25
thời điểm đó (toán học thường gọi là những điểm kỳ dị, điểm rẽ nhánh...) cấu
trúc cũ của hệ có nguy cơ bị phá vỡ và hệ đứng trước nhiều hướng thay đổi,
nhưng do trong tình huống đó hệ rất nhạy cảm với các tác động bên ngoài mà
lại không thể bằng các yếu tố bên trong mà tự xác định được hướng thay đổi,
nên hệ có thể hoặc tan rã trong hỗn loạn, hoặc nhảy lên một mức cấu trúc mới
có tính trật tự cao hơn, tinh tế hơn, và không thể tiên đoán được; những điều
đó làm nên cái mà ta gọi là năng lực tự tổ chức của các hệ thống mở, phu
tuyến ở những trạng thái xa cân bằng, cũng là nhưng trạng thái thường được
gọi là bên bờ hỗn độn (at the edge of chaos). Prigogine gọi các cấu trúc mới đó
là các cấu trúc tiêu tán (dissipative structures), vì so với các cấu trúc cũ đơn
giản hơn mà chúng thay thế (đặc biệt đối với các hiện tượng lý-hoá), các cấu
trúc mới đòi hỏi nhiều năng lượng hơn (tiêu tán năng lượng) để duy trì sự bền
vững của chúng.
Như vậy, khoa học về các hệ thống phức tạp cho ta thấy từ những vận động
theo luật tất định một hệ thống phu tuyến có thể có hành vi dẫn đến hỗn độn,
bất định và ngược lại, từ trong hỗn độn (hay bên bờ hỗn độn) hệ có thể có khả
năng tự tổ chức để chuyển sang một trật tự mới có tính tổ chức cao hơn.
Những khả năng sáng xuất hiện hỗn độn từ trật tự tất định và ngước lại những
khả năng sáng tạo, phát sinh các trật tự và tổ chức mới từ hỗ độn (hay bên bờ
hỗn độn) càng ngày càng được nhận thức như là những hiện tượng phổ biến
trong các hệ thống thực tế của tự nhiên và xã hội, do đó việc nghiên cứu khoa
học về hỗn độn và trật tự (tổ chức) có ý nghĩa hết sức to lớn, nhiều người xem
đây là một khoa học mới, khởi đầu một cuộc cách mạng mới trong khoa học.
Khoa học hệ thống, với những nội dung mới đề cập trực tiếp đến các vấn đề
phức tạp vốn là bản chất của thực tế, với những phương pháp không chỉ bó
hẹp trong khuôn khổ của tư duy cơ giới, tuy chỉ mới ra đời trong những thập
niên gần đây nhưng chắc chắn sẽ phát triển mạnh trong thế kỷ mới, giúp cho
chúng ta nhận thức đầy đủ hơn, và do đó có những cách ứng xử thông minh
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
26
hơn, hài hoà hơn trong muôn mặt phong phú, đa dạng, nhưng cũng đầy trắc
trở, biến động của thiên nhiên cũng như cuộc sống con người.
1.4.2.3. Tư duy hệ thống trong cách nhìn mới
Tư duy hệ thống hiện đại, vận dụng những tư tưởng và thành tựu của khoa học
hệ thống, đồng thời cũng tiếp thu những tinh hoa trong các dòng tư duy truyền
thống, nhằm hình thành và phát triển một cách nhìn mới, một cách hiểu mới,
và từ đó, một cách xử sự mới, trước những phức tạp của thiên nhiên và cuộc
đời. Dưới đây ta sẽ lược qua (không đầy đủ) một số đặc điểm của tư duy hệ
thống.
Đặc điểm chủ yếu của tư duy hệ thống là ở cách nhìn toàn thể và do cách nhìn
toàn thể mà thấy được những thuộc tính hợp trội của hệ thống. Các thuộc tính
hợp trội là của toàn thể mà từng thành phần không thể có. Tình yêu, hạnh
phúc, thành đạt... là những thuộc tính của một con người trong toàn thể, chứ
không thể là của một bộ phận nào trong con người đó.
Cũng vậy, dân chủ, bình đẳng... là thuộc tính của một xã hội, chứ không thể là
thuộc tính của từng con người trong xã hội đó. Hợp trội là sản phẩm của tương
tác, qua tương tác mà có cộng hưởng tạo nên những giá trị cao hơn tổng gộp
đơn giản các giá trị của các thành phần. Để tạo nên được những thuộc tính hợp
trội có chất lượng cao của hệ thống, thì phải can thiệp vào các quan hệ tương
tác, chứ không phải vào hành động của các thành phần. Đồng thời cũng cần
chú ý là trong tiến hoá, qua việc tham gia tương tác các thành phần cũng tạo
nên những tính chất hợp trội của hệ thống, nhưng mặt khác, chính nhưng tính
chất hợp trội đó của hệ thống cũng làm tăng thêm phẩm chất của các thành
phần.
Trong các hệ thống thức tế, có nhiều loại tương tác khác nhau. Có những
tương tác qua trao đổi vật chất và năng lượng như trong các hệ vật lý, có
những tương tác chủ yếu là qua trao đổi thông tin (và tri thức) như trong các
hệ văn hoá xã hội; các tương tác phải được mô tả bằng một thứ ngôn ngữ nào
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
27
đó, như các mô hình toán học, mô hình lôgíc, mô hình thông tin và cybernetic
(với các quan hệ vào ra và các vong phản hồi), mô hình văn hoá xã hội (với
các quan hệ định tính).... Hệ thống có các tương tác bên trong nhưng khác với
các hệ kín thường được xem đến trong cơ học và vật lý, các hệ thống thực tế
trong sinh học, sinh thái, kinh tế và xã hội hầu hết là các hệ mở, nghĩa là có
các tương tác với bên ngoài và với môi trường. Hành vi của một hệ mở chỉ có
thể hiểu trong bối cảnh các tương tác với môi trường đó. Để “quản lý” một hệ
thống phát triển, điều hết sức quan trọng là phải hiểu được các mối tương tác
với môi trường và cần nhớ rằng trong môi trường có những yếu tố ta điều
khiển được, nhưng có rất nhiều yếu tố mà ta không thể điều khiển được. Tài
năng của người lãnh đạo hay quản lý là ở chỗ trên cơ sở những hiểu biết đó
mà điều khiển tốt những gì điều khiển được, gây ảnh hưởng đến những gì mà
mình không điều khiển được và cố cảm nhận những gì mà mình cũng không
gây ảnh hưởng được.
Tính có mục đích cũng là một đặc điểm rất quan trọng của các hệ thống phức
tạp. Có mục tiêu, chứ không phải có mục tiêu biết trước, được xác định từ đầu.
Có thể có một mục tiêu mà cũng có thể có nhiều mục tiêu đồng thời. Vì là hệ
mở, hoạt động trong môi trường, nên muốn đạt mục tiêu của mình cũng cần
biết mục tiêu của người, của các đối tác. Biết để cố “gây ảnh hưởng đến những
gì mà mình không điều khiển được”. Mục tiêu của đối tác nói dễ hiểu, là cái
mà đối tác thích. Mà cái thích của con người thì không phải bao giờ cũng dễ
hiểu. Có cái thích hợp lẽ, ta có thể hiểu bằng những suy luận duy lý. Có những
cái thích theo cảm hứng, lại có những cái thích theo thị hiếu phù hợp với một
văn hoá nào đó, ta không thể dùng lý lẽ lôgic mà hiểu được. Không thể áp đặt
cái thích của mình cho người, không thể suy bụng ta ra bụng người, mà phải
bằng trực cảm tế nhị và nghiên cứu công phu để hiểu được cái lẽ tại sao mà họ
làm những việc họ làm, họ thích những cái họ thích, từ đó cản nhận được lý do
mục tiêu của những đối tác trong môi trường rồi tuỳ đó mà xác định các giải
pháp thích nghi của mình. Các lý thuyết điều khiển tối ưu, lý thuyết trò chơi...
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
28
thích hợp cho một số lớp các hệ có mục tiêu khá đơn giản; ngày nay, “điều
khiển” trong các hệ thích nghi phức tạp với nhiều tác tử (agents) là một vấn đề
có ý nghĩa thời sự, nhưng rất khó được đặt ra và giải quyết bằng các phương
pháp hình thức, chắc sẽ rất cần nhiều cách tiếp cận mới đề nghiên cứu. Tính đa
chiều (multidimensionality), hay cũng gọi là đa thứ nguyên, là một đặc điểm
cốt yếu của tư duy hệ thống. Trong thế giới chúng ta đang sống, trong các hệ
thống của tự nhiên và xã hội luôn luôn tồn tại những khuynh hướng đối lập
nhau, những xu hướng trái ngược nhaul có những đối lập dẫn đến đối kháng
cực đoan đòi hỏi một mất một còn, nhưng đó không phải là phổ biến, mà phổ
biến là các khuynh hướng đối lập không loại trừ nhau, chung sống và tương
tác với nhau bằng đấu tranh và thoả hiệp, tạo nên một quan hệ bổ sung, một
trạng thái mới với những chất lượng mới cho phát triển. Ngày xưa, Lão Tử
viết trong Đạo đức kinh: “Thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã đã có xấu rồi; đều
biết lành là làn, thì đã có cái chẳng lành rồi; Bởi vậy, có với không cùng sanh,
khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng hình, cao và thấp cùng chiều...”
Phép biện chứng và tư duy hệ thống nói rõ hơn, không chỉ về cái lẽ cùng tồn
tại của các thuộc tính đối lập, mà còn cả về sự tương tác của các mặt đối lập,
sự chuyển hoá giữa các mặt đó với nhau, để sáng tạo nên những chất lượng
cao hơn trong quá trình phát triển của các hệ thống. Theo nhà điều khiển học
Ackoff, “Các phần không chấp nhận được riêng rẽ có thể tạo nên một toàn thể
chấp nhận được”. Chẳng hạn, riêng kỷ luật hay riêng tự do không tạo thành
một xã hội tốt, nhưng trong một xã hội lành mạnh, vừa có kỷ luật, vừa có tự
do. Tất nhiên đa chiều không nhất thiết là có đối lập. Đa chiều là có nhiều cái
khác nhau, nhiều cách nhìn, cách hiểu khác nhau về một đối tượng. Quan điểm
đa chiều trong tư duy hệ thống còn là sự cố gắng phát hiện cái giống nhau,
trong những cái khác nhau, và cái khác nhau trong những cái giống nhau. Tìm
cái giống nhau trong những cái khác nhau là khoa học, hướng tới cái phổ biến,
cái có tính quy luật; tìm cái khác nhau trong những cái giống nhau là nghệ
thuật; hướng tới những phong cách riêng, sắc thái riêng của cảm thụ. Cả hai
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
29
đều cần thiết và bổ sung cho nhau để sáng tạo nên những chất lượng phong
phú mới của cuộc sống. Đa chiều cũng là một cách nhìn nhiều mặt, nhiều cấp
độ khi tìm hiểu các hệ thống. Một lý thuyết về một loạt hệ thống nào đó bao
giờ cũng phản ánh một cách hiểu nhất định về từng mặt và từng cấp độ khi
xem xét nó. Cần hết sức tránh việc áp đặt một lý thuyết cụ thể nào xem là chân
lý thuyệt đối về các hệ thống đó, mà nên xem mỗi lý thuyết đều có những giới
hạn giải thích nhất định. Đặc biệt, đối với các hệ thống kinh tế và xã hội, nhiều
lý thuyết trước đây được xây dựng theo các mô hình cơ giới, tất định, đã
không còn thích hợp với sự phát triển hiện đại, cần được xem xét lại theo quan
điểm đa chiều nói trên.
Như đã trình bày trong 1 phần trước, các hệ thống phức tạp đều có những quan
hệ phi tuyến. Nếu hệ thống có mô hình toán học, thì trong mô hình đó có
những quan hệ toán học không tuyến tính được định nghĩa một cách chính
xác, còn nếu không có mô hình toán học thì ta có thể hiểu phi tuyến là những
quan hệ không có sự phụ thuộc đều đặn giữa các thay đổi của nguyên nhân và
của hệ quả. Tính phi tuyến là phổ biến đối voqưí các hệ thống phức tạp. Chính
do tính phi tuyến mà hành vi của hệ thống có thể có những bất thường, phụ
thuộc nhạy cảm vào những đổi thay rất bé của các điều kiện ban đầu, từ ổn
định chuyển sang bất ổn định, từ trật tự chuyển sang phi trật tự và hỗn độn.
Mặt khác, khi một hệ thống đi vào những trạng thái xa cân bằng, tới “bên bờ
hỗn độn”, thì cũng là lúc có thể có những bước nhảy đột biến đến một trật tự
mới có tính tổ chức cao hơn. Có thể có những khả năng, nhưng khả năng cụ
thể nào là không tiên đoán được. Ở đây ta gặp một tình huống khác về chất so
với các hệ thống cân bằng và ổn định. Trong cân bằng và ổn định thì ta có thể
tiên đoán và lập kế hoạch, còn ở đây, có thể dự phòng chứ không thể tiên đoán
chính xác và lập kế hoạch trước, ta phải chuẩn bị ứng phó với nhiều các có thể
và xử trí một cách linh hoạt, thích nghi với những diễn biến cụ thể của tình
hình. Bước nhảy đưa ta đến đâu là tuỷ ở sự mẫn cảm trong lựa chọn một cách
sáng tạo và linh hoạt của người tham gia. Thế giới đã không còn là tuyến tính,
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
30
tư duy phi tuyến đòi hỏi con người phải luôn sẵn sàng đối phó với những điều
chưa biết, chưa từng gặp, với những bất định và bất ổn định, và bằng năng lực
thích nghi, sáng tạo mà tìm được từ trong những bất định, bất ổn định đó
những hướng đi tới những trật tự mới. Ta đã biết trong nền kinh tế hiện đại có
nhiều yếu tố tuân theo những quan hệ phi tuyến với cơ chế tự tăng cường, với
các vòng phản hồi dương, tạo nên những bất ổn định thường xuyên và những
trồi sụt thất thường của các ưu thế cạnh tranh, trong một môi trường như vậy
không thể giữ mãi cách quản lý cũ bằng kế hoạch hoá mà phải tự chuẩn bị cho
mình một năng lực thích nghi, thường xuyên sáng tạo, linh hoạt để phản ứng
nhanh với mọi biến động và không bỏ lỡ những thời cơ.
Những điều trình bày trên về tư duy hệ thống có thể góp phần giúp ta có một
cách nhìn mới, một cách hiểu mới về các hệ thống phức tạp. Có những điều đã
có căn cứ khoa học rõ ràng, nhưng cũng còn nhiều điều chưa có những lý giải
khoa học đủ sức thuyết phục. Khoa học ngày nay đang cố mở rộng khả năng
cho những phương pháp nghiên cứu của mình để bao quát thêm những chân
trời mới của nhận thức. Nhưng có giới hạn nào đó cho khoa học hay không?
Từ năm 1936, Max Planck, nhà vật lý sáng lập cơ học lượng tử đã viết: “Khoa
học... có nghĩa là một sự cố gắng không mệt mỏi và một sự phát triển tiến bộ
liên tục nhằm hướng tới một mục tiêu mà trực giác thơ mộng có thể nắm bắt
được nhưng trí tuệ không bao giờ có thể hiểu thấu hoàn toàn”.
Cái phức tạp, đa dạng và cực kỳ phong phú của thiên nhiên và cuộc sống,
trước khi được nhận thức bằng khoa học đã được con người cảm nhận qua trực
giác và thể hiện bằng ngôn ngữ của thơ ca, âm nhạc, hội hoạ, của nghệ thuật
nói chung. Và giờ đây, sau mấy thế kỷ khoa học được phát triển như một công
cụ chủ yếu của nhận thức thế giới, dù khoa học đã mạnh hơn bao giờ hết,
nhưng chính vì rất mạnh mà tự hiểu được những hạn chế của mình, nên lại cần
đến sự hỗ trợ của nghệ thuật để nắm bắt cái mà mình không thể hiểu thấu hoàn
toàn. Phải chăng đây chính là lúc cả khoa học và nghệ thuật đã cùng đạt đến
trình độ chín muồi để mà không còn tách bạch, phân chia, để mà liên kết hỗ
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
31
trợ nhau cùng giúp con người thấu hiểu và cảm nhận được mọi vẻ đẹp phong
phú cũng như mọi biến hoá phức tạp của tự nhiên và của cuộc đời.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
32
Chƣơng 2
CÁC LÝ THUYẾT HỌC TẬP
2.1. Thuyết phản xạ có điều kiện của pavlov
Pavlov có đề tài nghiên cứu về vấn đề tiết dịch vị. Mỗi khi ăn, thức ăn
vào dạ dày sẽ tiết ra một lượng lớn dịch vị giúp tiêu hóa thức ăn, Pavlov đã
tiến hành thí nghiệm trên chó, ông muốn biết đại não truyền đạt mệnh lệnh cho
dạ dày như thế nào?
Một hôm Pavlov và trợ lý tiến hành thí nghiệm tiết dịch vị đối với chú chó già
đã được thuần dưỡng nhiều năm. Con chó đã sống ở trong phòng thí nghiệm
rất nhiều năm, nó quen tất cả các nhân viên làm thí nghiệm ở đây. Chó là loại
vật rất hiểu tính người, người nuôi chó hàng ngày đem thức ăn cho chúng nên
những chú chó ở đây đều biết người nuôi chúng.
Chú chó già nói trên rất thông minh, nó biết
Pavlov là lãnh đạo ở đây nên tỏ ra rất quấn
quýt ông. Chú được đưa lên đứng trên bục
thí nghiệm, từng giọt dịch vị chảy ra và được
đưa vào trong một cái khay thông qua một
ống dẫn. Phòng thí nghiệm im phăng phắc
đến mức nghe được cả tiếng thở nhè nhẹ.
Một giờ trôi qua, nhân viên làm thí nghiệm
vừa quan sát vừa ghi chép. Dịch vị của chó
tiết ra bình thƣờng, mỗi phút khoảng 25 giọt.
Bỗng ngoài cửa vọng vào tiếng bƣớc chân của nhân viên
nuôi chó, rồi ngƣời nhân viên này bê thức ăn của chó đi qua
cửa phòng thí nghiệm, bƣớc chân xa dần rồi mất hẳn.
Lúc đó nhân viên thí nghiệm phát hiện dịch vị của chó tiết ra
tăng lên, mỗi phút khoảng 100 giọt. Hiện tượng này trước lúc
đó chưa từng xảy ra, nhân viên phòng thí nghiệm ngạc nhiên nhìn xung quanh
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
33
nhưng không thấy gì lạ. Họ đành mời Pavlov đến để báo cáo với ông hiện
tượng kỳ lạ này. Pavlov nghe xong rất ngạc nhiên, ông cẩn thận quan sát
phòng thí nghiệm nhưng cũng không phát hiện ra điều gì khác thường nữa, từ
lúc đó trở đi ông đắm chìm vào suy nghĩ.
Khi mọi người đang suy nghĩ chưa tìm ra được nguyên nhân thì họ lại nghe
thấy bước chân của nhân viên nuôi chó từ xa vọng lại, anh đã cho chó ăn
xong. Lúc người nhân viên đem thức ăn cho chó đi qua cửa thì Pavlov và các
nhân viên phòng thí nghiệm lại phát hiện dịch vị của chó tiết ra tăng lên rất
nhiều. Nhân viên thí nghiệm bỗng hiểu ra và nói với Pavlov rằng vừa rồi vì có
nhân viên nuôi chó đi qua cửa nên dịch vị của chó mới tiết nhiều lên như vậy.
Pavlov nghĩ, lẽ nào
dịch vị của chó tiết ra
lại tăng nhiều lên nhƣ
vậy, hiện tƣợng này có
liên quan tới bƣớc
chân của ngƣời nuôi chó chăng? Để xác định lại điều này,
Pavlov đã nói với người nuôi chó cứ 15 phút đi qua lại cửa
phòng thí nghiệm một lần, làm 3 lần như thế.
Người nhân viên nuôi chó nghe Pavlov nói thấy lạ, nhưng anh ta vẫn làm theo
đúng yêu cầu của ông. Pavlov và nhân viên thí nghiệm vui mừng phát hiện ra
rằng cứ mỗ lần nhân viên nuôi chó đi qua trước cửa phòng thí nghiệm là dịch
vị của chó lại đột nhiên tăng lên nhiều. Pavlov nghĩ: "Tiếng bước chân của
người nuôi chó gắn liền với sự xuất hiện thức ăn, lâu dần nó và thức ăn có một
quan hệ đặc biệt thông qua cái đầu của con chó, tức là bước chân của người
nuôi chó có thể thay thế cho thức ăn. Tiếng bước chân ấy vang lên chó biết
ngay là thức ăn sắp được đưa tới, thông qua thần kinh đại não ra mệnh lệnh
làm cho dạ dày tiết nhiều dịch vị ra".
Từ phát hiện này, Pavlov nghĩ đến bất kỳ một loại tín hiệu nào nhƣ tiếng
chuông, ánh sáng, tiếng còi,... Chỉ cần nó gắn liền với sự xuất hiện của
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
34
thức ăn một thời gian liên tục nào đó, thì chắc chắn nó cũng sẽ có hiệu
quả nhƣ vậy.
Hôm sau, Pavlov nói với người nuôi chó khi
mang thức ăn cho chó phải lắc chuông
trước. Sau đó 1 tháng, cách huấn luyện này
đã có kết quả sơ bộ, tin này đã làm cho rất
nhiều người thích thú, mọi người đều đến
tham quan và nhìn thấy đến giờ cho chó ăn chỉ cần lắc
chuông tất cả các con chó ở đây đều mừng cuống quýt,
tranh nhau đến máng thức ăn đợi người cho ăn đến.
Nhưng thí nghiệm này chỉ có tác dụng với những chú chó làm thí nghiệm đã
được huấn luyện lâu dài, còn với những chú chó mới sinh ra và chưa qua huấn
luyện thì không được. Pavlov cho rằng đây là một loại phản ứng đối với sự
kích thích từ bên ngoài, ông gọi nó là "phản xạ có điều kiện" của động
vật.
Sau này Pavlov còn đi sâu nghiên cứu về những vấn đề này đồng thời đã viết
ra tác phẩm nổi tiếng của mình. Vì những thành tựu này Pavlov nhận được
giải thưởng Nobel. Pavlov biết rằng khoa học và vô hạn, ông vẫn phải tiếp tục
phấn đấu không mệt mỏi cho nó.
"Khoa học yêu cầu ở mỗi người phải có tinh thần làm việc hết sức khẩn
trương và sự nhiệt tình to lớn".
-- Pavlov --
Dựa trên thí nghiệm của Ivan Pavlov về con chó cùng miếng thịt và cái
chuông. Khi chưa hình thành phản xạ có điều kiện, con chó không hề chảy
nước miếng khi nghe tiếng chuông. Sau thời gian luyện tập, con chó đã hình
thành phản xạ có điều kiện và chảy nước miếng khi nghe tiếng chuông, vì nó
biết tiếng chuông này gắn với miếng thịt nó sẽ được ăn. Theo học thuyết này,
học tập được xây dựng dựa trên mối liên hệ giữa kích thích có điều kiện và
kích thích không điều kiện. Ví dụ, trong một nhà máy sản xuất, mỗi khi nhận
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
35
được thông báo về chuyến viếng thăm của cấp trên, ban quản lý sẽ yêu cầu
dọn dẹp và làm vệ sinh sạch sẽ, lau chùi cửa sổ. Theo thời gian, việc lau chùi
cửa sổ của nhân viên trở thành một thói quen tốt. Khi nhìn thấy cửa sổ bị bẩn,
họ sẽ có phản xạ cần phải lau sạch cho dù đôi khi không có chuyến viếng thăm
nào.
Tuy nhiên, phản xạ có điều kiện là một cách học tập thụ động. Một tổ chức
thường cần sự tích cực học tập của nhân viên hơn. Ví dụ như chủ động đặt câu
hỏi với sếp hoặc yêu cầu giúp đỡ khi có khó khăn, chủ động đi làm đúng giờ.
2.2. Thuyết hành vi
2.2.1. Những quan niệm cơ bản của thuyết hành vi
Dựa trên lý thuyết có phản xạ của Pavlop, năm 1913 nhà tâm lý học Mỹ
Watson đã xây dựng lý thuyết hành vi giải thích cơ chế của việc học tập.
Thorndike (1864-1949), Skinner (1904-1990) và nhiều tác giả khác đã tiếp tục
phát triển những mô hình khác nhau của thuyết hành vi.
Quá trình học tập được hiểu là quá trình thay đổi hành vi. Thông qua những
kích thích về nội dung, phương pháp dạy học, người học có những phản ứng
tạo ra những hành vi học tập và qu đó thay đổi hành vi của mình.
Một số quan niệm cơ bản của thuyết hành vi như sau:
- Các lý thuyết hành vi giới hạn việc nghiên cứu cơ chế học tập qua các hành
vi bên ngoài có thể quan sát khách quan bằng thực nghiệm.
- Thuyết hành vi không quan tâm đến các quá trình tâm lý chủ quan bên trong
của người học như tri giác, cảm giác, tư duy, ý thức, vì cho rằng những yếu tố
này không thể quan sát khách quan được. Bộ não được coi như hộp đen không
quan sát được.
- Thuyết hành vi cổ điển (Waatson): quan niệm học tập là tác động qua lại
giữa kích thích và phản ứng (S-R), nhằm thay đổi hành vi. Vì vậy trong dạy
học cần tạo ra những kích thích nhằm tạo ra hưng phấn từ đó có các phản ứng
học tập và thông qua đó thay đổi hành vi.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
36
- Thuyết hành vi Skiner: khác với thuyết cổ điển, Skiner không chỉ quan tâm
đến mối quan hệ giữa kích thích và phản ứng mà đặc biệt nhấn mạnh mối quan
hệ giữa hành vi và hệ quả của chúng (S-R-C). Những hệ quả của hành vi này
có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi học tập của HS Mô hình
học tập theo thuyết hành vi
2.2.2. Những đặc điểm của học tập theo thuyết hành vi
Có thể tóm tắt những đặc điểm chung của cơ chế học tập theo thuyết hành vi
như sau:
- Dạy học được định hướng theo các hành vi đặc trưng có thể quan sát được.
- Các quá trình học tập phức tạp được chia thành một chuỗi các học tập đơn
giản, trong đó bao gồm các hành vi cụ thể với trình tự được quy định sẵn.
Những hành vi phức tạp được xây dựng thông qua sự kết hợp các bước học tập
đơn giản.
- Giáo viên hỗ trợ và khuyến khích hành vi đúng đắn của người học, tức là sắp
xếp sự học tập sao cho người học đạt được hành vi mong muốn và sẽ được
phản hồi trực tiếp.
- Giáo viên thường xuyên điều chỉnh và giám sát quá trình học tập để kiểm
soát tiến bộ học tập và điều chỉnh kịp thời những sai lầm.
Thuyết hành vi được ứng dụng đặc biệt trong dạy học chương trình hóa, dạy
học được hỗ trợ bằng vi tính, trong dạy học thông báo tri thức và huấn luyện
thao tác. Trong đó quan trọng là phân chia nội dung học tập thành những đơn
vị kiến thức nhỏ , tổ chức cho HS lĩnh hội tri thức và kỹ năng một cách tuần
tự, thường xuyên kiểm tra và điều chỉnh quá trình dạy học.
Tuy nhiên thuyết hành vi bộc lộ những nhược điểm và bị phê phán mạnh mẽ:
- Thuyết hành vi chỉ chú ý đến kích thích ở bên ngoài. Tuy nhiên hoạt động
học tập không chỉ do kích thích từ bên ngoài mà còn là sự chủ động bên trong
của chủ thể nhận thức.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
37
- Quá trình nhận thức bên trong của chủ thể nhận thức, đặc biệt là tư duy đóng
vai trò quan trọng trong hoạt động học tập. Quá trình này không được thuyết
hành vi chú ý đến.
2.3. Thuyết nhận thức
2.3.1. Những quan niệm cơ bản của thuyết nhận thức
2.3.1.1. Quá trình hình thành lý thuyết nhận thức - hành vi
Khái niệm về nhận thức: Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", nhận thức
là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con
người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Khái niệm về hành vi: hành vi là xử sự của con nguời trong 1 hoàn cảnh cụ
thể, biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ nhất định.
Các quan điểm về hành vi và nhận thức xuất phát từ hai dòng tác phẩm tâm
lý học có liên quan. Về mặt lịch sử, lý thuyết học hỏi xuất hiện đầu tiên và
phát triển trong TLH lâm sang sử dụng trị liệu hành vi dựa trên nghiên cứu của
TLH. Sheldon (1995) biểu đạt bản chất của lý thuyết này là việc tách biệt ý
thức và hành vi. Các quan điểm tâm động học và quan điểm truyền thống lại
cho rằng hành vi xuất phát từ một quá trình thực hiện theo ý thức của chúng ta,
điều này có nghĩa là hành vi của con người xuất hiện dựa trên ý thức của họ.
Nhưng lý thuyết học hỏi cho rằng chúng ta không thể biết được điều gì đang
xảy ra trong ý thức của ai đó. Do đó, chúng ta chỉ có thể trị liệu tập trung đến
việc giải quyết các vấn đề làm thay đổi hành vi mà không quan tâm đến những
vấn đề biến đổi nào có thể xảy ra trong ý thức của chúng ta trong quá trình
này.
Lý thuyết học hỏi xã hội của Bandura (1977) mở rộng thêm quan điểm này
và cho rằng hầu hết các lý thuyết học hỏi đạt được qua nhận thức của con
người và suy nghĩ về những điều mà họ đã trải nghiệm qua. Họ có thể học hỏi
qua việc xem xét các ví dụ của người khác và điều này có thể áp dụng vào việc
trị liệu.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
38
Như vậy lý thuyết nhận thức – hành vi là một phần của quá trình phát triển
lý thuyết hành vi và trị liệu, gần đây lại được xây dựng trên lý thuyết học hỏi
xã hội. Nó cũng phát triển vượt qua khỏi hình thức về trị liệu của lý thuyết trị
liệu thực tế (Glasser- 1965) được các tác giả như Beck (1989) và Ellis (1962)
đưa ra. Lý thuyết nhận thức- hành vi đánh giá rằng: hành vi bị ảnh hưởng
thông qua nhận thức hoặc các lý giải về môi trường trong quá trình học hỏi.
Như vậy, rõ rang là hành vi không phù hợp phải xuất hiện từ việc hiểu sai và
lý giải sai. Quá trình trị liệu phải cố gắng sửa chữa việc hiểu sai đó, do đó,
hành vi chúng ta cũng tác động một cách phù hợp trở lại môi trường. Theo
Scott (1989), có nhiều cách tiếp cận khác nhau như theo quan điểm của Beck
là đề cập tới cách tư duy lệch lạc về bản thân (“mình là đồ bỏ đi..), về cuộc
sống của chúng ta, về tương lai của chúng ta đang hướng đến những nỗi lo âu
và căng thẳng; quan điểm của Ellis có trọng tâm về những niềm tin không hợp
lý về thế giới và quan điểm trọng tâm của Meincheanbeum (1977) về những
mối đe dọa mà chúng ta trải qua.
Được xây dựng nên từ những lý thuyết trên mà ngành công tác xã hội
truyền thống đã lộ ra những bất cập và những hạn chế. Cho đến những năm
1980, các lý thuyết nhận thức mới thiết lập được một vị thế trong lý thuyết
công tác xã hội chủ yếu là thông qua công trình nghiên cứu của Goldstein
(1982, 1984), đây là người tìm kiếm quan điểm mang tính nhân văn vào các lý
thuyết này. Quan điểm nhân văn cho rằng, chỉ có cái hiện thực là vấn đề được
nhận thức và được hiểu, hiện thực của than chủ cần được tôn trọng và chấp
nhận do đó không được phủ nhận nhận thức của thân chủ và công kích họ.
Thành tố về sự chấp nhận này đã mang lại hiệu quả cao hơn và mang tính tự
nhiên hơn so với những quan điểm truyền thống của Công tác xã hội.
2.3.1.2. Quan điểm của Sheldon về Trị liệu hành vi - nhận thức cho cá nhân
Đánh giá gần đây của Sheldon về trị liệu hành vi đã đưa ra những đóng góp
về mặt nhận thức. Theo ông một thành tố quan trọng trong trị liệu hành vi
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
39
chính là việc lựa chọn các yếu tố tăng cường, thúc đẩy để củng cố hành vi.
Các yếu tố này cần được quan sát, khái quát hóa và mô hình hóa (học hỏi qua
trải nghiệm), điều này đòi hỏi chúng ta hành động dựa trên nhận thức của
chúng ta về thế giới về cuộc sống. Sheldon cũng chỉ ra việc học hỏi thông qua
việc lập mô hình là nhận thức, điều này có nghĩa là chúng ta tự suy nghĩ về
bản thân trong các tình huống mà chúng ta đang quan sát, chỉ ra được chúng ta
hành động ra sao. Trong thực tế, việc thúc đẩy cách nghĩ như trên là rất hữu
ích.
Theo ông, lượng giá là một khía cạnh quan trọng trong cách tiếp cận hành
vi- nhận thức. Một chuổi hình thức lượng giá phù hợp sẽ gồm những nội dung
sau:
* Đạt được sự mô tả những vấn đề từ những quan điểm khác nhau.
* Đưa ra những ví dụ về ai bị tác động và tác động như thế nào
* Tìm kiếm những hình thức khởi đầu của các vấn đề, chúng biến đổi ra
sao và tác động đến chúng ở những vấn đề gì?
* Xác định những khía cạnh khác nhau của các vấn đề và chúng phù hợp
với nhau ra sao?
* Lượng giá về động cơ cho sự biến đổi.
* Xác định những mô hình tư duy và những cảm xúc có trước, trong và sau
những biến cố về hành vi của vấn đề.
* Xác định những điểm mạnh trong và xung quanh thân chủ.
Như vậy, ở đây, cán sự xã hội cần xác định, đánh giá các nhân tố ảnh
hưởng tới thân chủ, các cán sự nên tập trung nhiều vào việc mô tả về hành vi
hơn là phán xét về nó. Những vấn đề nảy sinh trong và sau quá trình can thiệp
cũng cần được đo lường bởi nhiều khi “giai đoạn đối lập” sẽ xuất hiện sau một
giai đoạn can thiệp và việc can thiệp lại khởi động lại thêm lần nữa. Trong quá
trình trị liệu, các cán sự có thể chia làm hai nhóm để kiểm soát những phản
ứng (gồm các hoạt động như mô hình hóa, đào tạo kỹ năng xã hội, sự quyết
đoán) và quản lý những vấn đề bất ngờ.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
40
Đánh giá của Scott (1989) về cách tiếp cận nhận thức hành vi cũng tương
phản với Sheldon qua việc nhấn mạnh đến những hình thức can thiệp về nhận
thức. Đánh giá của ông về can thiệp nhận thức chính là việc chúng được tóm
lược, có khả năng ứng dụng rộng rãi, được cấu trúc ở cấp độ cao, dễ dàng học
hỏi và có hiệu quả. Ông áp dụng để đánh giá trong bốn lĩnh vực về hành vi của
trẻ, rối loạn xúc cảm như lo lắng và thất vọng, các vấn đề liên quan cá nhân
như vấn đề hôn nhân hay thiếu kỹ năng xã hội và những rối loạn về việc tự
kiểm soát việc lạm dụng chất ma túy.
2.3.1.3. Bản chất của Thuyết nhận thức - hành vi
- Sơ lược về Thuyết hành vi: S -> R -> B (S là tác nhân kích thích, R là
phản ứng, B là hành vi). Thuyết cho rằng con người có phản ứng do có sự thay
đổi của môi trường để thích nghi. Như vậy, khi có 1 S sẽ xuất hiện nhiều R
của con người, nhưng dần dần sẽ có 1 R có xu hướng lặp đi lặp lại do chúng ta
được học hay được củng cố khi kết quả của phản ứng đó mang lại điều gì
chúng ta mong đợi. Như vậy theo thuyết này thì hành vi con người là do chúng
ta tự học mà có và môi trường là yếu tố quyết định hành vi. (Do trời mưa, do
tắc đường nên nghỉ học). Các mô hình trị liệu hành vi vì thế mà nhiều khi
được sử dụng một cách sai lầm như phương pháp thưởng phạt. Phương pháp
này gây cho đối tượng cảm giác bị áp đặt.
Thuyết nhận thức-hành vi:
- Thuyết trị liệu nhận thức – hành vi hay còn gọi là thuyết trị liệu nhận thức
(behavioral cognitive therapy) bởi nền tảng của nó là các ý tưởng hành vi hoặc
là trị liệu nhận thức xã hội do sự liên kết của nó với lý thuyết học hỏi xã hội
- Nội dung của thuyết: thuyết này cho rằng: chính tư duy quyết định
phản ứng chứ không phải do tác nhân kích thích quyết định. Sở dĩ chúng ta có
những hành vi hay tình cảm lệch chuẩn vì chúng ta có những suy nghĩ không
phù hợp. Do đó để làm thay đổi những hành vi lệch chuẩn chúng ta cần phải
thay đổi chính những suy nghĩ không thích nghi.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
41
- Mô hình: S -> C -> R -> B
Trong đó: S là tác nhân kích thích, C là nhận thức, R là phản ứng, B là kết quả
hành vi.
Gỉai thích mô hình: Theo sơ đồ thì S không phải là nguyên nhân trực tiếp
của hành vi mà thay vào đó chính nhận thức C về tác nhân kích thích và về kết
quả hành vi mới dẫn đến phản ứng R.
Ví dụ: tâm lý của học viên khi có thông báo thanh tra xuống kiểm tra,
người thì lo lắng không biết mình có bị phát hiện đi học hộ, người thì trách
móc trước sự khắt khe của thanh tra, người thì nghĩ mình may mắn khi không
nghỉ quá buổi học, người thì thấy đúng và ủng hộ => xuất phát từ nhận thức về
tác nhân kích thích thanh tra.
- Quan điểm về nhận thức và hành vi: 2 quan điểm
+ Theo các nhà lý thuyết gia nhận thức- hành vi thì các vấn đề nhân cách
hành vi của con người được tạo tác bởi những suy nghĩ sai lệch trong mối
quan hệ tương tác với môi trường bên ngoài. (Aron T. Beck và David Burns
có lý thuyết về tư duy méo mó). Con người nhận thức lầm và gán nhãn nhầm
cả từ tâm trạng ở trong ra đến hành vi bên ngoài, do đó gây nên những niềm
tin, hình tượng, đối thoại nội tâm tiêu cực. Suy nghĩ không thích nghi tốt đưa
đến các hành vi của một cái tôi thất bại.(ví dụ, đứa trẻ suy nghĩ và chắc mẩm
rằng mẹ mình không yêu thương mình bằng em mình, từ đó đứa trẻ xa lánh mẹ
và tỏ thái độ khó chịu với mẹ, không gần gũi)
+ Hầu hết hành vi là do con người học tập (trừ những hành vi bẩm sinh),
đều bắt nguồn từ những tương tác với thế giới bên ngoài, do đó con người có
thể học tập các hành vi mới, học hỏi để tập trung nghĩ về việc nâng cao cái tôi,
điều này sẽ sản sinh các hành vi, thái độ thích nghi và củng cố nhận thức.
=> Như vậy, lý thuyết này cho ta thấy rằng cảm xúc, hành vi của con người
không phải được tạo ra bởi môi trường, hoàn cảnh mà bởi cách nhìn nhận vấn
đề. Con người học tập bằng cách quan sát, ghi nhớ và được thực hiện bằng suy
nghĩ và quan niệm của mỗi người về những gì họ đã trải nghiệm.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
42
Như vậy, thuyết này mang tính nhân văn cao cả và đúng đắn khi đã đặt
đúng trọng tâm vai trò của chủ thể con người trong hành vi của họ (khác với
thuyết hành vi coi trọng yếu tố tác nhân kích thích; thuyết học tập xã hội coi
trọng yếu tố thói quen hay học tập)
Thuyết nhân thức ra đời trong nửa đầu của thế kỷ 20 và phát triển mạnh mẽ
vào nửa sau thế kỷ 20. Các đại diện lớn của thuyết này là nhà tâm lý học người
Áo Piagie cũng nhà các nhà tâm lý học Xô viết Vugotski,
Thuyết nhận thức nhấn mạnh ý nghĩa của cấu trúc nhận thức. Những quan
niệm cơ bản của các lý thuyết nhận thức là:
- Các lý thuyết nhận thức nghiên cứu quá trình nhận thức bên trong với tư
cách là quá trình xử lý thông tin. Bộ não xử lý các thông tin tương tự như một
hệ thống kỹ thuật.
- Theo lý thuyết nhận thức, quá trình nhận thức là quá trình có cấu trúc, và có
ảnh hưởng quyết định đến hành vi. Con người tiếp thu các thông tin bên ngoài,
xủ lý và đánh giá chúng, từ đó quyết định các hành vi ứng xử.
- Trung tâm của quá trình nhận thức là các hoạt động trí tuệ như: xác định ,
phân tích và hệ thống hóa các sự kiện và các hiện tượng, nhớ lại những kiến
thức đã học, giải quyết các vấn đề và phát triển, hình thành các ý tưởng mới.
- Cấu trúc nhận thức của con người không phải bẩm sinh mà hình thành qua
kinh nghiệm.
- mỗi người có cấu trúc nhận thức riêng. Vì vậy muốn có sự thay đổi đối với
một người thì cần có tác động phù hợp nhằm thay đổi nhận thức của người đó.
- Con người có thể tự điều chỉnh quá trình nhận thức: tự đạt mục đích, xây
dựng kế hoạch và thực hiện. Trong đó có thể tự quan sát, tự đánh giá và tự
hưng phấn, không cần kích thích từ bên ngoài.
Mô hình học tập theo thuyết nhận thức
Thông tin đầu vào
(Kích thích)
ti HỌC SINH (quá trình
nhận thức GQVĐ)
Kết quả đầu ra
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
43
2.3.2. Những đặc điểm của học tập theo thuyết nhận thức
Những đặc điểm cơ bản của học tập theo quan điểm của thuyết nhận thức:
- Mục đích của quá trình dạy học là tạo ra những khả năng để người học hiểu
thế giới thực (kiến thức khách quan). Vì vậy, để đạt được các mục tiêu học
tập, không chỉ kết quả học tập mà quá trình học tập và quá trình tự duy là điều
quan trọng.
- Nhiệm vụ của người dạy là tạo ra môi trường học tập thuận lợi, thường
xuyên khuyến kích các quá trình tư duy, HS cần được tạo cơ hội hành động và
tư duy tích cực.
- Giải quyết vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy.
Các quá trình tư duy được thực hiện không chỉ thông qua các vấn đề nhỏ, đưa
ra một cách tuyến tính, mà thông qua việc đưa ra các nội dung học tập phức
hợp.
- Các PP học tập có vai trò quan trọng trong quá trình học tập của HS. Các PP
học tập gồm tất cả các cách thức làm việc và tư duy mà HS sử dụng để tổ chức
và thực hiện quá trình học tập của mình một cách hiệu quả nhất.
- Việc học tập thực hiện trong nhóm có vai trò quan trọng, giúp tăng cường
những khả năng về mặt xã hội.
- Cần có sự kết hợp thích hợp giữa nội dung do GV truyền đạt và những nhiệm
vụ tự lực chiếm lĩnh và vận dụng tri thức của HS.
Các phương pháp và quan điểm dạy học được đặc biệt chú ý là dạy học giải
quyết vấn đề, dạy học định hướng hành động, dạy học khám phá, dạy học theo
nhóm.
Tuy nhiên việc dạy học thuyết nhận thức có những giới hạn: việc dạy học
nhằm phát triển tư duy, giải quyết vấn đề, dạy học khám phá đòi hỏi nhiều thời
gian và đòi hỏi cao ở sự chuẩn bị cũng như năng lực của GV. Ngoài ra, cấu
trúc quá trình tư duy không quan sát trực tiếp được nên những mô hình dạy
học nhằm tối ưu hóa quá trình nhận thức cũng chỉ mang tính giả thuyết
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
44
2.4. Thuyết kiến tạo
2.4.1. Những quan niệm cơ bản của thuyết kiến tạo
Thuyết kiến tạo có thể coi là bước phát triển tiếp theo của thuyết nhận thức.
Đặt vai trò hàng đầu của chủ thể nhận thức của quá trình nhận thức. Tất cả
những gì mà mỗi người trải nghiệm thì sẽ được sắp xếp chúng vào trong “bức
tranh toàn cảnh về thế giới” của người đó, tức là tự kiến tạo riêng cho mình
một bức tranh thế giới.
Những qua niệm chính của thyết kiến tạo như sau:
- Không có tri thức khách quan tuyệt đối. Tri thức xuất hiện thông qua việc
chủ thể nhận thức tự cấu trúc vào hệ thống bên trong của mình, vì thế tri thức
mang tính chủ quan.
- Với việc nhấn mạnh vai trò chủ thể nhận thức trong việc giải thích và kiến
tạo tri thức, thuyết kiến tạo thuộc lý thuyết định hướng chủ thể.
- Cần tổ chức sự tương tác giữa người học và đối tượng học tập, để giúp người
học xây dựng thông tin mới và cấu trúc tư duy của chính mình, đã được chủ
thể điều chỉnh.
- Học không chỉ là khám phá mà còn là sự giải thích, cấu trúc mới tri thức
Những đặc điểm cơ bản của học tập theo thuyết kiến tạo:
- Tri thức được lĩnh hội trong học tập là một quá trình và sản phẩm kiến tạo
theo từng cá nhân thông qua tương tác giữa người học và nội dung học tập.
- Về mặt nội dung, dạy học phải định hướng theo lĩnh vực và vấn đề phức
hợp, gần với cuộc sống và nghề nghiệp, được khảo sát một cách tổng thể.
- Việc học tập chỉ có thể được thực hiện trong hoạt động tích cực của người
học, vì chỉ từ những kinh nghiệm và kiến thức mới của bản thân thì mới thay
đổi và cá nhân hóa những kiền thức và kỹ năng đã có.
- Học tập trong nhóm có ý nghĩa quan trọng, thông qua tương tác xã hội trong
nhóm góp phần cho người học tự điều chỉnh sự học tập của bản thân
- Học qua sai lầm là điều có ý nghĩa.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
45
- Nội dung học tập cần định hướng vào hứng thú người học, vì có thể học hỏi
dễ nhất từ những nội dung mà người ta thấy hứng thú hoặc có tính thách thức.
- Thuyết kiến tạo không chỉ giới hạn ở những khía cạnh nhận thức của việc
dạy và học. Sự học tập hợp tác đòi hỏi và khuyến khích phát triển không chỉ
có lý trí, mà cả về mặt tình cảm, thái độ, giao tiếp.
Mục đích học tập là kiến tạo kiến thức của bản thân, nên khi đánh giá các kết
quả học tập không định hướng theo sản phẩm học tập, mà cần kiểm tra những
tiến bộ trong quá tình học tập và những tình huống học tập phức hợp.
Mô hình học tập theo thuyết kiến tạo
Điều cơ bản đối với việc học tập theo thuyết kiến tạo là tính độc lập của HS.
Có thể phác họa khái quát ba xu hướng cơ bản sau:
- Thuyết kiến tạo nội sinh là quan điểm đi xa nhất. Các đại diện của nó chỉ
muốn tạo ra những điều kiện học tập (môi trường học tập có tính khuyến
khích), sao cho nhờ những kinh nghiệm mới cũng như kiến thức và kỹ năng đã
có từ trước đến nay HS trong nhóm học tập có thể mở rộng và thiết kế lại tri
thức của mình mà không cần sự giúp đỡ quan trọng của GV.
- Những người theo thuyết kiến tạo ngoại sinh ủng hộ sự tác động mạnh của
GV, GV sẽ tác động như mô hình theo nghĩa của sự học tập mang tính xã hội.
người học sẽ quan sát GV trong hành động và tư duy và tìm cách tiếp nhận các
hành động và tư duy đó
2.4.2. Những đặc điểm của học tập theo thuyết kiến tạo
Theo J. Bruner, không có kiến thức khách quan tuyệt đối. Kiến thức là
một quá trình và là sản phẩm được kiến tạo theo từng cá nhân (tương tác giữa
đối tượng học tập và người học); Về mặt nội dung, dạy học phải định hướng
theo những lĩnh vực và vấn đề phức hợp, gần với cuộc sống và nghề nghiệp,
được khảo sát một cách tổng thể; Việc học tập chỉ có thể được thực hiện trong
một quá trình tích cực, vì chỉ từ những kinh nghiệm và kiến thức mới của bản
thân thì mới có thể thay đổi và cá nhân hóa những kiến thức và khả năng đã
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
46
có; Học tập trong nhóm có ý nghĩa quan trọng góp phần cho người học tự điều
chỉnh học tập của bản thân mình; Học qua sai lầm là điều rất có ý nghĩa; các
lĩnh vức học tập cần định hướng vào hứng thú người học, vì có thể học hỏi dễ
nhất từ những kinh nghiệm mà người ta thấy hứng thú hoặc có tính thách thức;
TKT không chỉ giới hạn những khía cạnh nhận thức của việc dạy và
học. Sự học tập hợp tác đòi hỏi và khuyến khích phát triển không chỉ có lý trí
mà còn phát triển cả về mặt tình cảm, giao tiếp; Mục đích học tập là xây dựng
kiến thức của bản thân nên khi đánh giá các kết quả học tập không định hướng
theo các sản phẩm học tập, mà cần kiểm tra những tiến bộ trong quá trình học
tập và trong những tình huống học tập phức tạp.
Một số hạn chế của thuyết kiến tạo
Quan điểm cực đoan trong thuyết kiến tạo phủ nhận sự tồn tại của tri
thức khách quan là không thuyết phục; Một số tác giả nhấn mạnh quá đơn
phương rằng chỉ có thể học tập có ý nghĩa những gì mà người ta quan tâm.
Tuy nhiên, trong cuộc sống đòi hỏi cả những điều mà khi còn đi học người ta
không quan tâm; Việc đưa các kỹ năng cơ bản vào các đề tài phức tạp mà
không có luyện tập cơ bản có thể làm hạn chế kết quả học tập; Lưu ý, dạy học
theo thuyết kiến tạo đòi hỏi nhiều thời gian, mà vấn đề này liên quan đến việc
quá tải trong dạy học hiện nay.
Dạy học theo quan điểm của thuyêt kiến tạo (TKT)
Dạy học theo quan điểm của thuyết kiến tạo nghĩa là giáo viên (GV)
hướng dẫn để học sinh (HS) tự khám phá ra tri thức, thực hiện những nhiệm
vụ học tập, từ đó kiến tạo tri thức cho bản thân. Vì vậy, các kiểu dạy học như:
dạy học khám phá, dạy học hợp tác, dạy học giải quyết vấn đề đều được coi
là các PPDH vận dụng quan điểm của lý thuyết kiến tạo. Đã có nhiều tác giả
nghiên cứu vận dụng TKT trong dạy học một số môn học ở trường phổ thông.
Nhưng ở Việt Nam vẫn còn ít tác giả nghiên cứu vận dụng TKT trong dạy học
Sinh học.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
47
Trong dạy học, HS được khuyến khích sử dụng các phương pháp riêng
của họ để kiến tạo tri thức chứ không phải chấp nhận lối tư duy của người
khác. Như vậy, tri thức được kiến tạo một cách tích cực bởi chủ thể nhận thức
chứ không phải được tiếp nhận một cách thụ động từ môi trường bên ngoài.
Trong môi trường học tập kiến tạo, HS được học nhiều hơn khi thực sự được
cuốn hút vào việc học, thay vì chỉ lắng nghe thụ động, nghĩa là TKT coi trọng
vai trò chủ động và tích cực của HS trong quá trình học tập để tạo nên tri thức
cho bản thân, đặc biệt tư duy của HS dần trở nên trừu tượng và phát triển hơn,
HS được thúc giục để hoạt động trong tiến trình học tập. Vai trò trung tâm của
quá trình dạy học được chuyển từ GV sang HS, GV đóng vai trò là người cố
vấn, dàn xếp, nhắc nhở và giúp HS phát triển, đánh giá những hiểu biết và việc
học của mình. Cả GV và HS không chỉ xem kiến thức là một thứ để nhớ mà
còn xem kiến thức là một cấu trúc động. Quy trình dạy học theo TKT có cấu
trúc như sau:
Theo quy trình này, việc dạy một kiến thức mới không phải bắt đầu từ
việc GV thông báo kiến thức đó mà phải bắt đầu từ việc khám phá của HS về
kiến thức cần lĩnh hội. HS có cơ hội bộc lộ những quan điểm của mình, lắng
nghe quan điểm của bạn, được tranh luận, thống nhất ý kiến. Qua lắng nghe,
theo dõi những quan điểm của HS, GV sẽ phát hiện ra nhiều yếu tố bất ngờ
hoặc khác thường, GV tôn trọng những ý kiến của HS, khuyến khích HS lựa
chọn con đường đi đúng để tiếp cận được tri thức. Kết quả của hoạt động đó,
Khám phá
Câu hỏi của HS
Khảo sát cụ thể
Phản ánh Kiến tạo tri thức mới
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
48
HS có được một hệ thống kiến thức phù hợp với yêu cầu, đồng thời các em
tìm ra được con đường chiếm lĩnh tri thức.
Dạy học theo mô hình trên đã chứa đựng sự thay đổi quan điểm là dạy
học phải luôn chú ý tới những tri thức và kỹ năng đã có của HS, đó là một
trong những tiền đề để tổ chức dạy học những kiến thức mới.
TRƯỜNG ĐHSPKT HƯNG YÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
49
Chƣơng 3
CHIẾN LƢỢC HỌC TẬP VÀ DẠY HỌC HIỆU QUẢ
3.1. Khái niệm chiến lƣợc học tập
Mọi chiến lược học tập và dạy học hiện đại hiện nay đều bắt nguồn từ
những dòng triết lí hoặc cách tiếp cận lí thuyết chủ yếu sau:
1. Triết lí kiến tạo – Constructivism (nhận thức và xã hội)
2. Triết lí hợp tác – Cooperative Learning
3. Triết lí hành vi – Behaviorism Learning
4. Triết lí giải quyết vấn đề - Problem Solving Learning
5. Triết lí hiện thực, hiện sinh – Existentialism, Pragmatism, Realism
Các chiến lược dạy học có ảnh hưởng lớn thường nỗ lực thể hiện những
triết lí này trong các hình thức khác nhau. Dạy học dựa vào dự án bao quát đủ
những triết lí trên, có hợp tác, có giải quyết vấn đề, có ki
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11200017_5076_1984617.pdf