Tài liệu Lực lượng Cao Đài yêu nước ở Nam Bộ trong giai đoạn 1945 – 1954: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
101
Lực lượng Cao Đài yêu nước ở Nam Bộ
trong giai đoạn 1945 – 1954
The patriotic Caodaism in Southern Vietnam in the period of 1945 – 1954
ThS. Phạm Văn Phương,
Trường Đại học Sài Gòn
Pham Van Phuong, M.A.,
Saigon University
Tóm tắt
Năm 1945, khi trở lại xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp thực hiện âm mưu “dùng người Việt, đánh
người Việt”. Đạo Cao Đài trở thành đối tượng lôi kéo của thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh đó, hưởng
ứng lời kêu gọi đoàn kết kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại bộ phận chức sắc, tín đồ Cao Đài
dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Hội Cao Đài cứu quốc, mà đứng đầu là cụ Cao Triều Phát, đã có những
đóng góp to lớn vào sự nghiệp chống Pháp bảo vệ độc lập của tổ quốc.
Từ khóa: đạo Cao Đài, Nam Bộ, kháng chiến chống Pháp, Hội Cao Đài cứu quốc, Cao Triều Phát.
Abstract
In 1945, when returning to invade Vietnam, French colonialists carried out the conspiracy “to use
Vi...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 547 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lực lượng Cao Đài yêu nước ở Nam Bộ trong giai đoạn 1945 – 1954, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
101
Lực lượng Cao Đài yêu nước ở Nam Bộ
trong giai đoạn 1945 – 1954
The patriotic Caodaism in Southern Vietnam in the period of 1945 – 1954
ThS. Phạm Văn Phương,
Trường Đại học Sài Gòn
Pham Van Phuong, M.A.,
Saigon University
Tóm tắt
Năm 1945, khi trở lại xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp thực hiện âm mưu “dùng người Việt, đánh
người Việt”. Đạo Cao Đài trở thành đối tượng lôi kéo của thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh đó, hưởng
ứng lời kêu gọi đoàn kết kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại bộ phận chức sắc, tín đồ Cao Đài
dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Hội Cao Đài cứu quốc, mà đứng đầu là cụ Cao Triều Phát, đã có những
đóng góp to lớn vào sự nghiệp chống Pháp bảo vệ độc lập của tổ quốc.
Từ khóa: đạo Cao Đài, Nam Bộ, kháng chiến chống Pháp, Hội Cao Đài cứu quốc, Cao Triều Phát.
Abstract
In 1945, when returning to invade Vietnam, French colonialists carried out the conspiracy “to use
Vietnamese to fight against Vietnamese”. Caodaism became the object of the French colonialists. In that
situation, responding to President Ho Chi Minh's call for the unity for the sake of the Resistance, the
majority of dignitaries and Caodaism followers, under the leadership of the “Cao Dai Cuu Quoc”
movement, whose leader was Cao Trieu Phat, made great contributions to the cause of fighting against
the French colonialists in order to maintain independence in Vietnam.
Keywords: Caodaism, Southern Vietnam, resistance war against France, Cao Dai cuu quoc, Cao Trieu Phat.
1. Đặt vấn đề
Đạo Cao Đài ra đời ở Nam Bộ những
năm 20 của thế kỷ XX, như một lối thoát
về tinh thần cho quần chúng nhân dân đang
chịu nhiều khó khăn do chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trong
quá trình phát triển, do những khác biệt
trong con đường tu tập, lãnh đạo giáo hội,
một số chức sắc cao cấp của đạo đã tách ra
khỏi tòa thánh Tây Ninh thành lập chi phái
khác nhau với tổ chức giáo hội riêng. Dù bị
chia rẽ, nhưng đạo Cao Đài có một số
lượng tín đồ đông đảo, trở thành một lực
lượng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời
sống chính trị - xã hội ở Nam Bộ trước và
sau Cách mạng tháng Tám.
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp
bùng nổ, lúc đầu các chi phái Cao Đài
đoàn kết xung quanh Ủy ban Kháng chiến
Nam Bộ chống ngoại xâm, tuy nhiên sau
một thời gian, hàng ngũ kháng chiến có sự
phân hóa, một bộ phận Cao Đài Tây Ninh
đã có chính sách hợp tác với thực dân
Pháp nhằm đổi lại những điều kiện thuận
LỰC LƯỢNG CAO ĐÀI YÊU NƯỚC Ở NAM B TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
102
lợi cho việc hành đạo. Trong khi đó, đại bộ
phận chức sắc và tín đồ các chi phái Cao
Đài (có cả Cao Đài Tây Ninh trung thành)
vẫn đồng hành với cuộc kháng chiến dưới
sự lãnh đạo của chính quyền cách mạng
các cấp. Tìm hiểu về những hoạt động của
hàng ngũ chức sắc, tín đồ yêu nước dưới
sự dẫn dắt của Hội Cao Đài cứu quốc, sẽ
góp phần làm rõ được những đóng góp to
lớn của tôn giáo này trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp.
2. Nội dung
2.1. Đạo Cao Đài trước năm 1945
Những năm 20 của thế kỷ XX, chế độ
cai trị hà khắc của thực dân Pháp khiến đời
sống nhân dân Việt Nam gặp nhiều khó
khăn. Các phong trào yêu nước của tầng
lớp sĩ phu theo khuynh hướng phong kiến
đều thất bại. Khao khát một sự giải thoát về
tinh thần trước tình cảnh ngày càng khốn
trở thành nhu cầu của đông đảo nhân dân.
Đạo Cao Đài ở Nam Kỳ ra đời trong hoàn
cảnh đó, coi như một cứu cánh, sự giải
thoát cho con người trong hoàn cảnh khốn
cùng, bức bách.
Ngày 7-10-1926, các tín đồ gởi
đến Thống đốc Nam Kỳ Le Fol một bản
tuyên cáo khai đạo bằng tiếng Pháp với
chữ ký của 28 tín đồ có địa vị cao nhất
trong xã hội, kèm theo tờ khai tịch đạo của
245 tín đồ. Sau đó, các tín đồ tổ chức 3
nhóm truyền đạo khắp Nam Kỳ. Ngày 19-
11-1926 (15-10 năm Bính Dần), các tín đồ
Cao Đài đã tổ chức Đại lễ Khai Đạo tại
chùa Gò Kén còn gọi là Thiền Lâm Tự,
Tây Ninh và ra mắt Hội Thánh Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ với sự hiện diện của quan
chức chính quyền của cả người Pháp,
người Việt.
Đạo Cao Đài có hơn 10 ngàn tín đồ lúc
mới khai đạo, đến năm 1930 số tín đồ đã
tăng lên gần nửa triệu. Dù trong quá trình
phát triển có sự phân hóa, nhưng đạo Cao
Đài có đầy đủ những yếu tố cấu thành một
tôn giáo: hệ thống giáo lý, luật lệ, lễ nghi,
đội ngũ chức sắc, chức việc, tổ chức giáo
hội, cơ sở thờ tự ở các tỉnh Nam Kỳ và
Trung Kỳ.
Khi mới ra đời, đạo Cao Đài là một tổ
chức thống nhất với cơ quan đầu não
là Tòa thánh Tây Ninh. Trong quá trình
phát triển, những khác biệt trong con
đường tu tập, quyền điều hành giáo hội nên
một số chức sắc cao cấp tách ra thành các
chi phái khác nhau. Trước Cách mạng
Tháng Tám, đạo Cao Đài chia thành 12 chi
phái, mỗi chi phái đều có tổ chức giáo hội
riêng, trong đó có 5 chi phái lớn và quan
trọng hơn hết là: Cao Đài Tây Ninh, Cao
Đài Ban Chỉnh Đạo, Cao Đài Tiên Thiên,
Cao Đài Minh Chơn Đạo và Cao Đài Minh
Chơn Lý. Thời kháng chiến chống Pháp,
tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ có trên 1 triệu
người, chiếm khoảng 20% dân số Nam Bộ,
họ sinh sống xen lẫn ở các tỉnh có vị trí
chiến lược về kinh tế, quân sự quan trọng
như: Gia Định, Tây Ninh, Bà Rịa, Chợ
Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Trà
Vinh, Bến Tre, Bạc Liêu [7:2].
Sau Khởi nghĩa Nam Kỳ, chính quyền
thực dân Pháp nghi ngờ các chi phái Cao
Đài có liên quan, nên ra lệnh đóng cửa hầu
hết các toàn thánh, thánh thất, cấm đoán
việc tập hợp, cúng kiếng; chức sắc, chức
việc nhiều người bị bắt giam, một số chức
sắc bị đày ra Côn Đảo. Riêng với phái Cao
Đài Tây Ninh, Toà Thánh bị quân đội Pháp
chiếm đóng, nhà in, thư viện, viện bảo tàng
đều bị quân Pháp chiếm giữ, Hộ Pháp
Phạm Công Tắc và năm chức sắc lớn của
phái Cao Đài Tây Ninh bị đưa đi đày ở
Madagascar.
Năm 1940, Phát xít Nhật sang Đông
Dương, muốn gây dựng một lực lượng hậu
PHẠM VĂN PHƯƠNG
103
thuẫn để tranh giành quyền lợi với Pháp.
Nhật tìm cách móc nối với số Chức sắc
Cao Đài Tây Ninh ở Sài Gòn như Trần
Quang Vinh. Hàng ngàn thanh niên được
đưa về Sài Gòn làm việc trong hãng tàu
Nitinan của Nhật, ban đêm được các sĩ
quan Nhật huấn luyện quân sự, lực lượng
này có khi còn được gọi là Nội ứng nghĩa
binh (tiền thân của lực lượng vũ trang Cao
Đài Tây Ninh sau này)
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp,
lực lượng Cao Đài Tây Ninh nhanh chóng
tham gia việc bảo vệ, canh gác các địa
điểm quan trọng ở Sài Gòn. Sau cuộc đảo
chính, tình hình chính trị ở cả Việt Nam và
Nam Kỳ có nhiều chuyển biến, Nhật tuyên
bố trao trả độc lập cho Việt Nam, nhưng kỳ
thực là thực hiện chính sách Đại Đông Á.
Trong hoàn cảnh đó, nhiều đảng phái chính
trị ra đời, tranh thủ lôi kéo lực lượng.
Lo ngại đạo Cao Đài bị các thế lực lợi
dụng làm ảnh hưởng đến tôn chỉ hành đạo.
Một số chức sắc các chi phái Cao Đài ở Sài
Gòn đã đứng ra vận động thành lập một
khối Cao Đài thuần chân đạo đức, không
tham gia chính trị. Nỗ lực này được các
nhân vật nổi bật như: Lê Kim Tỵ (phái
Tiên Thiên), Cao Triều Phát (Minh Chơn
Đạo), Nguyễn Ngọc Tương (Ban Chỉnh
Đạo) tán thành. Tháng 6-1945, một đại
hội toàn đạo của 11 Chi phái (không có
Toà Thánh Tây Ninh) họp tại Tam Giáo
điện Minh Tâm, Hội nghị do Cao Triều
Phát chủ tọa và tuyên bố những nội dung
chủ yếu:
+ Các phái Cao Đài giữ việc tu hành
chơn chánh
+ Không thừa nhận những ai lạm dụng
danh nghĩa Cao Đài lập ra tổ chức chánh
trị, quân sự có hại cho Đạo, cho nước
[4:60].
Đồng thời, Hội nghị quyết định thành
lập một tổ chức lấy tên là: “Cơ Quan Cao
Đài Hiệp Nhứt”, bầu Cao Triều Phát làm
Chủ tịch, Lê Kim Tỵ làm Phó Chủ tịch,
Trần Văn Nho làm Tổng Thư Ký, Phan
Thanh làm Trưởng ban Truyền giáo phụ
trách miền Nam, Thanh Long làm Phó ban
Truyền giáo phụ trách Trung Kỳ, Bắc Kỳ.
2.2. Cao Đài tham gia kháng chiến từ
1945 - 1946
Cách mạng Tháng Tám thành công,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời
đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, kêu gọi
toàn dân đoàn kết một lòng, không phân
biệt giáo lương, cùng nhau sát cánh cánh
chung quanh Mặt trận Việt Minh, sẵn sàng
bảo vệ tổ quốc, kiên quyết chống giặc
ngoại xâm.
Tín đồ và chức sắc của các phái Cao
Đài đều hăng hái tham gia kháng chiến,
ủng hộ kháng chiến. Ngay trong những
ngày đầu chống Pháp, Cao Triều Phát vận
động tín đồ Cao Đài Minh Chơn Đạo tích
cực tham gia Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng,
bản thân ông và gia đình hiến 5.000 ha
ruộng đất và tất cả số vàng gia đình dành
dụm được [5:23].
Cao Đài Ban Chỉnh Đạo ở Bến Tre, có
hai người con trai của Giáo tông Nguyễn
Ngọc Tương đều trở thành cán bộ cách
mạng tham gia kháng chiến: Kỹ sư Nguyễn
Ngọc Bích, Khu bộ phó Khu 9 và kỹ sư
Nguyễn Ngọc Nhựt, ủy viên Uỷ ban Kháng
chiến Hành chánh Nam Bộ. Với sự ủng hộ
của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương nên
đông đảo chức sắc, tín đồ của Hội thánh
Cao đài Ban Chỉnh đạo đã tích cực tham
gia kháng chiến cứu quốc.
Đối với Cao Đài Tây Ninh, khi thực
dân Pháp nổ súng xâm lược, lực lượng vũ
trang giáo phái này gồm Chi đội 7 do
Nguyễn Thanh Bạch chỉ huy và Chi đội 8
do Nguyễn Hoài Thanh (Nguyễn Văn
LỰC LƯỢNG CAO ĐÀI YÊU NƯỚC Ở NAM B TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
104
Thành) chỉ huy, hợp tác với các lực lượng
khác chống giặc trên mặt trận số 1 (phía
Đông) và số 2 (phía Bắc). Đây là hai trong
bốn mặt trận bao quanh Sài Gòn – Chợ
Lớn – Gia Định, ngăn không cho thực dân
Pháp đánh ra các vùng ngoại vi. Một số
nhân vật quan trọng, chức sắc của chi phái
này tham gia vào chính quyền cách mạng
như: Đặng Trung Chữ là Phó Chủ nhiệm
Mặt trận Việt Minh tỉnh Tây Ninh; Trần
Văn Xương được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy
ban Nhân dân tỉnh Tây Ninh.
Cuối tháng 10-1945, Pháp nhận thêm
viện binh, mở cuộc tấn công từ Sài Gòn
đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ. Trước sức
tấn công của Pháp, ngày 19, 20 tháng 11-
1945, Cao Triều Phát triệu tập hội nghị
chức sắc của toàn phái Cao Đài Minh Chơn
Đạo, tại Hội nghị ông khái quát tình hình
xâm lược của thực dân Pháp và kêu gọi
chức sắc tín đồ toàn phái Cao Đài Minh
Chơn Đạo hãy hưởng ứng nhiệt liệt lời kêu
gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tham gia
kháng chiến bảo vệ tổ quốc.
Với khẩu hiệu: “Bàn thờ tôn giáo thì
có nhiều, bàn thờ tổ quốc chỉ có một”, tín
đồ Cao Đài không thể viện lý do tu hành,
mà cúi đầu chịu nhục đầu hàng kẻ xâm
lược dày xéo quê hương, giết hại đồng
bào. Sau hai ngày thảo luận, hội nghị
đồng thanh quyết nghị thành lập Mặt trận
kháng chiến chống Pháp của Cao Đài
Minh Chơn Đạo. Căn cứ kháng chiến đặt
ấp Giồng Bốm, nơi có Tòa thánh Ngọc
Minh với hàng ngàn chức sắc, tín đồ sống
xung quanh.
Đại hội cử Cao Triều Phát làm Tổng
chỉ huy Măt trận. Ban chỉ huy có các vị
như: Giáo hữu Trần Hữu Nam, Giáo sư
Nguyễn Hiền Ngô, Đạo hữu Huỳnh Văn
Hai, Giáo sư Ngô Văn Phú, Giáo sư Dương
Công Hương, Đạo hữu Phạm Văn Thiệt,
Giáo hữu Dương Văn Luân, Giáo hữu
Huỳnh Thị Quỳ, Đạo hữu Nguyễn Thị
Quyên, Đạo hữu Phan Thị Lợi.v.v và
nhiều chức sắc, tín đồ khác trong các Ban
chuyên môn như: Ban tham mưu, Ban quân
sự, Ban tiếp tế quân lương, quân trang, Ban
cứu thương, Ban vận động ủng hộ mặt
trận.v.v[6:15].
Ngày 29-1-1946, thực dân Pháp đánh
chiếm thị xã Bạc Liêu, từ đây chúng tỏa ra
càn quét các vùng đất còn lại: thị trấn Vĩnh
Lợi, Giá Lai, Cà Mau.v.v Giồng Bốm trở
thành mục tiêu cần phải đánh chiếm của
Pháp. Để đối phó với hoạt động chiến tranh
của Pháp, hàng ngàn tín đồ, chức sắc của
Cao Đài Minh Chơn Đạo từ khắp các tỉnh
Cà Mau, Bạc Liêu, Rạch Giá, Hà Tiên qui
tụ về Tòa thánh Ngọc Minh [8:76]. Công
tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương,
Tòa Thánh Ngọc Minh củng cố và xây
dựng trở thành một chiến lũy để chống
giặc, xung quanh Tòa thánh có xưởng rèn
đúc vũ khí, hầm nuôi giấu cán bộ, thao
trường luyện quân, đường hào liên thông
với công sự.
Thanh niên có đạo khỏe mạnh đều
được tuyển mộ vào lực lượng chiến đấu,
lực lượng tại đây được tổ chức thành 18
trung đội, tương đương với 2 tiểu đoàn.
Mỗi trung đội được phân công đảm nhận
một địa bàn, vị trí quan trọng, lực lượng
còn lại làm các nhiệm vụ tuần tra, canh
gác, sản xuất lương thực, rèn đúc vũ khí.
Phụ nữ đảm nhận các nhiệm vụ cứu
thương, tiếp tế hậu cần, vận động ủng hộ
kháng chiến [8:77].
Ngày 6-4-1946, thực dân Pháp cho
một trung đội tiến vào Giồng Bốm để thám
thính, lực lượng này bị phát hiện đánh trả
nên nhanh chóng rút lui. Một tuần sau,
ngày 12-4, Pháp cho 3 máy bay bắn phá
Mặt trận Giồng Bốm, khiến nhiều nghĩa
PHẠM VĂN PHƯƠNG
105
quân hy sinh và bị thương. Ngày hôm sau,
hơn 100 lính Pháp tấn công Giồng Bốm,
nhờ có hệ thống phòng ngự được chuẩn bị
từ trước, Mặt trận đứng vững, tiêu diệt
hàng chục quân giặc.
Sau hai lần tấn công thất bại, ngày
15-4, Pháp cho máy bay, pháo binh oanh
tạc mở đường cho hai tiểu đoàn quân viễn
chinh chia làm ba mũi tiến vào Giồng
Bốm. Nghĩa quân bám từng công sự, hầm
hào chiến đấu anh dũng từ sáng đến trưa,
súng đạn hết thì dùng gươm, giáo mác, tầm
vông đánh giáp lá cà. Do tương quan lực
lượng chênh lệch, đạn dược không còn,
Cao Triều Phát ra lệnh rút quân để bảo toàn
lực lượng. Trong trận đánh này, có 106
chiến sĩ hy sinh, hơn 100 giặc Pháp bị tiêu
diệt [6:14].
Trận đánh tại Mặt trận Giồng Bốm gây
tiếng vang lớn, đây là một trong những trận
quyết chiến lớn nhất Tây Nam Bộ trong
những ngày đầu chống Pháp. Ý chí chống
xâm lược của tín đồ Cao Đài Minh Chơn
Đạo có ý nghĩa cỗ vũ, khích lệ tinh thần
yêu nước, bảo vệ đạo của đông đảo tín đồ
các chi phái Cao Đài và quần chúng nhân
dân nói chung.
Sau một thời gian tiến hành chiến
tranh xâm lược trên toàn cõi Việt Nam và
Đông Dương, thực dân Pháp thấy rõ khả
năng không thể thực hiện được chiến lược
“đánh nhanh thắng nhanh” bằng các cuộc
tiến công quân sự. Từ thực tế đó, Pháp đã
chuyển hướng chiến lược sang thực hiện
một cuộc chiến tranh lâu dài nhằm từng
bước “bình định” vùng nông thôn đông dân
nhiều của. Trong đó, Pháp vẫn coi “bình
định Nam Bộ là một khâu then chốt, chúng
hy vọng hoàn thành mục tiêu này vào mùa
thu 1947”[3:312]. Song song với hoạt động
quân sự để tìm diệt lực lượng kháng chiến,
thực dân Pháp tìm cách chia rẽ dân tộc
trong kế hoạch bình định Nam Bộ, nhằm
tạo ra hai lực lượng đối địch nhau: khối
cộng sản và khối quốc gia, cả trong kháng
chiến và ngoài kháng chiến. Mục đích của
Pháp nhằm: “gây ra một thứ nội chiến giữa
người Việt Nam với nhau” [11:487]. Cơ
quan Tình báo Pháp tại Sài Gòn lôi kéo
những người đứng đầu trong các giáo phái
Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên. Đồng
thời, lợi dụng một số sai sót của chính
quyền cách mạng trong thời kỳ đầu kháng
chiến để khoét sâu khoảng cách giữa một
bộ phận tôn giáo, đảng phái với cách mạng.
Pháp muốn biến cuộc kháng chiến chống
xâm lược thành cuộc xung đột đổ máu
trong nội bộ nhân dân Việt Nam.
Ngày 9-6-1946, Trần Quang Vinh -
chức sắc cao cấp đại diện cho phái Cao Đài
Tây Ninh ký kết với Pháp một thỏa ước
hợp tác với nội dung: “Đối với Pháp quân
đội Cao Đài Tây Ninh phải ngưng chiến và
giải tán tất cả bộ đội cơ động lưu động
kháng chiến.
Đối với Đạo, quân đội Pháp cũng
ngưng các cuộc tấn công khủng bố, không
bắt buộc đá động đến một chức sắc hoặc
đạo hữu nào tất cả. Trả lại các quyền tự do
tín ngưỡng truyền bá của Đạo. Mở cửa
Tòa Thánh và các Thánh thất được tự do
thờ phượng cúng kiếng trong phạm vi tôn
giáo. Đem Đức Hộ Pháp và chư vị Thiên
Phong trở về cố quốc và giao trả lại các
quyền tự do công dân” [9:83]. Để lôi kéo
chi phái này, Pháp trao trả lại Tòa thánh
Tây Ninh, các thánh thất được mở cửa
cúng kiếng tự do, các tín đồ bị bắt đều
được thả, Hộ Pháp Phạm Công Tắc và các
chức sắc bị đi đày ở Madagascar cũng sẽ
được đưa về nước. Hành động hợp tác với
Pháp khiến một số chức sắc và tín đồ Cao
Đài Tây Ninh có tinh thần chống Pháp bất
bình, họ gửi đơn xin tham gia Hội nghị
LỰC LƯỢNG CAO ĐÀI YÊU NƯỚC Ở NAM B TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
106
hiệp nhất Cao Đài và ủng hộ kháng chiến.
Nhóm này tự xưng là phái Tây Ninh trung
thành, để phân biệt với bộ phận còn lại
trong chi phái.
2.3. Tổ chức Cao Đài cứu quốc 1947
- 1954
Tháng 4-1947, Cao Triều Phát – Phó
chưởng quản Hội thánh Cao Đài Minh
Chơn Đạo Hậu Giang, đứng ra vận động
các hội thánh thành lập “Cao Đài cứu quốc
11 phái hợp nhất”. Cao Triều Phát được
bầu làm Hội trưởng, Nguyễn Ngọc Nhựt
làm Hội phó và thành lập Ban Chấp hành
Cao Đài Cứu quốc ở cấp tỉnh, huyện, xã
khắp Nam Bộ [4:60].
Để góp phần vào kháng chiến đáng
trong lúc khó khăn, hưởng ứng lời kêu gọi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cao Triều Phát
đã lập “Quyển sổ vàng Cao Đài cứu quốc”
vận động chức sắc, chức việc, tín đồ đóng
góp tài chính ủng hộ kháng chiến. Ngoài
ra, còn tổ chức bán đấu giá chiếc áo lụa của
Chủ tịch Hồ Chí Minh để gây quỹ ủng hộ
ngày thương binh liệt sĩ. Số tiền thu được
từ hai đợt vận động trên khoảng 136.478
đồng Đông Dương (1 đồng = 1 giạ lúa)
[4:61].
Đại hội lần I
Để tăng cường sự đoàn kết và nhất trí
trong nhận thức và hành động kháng chiến,
Đại hội đại biểu các phái Cao Đài trong tổ
chức Cao Đài 11 phái hiệp nhất được tổ
chức. Ngay sau đó, một số chức sắc và tín
đồ của phái Tây Ninh trung thành cũng xin
tham gia.
Các đại biểu của 12 phái Cao Đài
(gồm cả phái Tây Ninh trung thành) toàn
Nam Bộ tề tựu về chiến khu Đồng Tháp
Mười tham dự Đại hội từ 14 đến 17-10-
1947. Đại hội đã vạch trần thủ đoạn “chia
để trị” của thực dân Pháp và lên án hành
động của thiểu số những người đồng đạo
lợi dụng tôn giáo để chống lại tổ quốc,
quyết định thành lập Hội Cao Đài cứu quốc
12 phái hiệp nhất để hướng dẫn chức sắc
và tín đồ các phái góp phần vào sự nghiệp
kháng chiến chống ngoại xâm.
Mười hai phái gồm: Cao Đài Minh
Chơn Đạo (Cà Mau); Cao Đài Ban Chỉnh
Đạo (Bến Tre); Cao Đài Tiên Thiên (Bến
Tre); Cao Đài Minh Chơn Lý (Mỹ Tho);
Cao Đài Chiếu Minh Long Châu (Cần
Thơ); Cao Đài Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý
(Rạch Giá); Cao Đài Tây Ninh; Cao Đài
Hội Giáo (Cần Thơ); Cao Đài Cao Thượng
Bửu Tòa (Bạc Liêu); Cao Đài Tuyệt Cốc
(Tây Ninh); Chơn Lý Tầm Nguyên (Long
An); Liên Hòa Tổng Hội (Sài Gòn) [4:61].
Thành phần Ban chấp hành, Ban cố
vấn và Ban kiểm soát của có đại diện của
tất cả các phái: Cao Triều Phát được bầu
làm chủ tịch, các ông: Phạm Hồng Tiên
(Cao Đài Ban Chỉnh Đạo), Nguyễn Ngọc
Khảm (Cao Đài Tây Ninh trung thành),
Nguyễn Ngọc Nhựt (Cao Đài Ban Chỉnh
Đạo) làm Phó Chủ tịch. Các vị trong Ban
Chấp hành Hội Cao Đài Cứu quốc đã tuyên
thệ luôn trung thành với Tổ quốc, nguyện
đem hết năng lực và công tâm phụng sự
nước nhà; không phản đạo, phản quốc, triệt
để ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh.
Ngoài việc thành lập Hội Cao Đài cứu
quốc 12 phái hiệp nhất, đại hội còn thống
nhất lập: “Hội thánh duy nhất” của Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và suy tôn Cao Triều
Phát làm Chưởng quản Cửu Trùng Đài,
Phạm Hồng Tiên làm Chưởng Quản Hiệp
Thiên Đài. Đồng thời cho xuất bản tờ
Đường Sáng, Cơ quan ngôn luận của Đạo
để hướng dẫn tín đồ hành đạo, kêu gọi tinh
thần yêu nước chống giặc, phổ biến tin tức,
vạch trần những âm mưu lợi dụng, mua
chuộc chia rẽ tôn giáo của thực dân Pháp
[4:61].
PHẠM VĂN PHƯƠNG
107
Chủ nhiệm kỳ bộ Việt Minh Nam Bộ,
ông Hà Huy Giáp hoan nghênh việc thành
lập Hội Cao Đài cứu quốc 12 phái hiệp
nhất và tuyên bố công nhận Hội là một tổ
chức thành viên của Kỳ bộ. Thay mặt Ủy
ban Hành chính Nam Bộ, ủy viên nội vụ
Ung Văn Khiêm gửi thư khen ngợi chức
sắc và tín đồ 12 phái đã làm thất bại âm
mưu của thực dân muốn gây nên cảnh cốt
nhục tương tàn, kêu gọi mọi người đoàn
kết để đóng góp nhiều hơn nữa cho công
cuộc trường kỳ kháng chiến và hứa sẽ giúp
đỡ mọi phương tiện để Hội hoàn thành
nhiệm vụ của mình. Ông ca ngợi cụ Cao
Triều Phát là: “nhà ái quốc chân thành, nêu
tấm gương vì Đạo vì Đời cho mọi người
noi theo” [4:46].
Sau Đại hội, tổ chức Hội Cao Đài cứu
quốc 12 phái hiệp nhất các cấp: tỉnh, quận,
xã lần lượt được thành lập ở khắp các tỉnh
của Nam Bộ, Hội đều có đại diện trong
Mặt trận Liên Việt các cấp. Được sự dẫn
dắt và động viên của các cấp Hội, chức sắc,
tín đồ Cao Đài các chi phái nhiệt tình tham
gia mọi công tác: đi Vệ Quốc đoàn, gia
nhập dân quân du kích, tăng gia sản xuất
lương thực để nuôi quân đánh giặc, đỡ đầu
các đơn vị vũ trang, giúp đỡ thương binh,
cứu tế nạn nhân chiến tranh.v.v Các lực
lượng vũ trang của Cao Đài cứu quốc được
tập hợp vào Trung đoàn 124, sát cánh
chiến đấu với lực lượng vũ trang do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Ngày 3-5-
1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi
“Mười hai phái Cao Đài do cụ Cao Triều
Phát lãnh đạo luôn luôn cùng đồng bào
toàn quốc hăng hái kháng chiến. Tổ quốc
và Chính phủ sẽ nhớ công những người
con trung thành” [3:335-336].
Đại hội lần II
Ngày 14 đến 18-10-1948, Hội Cao Đài
cứu quốc tổ chức Hội nghị Khoáng đại lần
thứ II cũng tại chiến khu Đồng Tháp Mười.
Hội nghị quyết định đổi tên Hội Cao Đài
cứu quốc 12 phái hiệp nhất thành Hội Cao
Đài cứu quốc 12 phái thống nhất, thành lập
thêm các đoàn thể Thanh niên Cao Đài cứu
quốc, Phụ nữ Cao Đài cứu quốc để tạo điều
kiện thuận lợi về mặt tổ chức cho đông đảo
chức sắc, tín đồ nam nữ tham gia kháng
chiến. Cụ Cao Triều Phát tiếp tục được bầu
làm Chủ tịch Hội.
Ngày 24-10, Hội ra bản tuyên ngôn 5
điểm ủng hộ kháng chiến. Bản tuyên ngôn
5 điểm của Hội Cao Đài cứu quốc 12 phái
thống nhất, đã khẳng định lập trường của
các giáo phái Cao Đài yêu nước, chọn con
đường đồng hành cùng dân tộc. Đồng thời
là định hướng quan trọng để các giáo phái
vận động các chức sắc, chức việc và tín đồ
Cao Đài tham gia kháng chiến chống thực
dân Pháp [2:145].
Sau đại hội lần thứ II, Hội Cao Đài
cứu quốc tập trung nỗ lực tuyên truyền,
vận động chức sắc, tín đồ làm thất bại âm
mưu của thực dân Pháp chia rẽ, “dùng
người Việt đánh người Việt, dùng người
Cao Đài đánh người Cao Đài”. Bằng biện
pháp kiên trì thuyết phục, Hội đã vận động
được một số đông anh em đi lính cho Pháp
trở về với Tổ quốc và một số đông tín đồ từ
vùng tạm chiếm trở về vùng tự do trong
chiến khu. Trong thư gửi cụ Cao Triều
Phát, Chủ nhiệm Tổng bộ Việt Minh
Hoàng Quốc Việt viết: “Trước sức đoàn
kết chặt chẽ của các tôn giáo chung quanh
chính phủ kháng chiến, mưu mô dùng tôn
giáo để chia rẽ dân tộc ta của thực dân
Pháp bị hoàn toàn thất bại.
Theo gương của đồng bào Cao Đài
kháng chiến, một số (tín đồ) Cao Đài lầm
lẫn đã tỉnh ngộ và đã quay về với Chính
phủ, mang theo cả vũ khí (). Kết quả này
đã gây sự phấn khởi và lòng tin tưởng cho
LỰC LƯỢNG CAO ĐÀI YÊU NƯỚC Ở NAM B TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
108
toàn thể đồng bào toàn quốc hiện đang
chiến đấu” [1:46].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao
những đóng góp của cụ Cao Triều Phát
trong việc tổ chức, lãnh đạo Hội Cao Đài
cứu quốc, trong thư gửi cho cụ Cao Triều
Phát có viết:
“Zù xa cách, Chính fủ và tôi lúc nào
cũng nghĩ đến công nghiệp của Ông đối
với Tổ quốc, đối với cuộc Kháng chiến và
rất mong có ngày gặp Ông.
Cuộc kháng chiến ngày càng gay go,
sự đoàn kết nhân zân ngày càng fải siết
chặt. Ông là một lãnh tụ của một tôn záo
lớn, một vị Nghị sĩ, một bậc Lão thành,
nhiệm vụ Ông đối với sự đoàn kết ở Nam
Bộ rất nặng nề. Chính fủ, Quốc hội cũng
như đồng bào Trung, Bắc rất hâm mộ và
tín nhiệm ông.
Với sự đồng tâm nhứt trí của toàn thể
quốc zân, ngày vinh quang của đất nước sẽ
gần đây. Ngày ấy cùng Ông uống một
chung rượu đào, ngâm một bài thơ đắc
thắng, là lòng mong mỏi của tôi.” [1:47].
Cho đến năm 1954, Hội Cao Đài Cứu
quốc còn tổ chức thêm ba lần Đại hội: lần
III (cuối năm 1950); lần IV (đầu năm
1952); lần V (tháng 3-1953) [10:327].
Dưới sự lãnh đạo của Hội Cao Đài cứu
quốc và Hội Thánh Cao Đài duy nhất, chức
sắc, tín đồ Cao Đài thực hiện chủ trương
tiêu thổ kháng chiến của cách mạng. Ở một
số nơi, chức sắc, tín đồ Cao Đài đồng tình
phá bỏ thánh thất và tản cư về các vùng tự
do vừa tu hành, vừa đánh giặc. Đông đảo
bổn đạo Cao Đài đều tích cực tham gia
hoạt động cứu quốc, đoàn kết xung quanh
Mặt trận Việt Minh, ủng hộ cách mạng
chống Pháp. Đến năm 1949, ở Nam Bộ,
Cao Đài Cứu Quốc đã thu hút gần một
triệu tín đồ, chức sắc tham gia, đã có 19/20
tỉnh lập ban chấp hành với 57 ban chấp
hành huyện và 581 ban chấp hành xã
[10:327].
Để ghi nhận những đóng góp, Tháng
4-1949, cụ Cao Triều Phát được tặng Huân
chương Độc lập hạng nhì, Hội Cao Đài cứu
quốc được tặng thưởng Huân chương
kháng chiến hạng nhì. Đối với Cao Đài
Ban Chỉnh đạo, Ngày 8-12-1954, Chính
phủ Việt Nam tặng Huân chương kháng
chiến hạng Nhất cho gia đình Giáo tông
Nguyễn Ngọc Tương và một huân chương
kháng chiến hạng hai cho Hội thánh Cao
Đài Ban Chỉnh Đạo vì thành tích: Ban
Chỉnh Đạo Bến Tre đã giữ vững thái độ
trung thành với Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, vận động đông đảo tín đồ
tham gia kháng chiến.
3. Kết luận
Từ khi ra đời năm 1926, đạo Cao Đài
có quá trình phát triển nhanh chóng, qui tụ
được một số lượng tín đồ đông đảo. Dù có
chia thành nhiều chi phái khác nhau, nhưng
không thể phủ nhận sức ảnh hưởng của tôn
giáo này trong đời sống chính trị - xã hội ở
Nam Bộ. Những năm kháng chiến, trước
âm mưu và thủ đoạn chia rẽ của thực dân
Pháp, một bộ phận Cao Đài hợp tác với
Pháp chống lại cách mạng. Do đó, đưa đến
những nhận thức chưa đầy đủ về vai trò,
đóng góp của các chi phái đạo Cao Đài
trong kháng chiến chống Pháp. Qua sự
phân tích ở trên, có thể thấy, một bộ phận
khác gồm nhiều chi phái khác nhau đã
được tập hợp trong Hội Cao Đài cứu quốc,
tích cực hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: Bất kỳ đàn ông, đàn bà,
bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn
giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt
Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc Hội Cao Đài cứu quốc
đã động viên hàng triệu chức sắc, tín đồ 12
phái Cao Đài hăng hái tham gia kháng
PHẠM VĂN PHƯƠNG
109
chiến cứu nước, đóng góp sức người, của
cải tham gia tích cực vào các phong trào:
Tuần lễ vàng, Quỹ độc lập, Hũ gạo kháng
chiến, Quyển sổ vàng Cao Đài cứu quốc
góp phần to lớn đưa cuộc kháng chiến
chống Pháp đến thành công. Nhiều tấm
gương hi sinh anh dũng của tín đồ Cao Đài
gây sự xúc động mạnh mẽ trong nhân dân,
tiêu biểu như kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt.
Các chức sắc lớn của Đạo Cao Đài vừa
tham gia hành đạo vừa tham gia các cơ
quan chính quyền, mặt trận, đoàn thể, quân
đội có những đóng góp xứng đáng cho
dân tộc trong cuộc trường kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Văn Hoàng (2012), “Hội Cao Đài 12
phái hiệp nhất một nét son trong giáo sử Cao
Đài Việt Nam”, Tạp chí Cao Đài, (Số 9).
2. Phan Văn Hoàng (2011), Cao Triều Phát -
Nghĩa khí Nam Bộ, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
3. Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam Bộ
kháng chiến (2011), Lịch sử Nam Bộ kháng
chiến, tập 1 (1945 – 1954), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
4. Hội thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo (2012),
“Truyền thống đoàn kết trong cộng đồng Cao
Đài qua các thời kỳ”, Tạp chí Cao Đài,
(Số 10).
5. Cao Bạch Liên, Huệ Khải (2010), Hành trang
Cao Triều Phát, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
6. Cao Bạch Liên (2010), “Giồng Bốm và tòa
thánh Ngọc Minh”, Tạp chí Cao Đài, (Số 5).
7. Trung ương Cục miền Nam, Báo cáo tình
hình công tác Cao Đài Vận từ năm 1950 –
1952, Tài liệu số 18096, lưu tại thư viện
Phòng Khoa học Quân sự, Quân khu 7.
8. Đinh Quang Tiến (2014), “Thánh thất Cao
Đài Ngọc Minh (Bach Liêu) truyền thống xưa
và nay”, Tạp chí Cao Đài, (Số 16).
9. Trần Quang Vinh (1967), Lịch sử Cao Đài
trong thời kỳ phục quốc 1941 – 1946 (Hồi
ký), Nxb Tòa Thánh Tây Ninh.
10. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Một số tôn giáo
ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
11. Philippe Devillers (1993), Pari – Sài Gòn –
Hà Nội, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày nhận bài: 09/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37_7341_2215089.pdf