Tài liệu Luật tục Êđê từ cái nhìn tiền giả định bách khoa về ứng xử trong mối quan hệ giữa người đứng đầu với cộng đồng buôn làng - Phạm Thị Xuân Nga: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
45Ngày nhận bài: 15/4/2017; Ngày phản biện: 10/5/2017; Ngày duyệt đăng: 10/6/2017
(1) Viện Khoa học Xã hội vùng Tây Nguyên; e-mail: xuanngapham1982@gmail.com
LUẬT TỤC ÊĐÊ
TỪ CÁI NHÌN TIỀN GIẢ ĐỊNH BÁCH KHOA VỀ ỨNG XỬ
TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU VỚI
CỘNG ĐỒNG BUÔN LÀNG
Phạm Thị Xuân Nga(1)
Luật tục là tri thức của một dân tộc về tự quản và quản lí cộng đồng. Luật tục Êđê là sản phẩm của xã hội cổ truyền - xã hội được tổ chức trên cơ sở gia đình mẫu hệ,
một xã hội còn mang tính khép kín. Bài viết trình bày những hiểu biết về ứng xử của người
Êđê trong cộng đồng. Đáng chú ý là mối quan hệ đa diện: quan hệ giữa cộng đồng buôn, làng
với người đứng đầu buôn, làng; các điều khoản liên quan đến tài sản, thừa kế, các trọng tội
làm tổn hại đến lợi ích cộng đồng, vi phạm phong tục tập quán, đạo đức xã hội,
Từ khóa: Luật tục Êđê; tiền giả định; tiền giả định bách khoa; văn hóa ứng xử.
Trong giao tiếp ngôn n...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 511 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật tục Êđê từ cái nhìn tiền giả định bách khoa về ứng xử trong mối quan hệ giữa người đứng đầu với cộng đồng buôn làng - Phạm Thị Xuân Nga, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
45Ngày nhận bài: 15/4/2017; Ngày phản biện: 10/5/2017; Ngày duyệt đăng: 10/6/2017
(1) Viện Khoa học Xã hội vùng Tây Nguyên; e-mail: xuanngapham1982@gmail.com
LUẬT TỤC ÊĐÊ
TỪ CÁI NHÌN TIỀN GIẢ ĐỊNH BÁCH KHOA VỀ ỨNG XỬ
TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU VỚI
CỘNG ĐỒNG BUÔN LÀNG
Phạm Thị Xuân Nga(1)
Luật tục là tri thức của một dân tộc về tự quản và quản lí cộng đồng. Luật tục Êđê là sản phẩm của xã hội cổ truyền - xã hội được tổ chức trên cơ sở gia đình mẫu hệ,
một xã hội còn mang tính khép kín. Bài viết trình bày những hiểu biết về ứng xử của người
Êđê trong cộng đồng. Đáng chú ý là mối quan hệ đa diện: quan hệ giữa cộng đồng buôn, làng
với người đứng đầu buôn, làng; các điều khoản liên quan đến tài sản, thừa kế, các trọng tội
làm tổn hại đến lợi ích cộng đồng, vi phạm phong tục tập quán, đạo đức xã hội,
Từ khóa: Luật tục Êđê; tiền giả định; tiền giả định bách khoa; văn hóa ứng xử.
Trong giao tiếp ngôn ngữ, để đạt hiệu quả,
những người tham gia cần phải có các tri thức
nền cũng như những tri thức về cách thức tổ chức
ngôn từ. Tiền giả định (presupposition) là những
căn cứ cần thiết để người nói tạo ra ý nghĩa tường
minh trong phát ngôn của mình. Theo Đỗ Hữu
Châu1, tiền giả định là “những hiểu biết được
xem là bất tất phải bàn cãi, bất tất phải đặt lại
thành vấn đề, đã được các nhân vật giao tiếp mặc
nhiên thừa nhận, dựa vào chúng mà người nói
tạo nên ý nghĩa tường minh trong phát ngôn của
mình”, có hai loại tiền giả định: Tiền giả định
bách khoa (TGĐBK) và tiền giả định ngôn ngữ.
TGĐBK là “bao gồm tất cả những hiểu biết về
hiện thực bên trong và bên ngoài tinh thần con
người mà các nhân vật giao tiếp cùng có chung,
trên nền tảng đó mà nội dung giao tiếp hình thành
và diễn biến”2, Tiền giả định ngôn ngữ là “những
tiền giả định được diễn đạt bởi các tổ chức hình
thức của phát ngôn”3.
Nghiên cứu, tìm hiểu giá trị của bộ luật tục
thông qua nghệ thuật ngôn ngữ mà TGĐBK là
một điển hình, được xem là quan trọng và cần
thiết. Tư liệu sử dụng cho bài viết này được lấy từ
1. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 - Ngữ
dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.366;
2. Đỗ Hữu Châu (tlđd), tr. 395;
3. Đỗ Hữu Châu (tlđd), tr. 397;
các Klei duê4 của luật tục Êđê (Klei bhiăn Êđê)5
đã được L.Sabatier sưu tầm, sắp xếp thành 236
điều với 11 chương. Các nhân vật giao tiếp cần
phải có kiến thức về đặc trưng văn hóa của người
Êđê. Đó là văn hóa mẫu hệ, mà vai trò của người
phụ nữ vừa là vai trò quyền lực vừa là vai trò
dòng tộc: Con gái là người coi sóc tổ tiên, ông bà,
đất đai, núi rừng; con gái đi hỏi chồng, cư trú bên
nhà vợ, con cái mang họ mẹ,... Những tri thức
này được gọi là tri thức nền.
Trong luật tục Êđê, các câu có TGĐBK về
quy định cách ứng xử trong các mối quan hệ xã
hội chiếm số lượng khá lớn. Điều này cho thấy,
ngoài những quy định chung, những quy định về
cách ứng xử của con người với thế giới tự nhiên
thì hơn hết, vấn đề đặt ra trong luật tục là nhằm
giải quyết các mối quan hệ cộng đồng của làng
buôn: Quan hệ sở hữu, quan hệ giữa Chủ làng
với dân làng và ngược lại. Qua sự phân bố các
điều khoản (ĐK) của luật tục, chúng ta thấy vấn
đề sở hữu tài sản, các vấn đề quy định về việc
bảo vệ người thủ lĩnh - người đầu làng được chú
4. Trong tiếng Êđê, klei có nghĩa là lời nói, duê có nghĩa là
nối kết; klei duê có nghĩa là lời nói có sự nối kết với nhau
bằng các âm tiết cùng vần hoặc bằng từ có các âm tiết tương
đồng; klei duê có nghĩa tương đồng với cụm từ “lời nói vần”
trong tiếng Việt;
5. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên, 1996), Luật tục Êđê, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
46 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
trọng, tiếp theo là các điều khoản bảo vệ lợi ích
cộng đồng. Dù ở điều khoản nào, các quy định
cũng đều cụ thể, rõ ràng với nguyên tắc bao trùm
lên mọi quan hệ là quan hệ cộng đồng. Những sự
việc làm tổn hại đến lợi ích của cá nhân, gia đình,
cộng đồng, vi phạm đến phong tục tập quán, đạo
đức xã hội, đều là cơ sở để người Êđê xây dựng
các điều khoản trong luật tục.
1. Tiền giả định bách khoa về các tội xúc
phạm đến người đầu làng và quy định các tội
của Trưởng buôn
Luật tục dành riêng chương II với 33 điều
gồm 224 câu klei duê nói về các tội xúc phạm đến
người đầu làng; chương III với 11 điều, 62 câu để
quy định các tội của Trưởng buôn. Chúng ta có
thể thấy luật tục đã rất chú trọng đến mối quan hệ
then chốt này trong xã hội cộng đồng Êđê.
Quan hệ giữa người đầu làng (Khoa pin
ea) và các thành viên đối với người Êđê rất quan
trọng. Đây là mối quan hệ hai mặt: Trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền của người dân cũng như của
người đầu làng, vừa đảm bảo kỉ cương xã hội,
vừa đảm bảo quyền bình đẳng trong quan hệ cộng
đồng làng buôn.
Cây đa, cây sung được đồng bào Êđê quan
niệm là nơi trú ngụ của thần linh, là biểu tượng
của người Đầu làng. Người dân phải tôn trọng,
không được xúc phạm đến danh dự và thân thể
Khoa pin ea, không được đe dọa và mua chuộc
Chủ buôn; mọi người phải tuân thủ các quy định
của cộng đồng mà Chủ buôn là người điều hành:
Huĩ mniê amâo mă klei, êkei amâo mă
asăp, nũ khăng amâo khăp klei khua, hõng klei
amĩ ama nũ, nũ khăng amâo gưt. Anăn mâo kđi
arăng kơ nũ.
(Nếu là đàn bà không chịu vâng lời, là đàn
ông không chịu vâng lệnh, là những người không
ưa lời dạy bảo của người thủ lĩnh cũng như không
nghe lời dạy bảo của cha mẹ chúng, thì chúng đều
là những kẻ có tội, có việc phải đưa ra xét xử giữa
người ta với chúng) (ĐK 25).
Ngoài ra, người dân phải có nghĩa vụ giúp
đỡ người đầu làng khi “có khó khăn trong việc
chòi rẫy, có khó khăn trong việc sửa chữa chốn
ở, nơi ăn” (ĐK 36).
Mặt khác, người Chủ buôn không được
lộng hành; sử dụng quyền ủy thác để vô cớ bắt
bớ, giam cầm, xử oan người khác, không làm
tròn trách nhiệm là “cây đa, cây sung” của mình,
không chăm lo chu đáo đến dân làng. Điều 66
quy định về việc Trưởng buôn từ chối, không
xét xử các vụ việc thuộc thẩm quyền của mình
như sau:
~u mnu\t ko\ êa, hra ko\ [uôn, `u pô dla\ng
adei amuôn [uôn sang. Lip khư grio\ amâo `u
kđah; `u jing sah mdro\ng, amâo `u lac brei kđi
kơ adei tlang yang [uôn. Pưk gri amâo ` u dra\ brei
ho\ng k[ang, sang gri `u amâo bi knưl, m’iêng ti
tu\l, amâo `u djip kci\ng brei. Ana\n kthu\l `u, rai
mnuih [uôn sang `u.
(Ông ta là cây đa đầu suối, cây sung đầu
làng, là người trông coi những người anh em
con cháu dân làng () Cái nong xổ vành, ông
ta không lo cạp lại; cái nia xổ vành, ông ta cũng
không lo cạp lại. Là người tù trưởng nhà giàu mà
ông ta không lo xét xử các vụ việc giữa dân làng.
Nhà đã siêu mà ông ta không lo lấy chạc chống;
nhà đã vẹo mà ông ta không lo đỡ cho đứng thẳng
lên; váy áo đã rách bươm, ông ta không lo vá víu
lại giùm. Như vậy là ông ta có tội, tội làm tan cửa
nát nhà buôn làng ông ta) (ĐK 66).
Như vậy, cuộc sống của đồng bào phụ
thuộc rất nhiều vào người đầu làng, người ta ví
những quan hệ rạn nứt, trong đời sống như là
“cái nong, cái nia xổ vành, nhà siêu, nhà vẹo, váy
áo rách bươm”. Đây là những hình ảnh quen
thuộc, gần gũi với đồng bào. Đứng trước những
vấn đề đó, hơn ai hết, người thủ lĩnh phải khéo
léo giải quyết dưới sự phối hợp tận tình của các
thành viên trong buôn làng.
2. Tiền giả định bách khoa về quyền
hạn, nhiệm vụ của Chủ đất
Mặc dù chỉ chiếm 8 điều với 44 câu klei
duê trong luật tục nhưng người Êđê đã cho thấy
nhiệm vụ rất rõ ràng của người Chủ đất (Pô lăn):
La\n `u kriê, dliê `u êma\ng, `u ra\ng kriê
ma\ la\n`u pô. Pro\ng anak `u mtô, pro\ng cô `u lac,
tloh lo\ cuê, ahuê lo\ kbua.\
(Người đó sẽ trông coi đất đai, thăm nom
rừng rú, tự mình phải chăm nom mảnh đất mà
mình là chủ. Khi con đã lớn, họ phải dạy. khi
cháu đã khôn, họ phải bảo, hễ đứt thì phải nối, hễ
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
47Số 18 - Tháng 6 năm 2017
yếu thì phải buộc lại cho vững) (ĐK 229).
Theo quy định, Pô lăn là một phụ nữ lớn
tuổi, bà trông coi, quản lí đất đai chủ yếu về mặt
tâm linh và nghi lễ. Nhưng trên thực tế, quyền hạn
này lại thường thuộc về người đàn ông. Người
đàn ông này thay mặt vợ hoặc thuộc về dòng nữ
đã được chỉ định làm chủ đất. Với tư cách là chủ
đất, ông ta thay mặt dân làng trông nom, quản lí
việc khai thác, sử dụng đất rừng làm nương rẫy,
cũng như việc khai thác rừng vào các hoạt động
sinh kế khác.
Quyền sở hữu đất đai thuộc về cả cộng
đồng mà Chủ đất là người đại diện: La\n ala, êa
djuh, hmei gơ (Đất đai, sông suối, rừng cây, là
của chúng tôi (Chủ đất)) (ĐK 234). Kẻ nào xâm
phạm đến đất đai thì hắn là kẻ có tội, phải đưa ra
xét xử:
Lăn `u sua, êa `u plah, la\n sah mdro\ng
`u mmia\. Dliê `u hba\n, la\n `u hgan, car emeh
êman `u ktưn. ~u pro\ng grưh mrưh ai, `u mlai
cữ mtâo. Ana\n mâo kđi ara\ng kơ `u.
(Đất đai hắn chiếm, sông suối hắn đoạt;
đất đai của tù trưởng nhà giàu hắn giành lấy.
Rừng cây, hắn xí; đất đai hắn choán; rừng tê
giác, rừng voi, hắn cũng lấn chiếm. Hắn là kẻ to
gan lớn mật, dám vượt cả non cao. Như vậy, có
việc phải đưa ra xét xử giữa người ta với hắn)
(ĐK 235).
Trong quan niệm xưa của người Êđê, quyền
sở hữu đất đai của một dòng họ được coi là tuyệt
đối và trường tồn với một mảnh đất nhất định:
Luc amiêt kơ amuôn. Luc amuôn kơ cô.
Luc pô anei kơ pô adih. Amâo mâo pô jho\ng plah
ôh. Amâo mâo pô plah kơ bha, sua kơ dưi ôh.
(Mất cậu, để lại cho cháu. Mất bà, để
lại cho cháu. Mất người này, để cho người kia.
Không ai dám chiếm lấy. Không ai dám giành
lấy mà chia cắt, chiếm lấy bằng được) (ĐK 230).
Vốn xưa kia, ở người Êđê, chỉ có những
phụ nữ thuộc dòng Niê Kđăm mới được giữ vai
trò chủ đất. Tập tục này có nguồn gốc từ một
huyền thoại kể rằng: Xưa kia, khi các dòng họ
Êđê từ hang đất Ađrênh chui lên, do chậm chạp,
họ Niê Kđăm lên sau cùng. Lúc ấy, các dòng
họ trước đã chiếm hết sông, suối, đồng cỏ, cây
cối, dòng họ Niê Kđăm bèn dậm chân xuống
đất và tuyên bố họ là chủ đất (kđăm có nghĩa là
dậm chân).
Các buôn làng Êđê đều có ranh giới đất đai
và rừng núi, thuộc sở hữu chung, các thành viên
có thể chiếm dụng nhưng không được quyền sở
hữu. Ngoài Chủ đất, người Êđê cũng gắn cho đất
của buôn một vị thần cai quản làm tăng sự linh
thiêng. Như vậy, xâm chiếm đất tức là xúc phạm
đến thần linh và “dám vượt cả non cao” (Chủ
đất) thì sẽ bị trừng phạt.
3. Tiền giả định bách khoa về những vi
phạm lợi ích cộng đồng
Luật tục dành 27 điều với 183 câu klei
duê để quy định các tội vi phạm đến lợi ích cộng
đồng, bao gồm: Tội lang thang, lêu lổng không
chịu sống theo khuôn phép của cộng đồng; tội
không giúp đỡ người hoạn nạn; tội làm lây lan
bệnh truyền nhiễm cho người khác; tội làm cháy
rừng, hỏa hoạn; tội xâm phạm phong tục – tập
quán của làng.
Đối với người Êđê, tính cộng đồng luôn
được đặt lên hàng đầu, vì vậy, ai làm những
điều vi phạm đến lợi ích chung của cộng đồng
đều bị xử lí nghiêm. Họ quan niệm dù là dòng
họ nào thì cũng có nguồn gốc “từ ông bà xưa”.
Sự tương thân tương ái thể hiện trong cuộc sống
thường ngày, trong khó khăn, hoạn nạn. Bất cứ ai
đi ngược với truyền thống này, như không chăm
sóc người ốm chu đáo, bỏ đi hay lẫn tránh khi có
tiếng kêu cứu cần sự giúp đỡ thì phải đưa hắn
ra xét xử giữa người đầu làng với hắn. Đặc biệt
là các vụ gây cháy rừng, âm mưu gây hỏa hoạn,
chôn cơm nguội, mai táng trong rẫy người khác
làm uế tạp, cằn cỗi đất đai, dơ bẩn nguồn nước
luật tục sẽ phạt:
~u tăm brei ênua, ba brei kđi, cia\ng khi\n
amâo lo brei, mlei amâo lo\ tu\, ju\ jhat bi hlao, kuê
bi ja\k lo\ hriê, mdiê bi ja\k lo\ brei, asei mlei bi
suaih mngac. Ana\n mâo kđi. ~u tuh brei la\n ho\ng
kbao kô#. U|n ko\ kpih brei pô hma.
(Hắn sẽ phải trả giá, nộp phạt để điều cấm
kỵ được bỏ qua, để điều xấu xa được gột sạch,
để kê trở lại sinh sôi, lúa lại đâm bông nảy hạt,
để con người lại mạnh khỏe tắn tươi. Như vậy là
có chuyện phải xét xử. Hắn phải tẩy uế đất bằng
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
48 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
trâu trắng. Một con lợn bạch sẽ được giết để hiến
sinh cho người chủ rẫy) (ĐK 94).
Tập quán của người Êđê buộc phải hiến
sinh bằng trâu trắng, lợn trắng trong các lễ trọng
để tạ tội. Như vậy, vi phạm các tội nêu trên được
xem là trọng tội.
Những kẻ lang thang, phiêu bạt, không
quê hương trong luật tục Êđê được ví như con
dao cùn, như chà gạc quằn, như con ngựa hoang,
trâu hoang, như con lợn, con trâu. Cách ví von
bằng các hình ảnh khá quen thuộc, gần gũi và
sinh động này có lẽ rất dễ nhớ, dễ hiểu đối với
đồng bào Êđê vốn mưu sinh bằng tập tục canh tác
nương rẫy:
Mnuih dho\ng đa\ kga\ ku, mnuih lu klei.
Mnuih aseh kmuê kbao kmuê amâo mâo djuê
ana, ama ami\ (...). ~u duah đue\ hiu jơ\ng mngo\ ko\
my, si kru hlang. U|n rih jih asei; kbao rih jih asei;
`u duah boh klei, jih asei `u pô.
(Hắn là một kẻ như con dao cùn, như
cây chà gạc quằn, luôn luôn sinh sự. Hắn như
con ngựa hoang, con trâu hoang, không biết họ
hàng, gốc gác của mình, cha không có, mẹ cũng
không Hắn đi lang thang, phiêu bạt, chân ở
phía đông nhưng đầu lại ở phía tây, khác nào con
bò rừng trên rừng cỏ Như con lợn, con trâu
để hiến sinh, hắn sẽ chịu phạt vì chính những
chuyện hắn đã gây ra) (ĐK 69).
Về các dịch bệnh truyền nhiễm xảy ra
trong làng, luật tục quy định là phải báo ngay cho
thủ lĩnh của làng biết: Dja\p mta ra ênâo mâo klei
ju jhat, bi nao hưn kơh ho\ng khua (Hễ có huyện
này chuyện nọ, nhất là những chuyện hiểm nguy
thì bao giờ cũng phải cho người đi báo với đầu
làng)(ĐK 74).
Phải cách ly những người bệnh để tránh
lây lan:
Mnuih djo\ cut, djo\ phu\ng la, đa\m duah ba
kơ [uôn sang ôh, hui\ phu\ng `u duah ba, cut la
duah đi# kơ ara\ng. Kơyua ana\n ami\ ama, ga\p djuê
`u bi nga\ brei pưk hla\m dliê, hjiê hla\m kmrơ\ng,
brei `u dơng dôk hja\n `u.
(Người lên đậu, kẻ bị phong cùi hay lên
thủy đậu, không được đem họ về ở trong làng, sợ
rằng họ sẽ truyền bệnh đậu mùa, bệnh phong cùi,
bệnh thủy đậu cho người khác trong làng. Vì vậy,
cha mẹ họ, gia đình họ phải làm cho họ một túp
lều trong rừng, một cái lẫm trong rú, và họ phải
sống ở đó một mình) (ĐK 75).
Theo nhận thức của người Êđê, những
người bị bệnh là do thần quở, trời phạt làm cho
đau đớn thân xác, họ sẽ bị đuổi ra khỏi làng. Nếu
để lây bệnh cho người khác thì phải đưa họ ra
xét xử.
Những năm nóng nực, hạn hán, thần linh
hay gây ra bệnh hoạn, chết chóc, làng thường
phải kiêng cữ để được yên lành. Luật tục quy
định rằng:
Ku\ng gông knông cu\t, `u duah mu\t kma
hla\m [uôn sang, ana\n kthu\l. Tơdah yang [ie adiê
nga\, lo\ mâo rua\ duam, m’ai `u. () Tơdah djiê,
ênua kơ `u. Tơduh êka, kđi kơ `u.
(Kẻ nào khi làng vào cữ, đường đã cắm
dấu cấm đi, đường đã trồng cây chắn lại, mà
vẫn cứ vào làng thì kẻ ấy có tội. Nếu ông trời
và các thần linh lại nổi giận, gây ra bệnh hoạn,
chết chóc thì hắn phải chịu trách nhiệm. ()Nếu
người đó chết thì hắn phải trả giá mạng người.
Còn nếu người đó chỉ bị thương tật thì hắn phải
chịu phạt một khoản bồi thường) (ĐK 84).
4. Tiền giả định bách khoa về các điều
khoản liên quan đến tài sản
Tài sản và quyền sở hữu luôn là vấn đề
quan trọng của đời sống cộng đồng, dù cộng đồng
đó còn ở trình độ chậm tiến hay đã đạt tới trình độ
văn minh. Luật tục Êđê có 38 điều với 257 câu để
quy định về vấn đề này.
Về việc thừa kế tài sản, người Êđê theo chế
độ gia đình mẫu hệ nên việc tính tử hệ và thừa kế
tài sản đương nhiên phải theo dòng mẹ:
Asei djiê bi êngiê wa\ng, asei djiê bi êngiê
kga\, kông mnuh buh ba, anu\ mna\k ba\k ba, êlu\
hua\, mngan [ơ\ng djam, hjei, mnhat, jông, dho\ng
kri\, mnia\, kli\tjua\, wa\ng điêt, kga\ điêt, hna kniêt,
đi\ng tiông, breai bi dja\p, dra\p bi ênu\m, asei gơ\
djiê êngiê wa\ng, asei gơ\ djiê kga\, ka thâo êlâo aê,
ka thâo êlâo aduôm, bhia\n bi ma\ mơ\ng dưm.
(Người đã chết thì cái niết, cái chà gạc
được tự do, cùng với vòng đeo tay, chuỗi hạt
cườm đeo cổ, cùng với các chén bát để ăn cơm,
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
49Số 18 - Tháng 6 năm 2017
cái dùi, cái búa, cái rìu, con dao găm, cái hái và
đôi dép da, một cái niết nhỏ, một cái chà gạc nhỏ,
một cái ná nhỏ với ống đựng tên, phải được đem
trả đầy đủ cho mẹ người chết hoặc người thừa kế
gái bà ta) (ĐK 182).
Một phần của cải của người chồng đã chết
cũng phải đem trả về cho mẹ hoặc chị em gái của
anh ta. Vì mọi của cải trong gia đình đều thuộc
quyền quản lí của mẹ hay người đại diện cho mẹ
là chị cả. Điều 181 nói về việc giữ gìn của cải đã
khẳng định: Các vật lớn hay nhỏ, quý hay không
quý, các nồi hoặc chén bát đều do người chị cả
trông coi và giao lại. Tài sản của con trai chưa
vợ thì phải giao cho mẹ hoặc chị em gái của anh
ta quản lí: Tơdah `u thâo nga\n sa asa\r krah, sa
đah po\k, sa arua\t anu\, sa boh kông, brei he\ kơ
ami\ ama, kơ juê êngai, amaiadei `u pô; tơdah `u
amâo brei, kthu\l `u. (Nếu anh ta có, dù chỉ một
cái nhẫn, dù chỉ một cắc bạc, một chuỗi cườm,
một vòng đồng đeo tay, anh ta cũng phải đưa cho
mẹ, đưa cho chị em. Không đưa là anh ta có tội)
(ĐK 183). Điều khoản 185 cũng quy định rằng,
người chồng không được lấy tài sản của vợ và
con (gái) để đem cho các cháu (con chị em gái)
của mình. Nếu lấy vụng, lấy trộm đem về cho
cháu thì anh ta phải bồi thường hoặc trả lại, nếu
không sẽ bị xét xử.
Về việc mua bán, đổi chác, cho mượn của
cải, đồ vật cũng được quy định rất rõ trong luật
tục. Trước tiên, việc mua bán cần phải xem xét,
cân nhắc, phải hỏi ý kiến vợ hoặc chồng, cha mẹ,
người già:
Êkei `u blei pliê, mniê `u bliê mcưm. Nu
lu mti\l phiang, prang [hu, `u lu nga\n duah blei.
Anăn mâo klei ung jỗ mô# [uah, sah mdro\ng đru
ăl kơ `u. () Khua amâo `u ktleh; hđeh amâo
`u bi mhac, amâo `u lac ya\l. () ~u gao ku\ng,
gao knông, `u gao k[ông mtô lac. Ana\n mâo kđi
ara\ng.
(Anh đàn ông mua bừa, chị đàn bà sắm ẩu
đều là người lắm của, nhiều âu đồng, chậu thau,
đem tiêu, đem cho hoang phí. Vì vậy, họ làm cho
người chồng chê, người vợ trách, làm cho tù
trưởng nhà giàu nổi giận Họ chẳng hỏi ý kiến
người già, cũng không hỏi ý kiến người trẻ. Họ
mua sắm cái gì chẳng hề nói cho ai hay Họ là
những kẻ bất chấp các dấu cữ, bất chấp các con
đường cấm, không đếm xỉa đến mọi lời khuyên bảo
răn dạy. Vì vậy phải đưa họ ra xét xử) (ĐK 186).
Việc ai đó lợi dụng trẻ em mà đổi chác,
mua bán gian trá, cũng bị khép thành một loại
tội để đưa ra xét xử, đó cũng là lẽ đương nhiên
trong xã hội nói chung và trong cộng đồng Êđê
nói riêng.
Kẻ mượn tiền bạc, của cải mà quá hạn vẫn
lần khần không chịu trả thì buộc hắn phải trả gấp
ba (Nếu đã quá hạn, mà hắn chưa đem trả thì hắn
buộc phải trả thêm gấp ba lần cái hắn đã mượn).
Còn nếu quá hạn mà vẫn một mực không trả, thì
người có của cho mượn được đến nhà và lấy bất
cứ cái gì mà hắn có để bắt nợ: Tơdah êgao leh
kleh bi kcah, `u amâo ciu; tơ [uh cing `u ti ktai,
ara\ng kleh; tơ [uh ceh `u ti gơ\ng, ara\ng ri\t; tơdah
`u êku\t pi\t đih, ara\ng râo; ara\ng amâo ra\k mlâo,
ara\ng ma\ gô# ktan ana\p mta `u, amâo soh. (Nếu
thấy trên giá treo chiêng nhà hắn có chiêng, cứ
tháo chiêng lấy đem đi; nếu thấy ở cột ché nhà
hắn có ché, cứ cởi ché lấy bê đi; nếu thấy hắn
ngủ, cứ đành thức hắn dậy và trước mặt hắn, cứ
lấy đi những thứ gì mà hắn không chịu trả chẳng
có tội tình gì mà sợ) (ĐK 190).
Các hành vi của con người xâm phạm đến
quyền lợi của người khác đều được luật tục quy
thành từng tội cụ thể như: tội ăn cắp vặt; tôi tớ
ăn cắp của cải của chủ; ăn trộm ngũ cốc; ăn trộm
mật ong; đánh cắp thú rừng dính bẫy; đổ trộm cá
trong đơm; bắt trộm gia súc, gia cầm Về tội
ăn trộm trâu bò, theo luật tục buộc tội thì: Tơdah
leh `u cuh [ơ\ng he\, thâo dah leh `u chi\ he,\ `u
lo\ kpung brei dua mkua tlâo êdei `u brei (Nếu
hắn đã ăn trộm một con vật mà sau đó đã ăn thịt
hoặc đem bán thì ngoài trả giá con vật, hắn
phải đền hai con nữa, có nghĩa là hắn phải trả lại
gấp ba, ngoài con vật hắn đánh cắp, hắn phải trả
lại một con trước, một con sau) (ĐK 210). Đó là
nguyên tắc “lấy một đền ba” trong truyền thống
của người Êđê.
Những ai đồng lõa, bao che cho kẻ trộm
cắp, cưỡng đoạt tài sản của người khác đều quy
vào tội liên đới. Người có công báo cho chủ nhân
bị mất cắp nơi kẻ gian giấu đồ vật lấy cắp sẽ được
gia chủ thưởng. Ngược lại, “với những kẻ bao
che, giấu giếm vật ăn cắp thì hắn sẽ phải trả gấp
ba, có nghĩa là ngoài cái đã mất, phải trả thêm
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
50 Số 18 - Tháng 6 năm 2017
cái trước và cái sau” (ĐK 213).
Luật tục về quyền sở hữu tài sản của người
Êđê nói lên quy chế chặt chẽ của cộng đồng, đồng
thời thể hiện tính công bằng, dân chủ và công
khai của họ.
Mặc dù hạn chế về lịch sử, hiểu biết khoa
học chưa cho phép cộng đồng Êđê chú tâm xây
dựng trong luật tục của mình những dấu hiệu ngôn
ngữ, tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định vai trò
của TGĐBK trong luật tục của họ có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc cung cấp tri thức nền
giúp cho cộng đồng Êđê, đặc biệt là những người
tham gia xét xử có điều kiện trau dồi vốn hiểu
biết về đời sống xã hội cũng như văn hóa của dân
tộc mình. Các loại TGĐBK trong văn bản luật
tục khá phong phú. Mỗi loại lại mang trong mình
một hệ thống các tri thức nền: hiểu biết về thế
giới tự nhiên, về con người, về văn hóa - xã hội,
về các phong tục tập quán, tín ngưỡng Điều
này đòi hỏi người Êđê khi tham gia vào các vụ
xét xử theo luật tục, phải hiểu biết sâu sắc mọi
mặt trong đời sống tự nhiên và xã hội. Những tri
thức đặc hữu của TGĐBK về ứng xử trong cộng
đồng tộc người đã góp một phần không nhỏ vào
việc làm căn cứ cho những người sử dụng và thực
thi luật tục dễ dàng, nhanh chóng hơn trong việc
thực hiện các điều khoản của luật tục Êđê.
Tài liệu tham khảo
[1] Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn
ngữ học, Ngữ dụng học, t.2, NXB. Giáo dục, Hà Nội;
[2] Lê Đông (1994), “Vai trò của thông tin
tiền giả định trong cấu trúc ngữ nghĩa - ngữ dụng
của câu hỏi”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2;
[3] Đỗ Việt Hùng (2013), Ngữ nghĩa học
từ bình diện hệ thống đến hoạt động, NXB. Đại
học Sư phạm Hà Nội;
[4] Hoàng Phê (1982), “Tiền giả định và
hàm ý trong ngữ nghĩa của từ”, Tạp chí Ngôn
ngữ, số 2;
[5] Đoàn Văn Phúc (1998), Từ vựng các
phương ngữ Êđê, NXB. Tp. Hồ Chí Minh, Hồ
Chí Minh;
[6] Ngô Đức Thịnh (Chủ biên, 1996), Luật
tục Êđê, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
[7] Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn, Nguyễn
Hữu Thấu (2001), Luật tục Êđê (Tập quán pháp),
NXB. Văn hóa dân tộc, Hà Nội;
[8] Viện Ngôn ngữ học - Sở Giáo dục và
Đào tạo Đắk Lắk (2004), Từ điển Việt - Êđê,
NXB. Giáo dục, Đắk Lắk.
EDE LAW
FROM AN ENCYCLOPEDIC PRECONCEPTUAL PERSPECTIVE ON BEHAVIOR
IN THE RELATIONSHIP BETWEEN THE LEADER AND THE VILLAGE COMMUNITY
Abstract: Customary law is knowledge of self-management and community managemen
for each person. Ede’s customary law is the product of traditional society organized on the
basis of matrilineal family and a closed society. The article presents insights on the behavior
of Ede in the community. Notably, the multi-faceted relationship are focused between the
village community and the village head; The provisions related to property, inheritance,
felons harm the public benifits, breach of customs and social morals, etc.
Keywords: Ede Law; hypothetical money; presuppose; cultural behavior.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 215_915_1_pb_0026_2152005.pdf